← Hồi 554 | Hồi 556 → |
Hot!!! Pi Network đã chính thức lên mainnet! Đừng bỏ lỡ cơ hội như bitcoin! |
Có lẽ do ý thức được viện binh quân Đường đã đến. Yến quân bất đầu rút về phía đông giữa đêm. Trong đêm. Lý Khánh An và mấy mươi đại tướng đứng trên thành đầu Phủ Thành Quan chăm chú quan sát điều động của địch quân bờ bên kia. Từng ngọn đèn trên trạm gác được dập tắt, bờ bên kia dẩn chìm vào trong bóng tối. Lúc này, một con chim câu từ phía bờ bên kia bay đến, đó là tin của xích hầu từ bên kia đưa đến.
"Đại tướng quân, tình báo mới nhất!"
Một tên hiệu úy đã đưa bức thư câu cho Lý Khánh An, hai thân binh vội giơ đuốc qua để Lý Khánh An có thể nhìn thấy rõ. Lý Khánh An đọc sơ qua bèn quay sang nói với mọi người: "Đây là thư của xích hầu phía Lương Mã Trại truyền đến, quân đội của Lý Hoài Tiên đã rút qua Lương Mã Trại rồi."
Lý Tự Nghiệp chau mày nói: "Nghe nói An Khánh Thụy đã đến quân trung đối phương, đây chắc là đê An Khánh Thụy thay Lý Quy Nhơn chú tướng, chi có thê mới có thể hiệp điều được Lý Hoài Tiên đồng thời rút quân."
"Ngươi lo là chúng lại bắt đầu đoàn kết họp tác ư?" Lý Khánh An cười hôi.
Lý Tự Nghiệp gật gật đầu nói: "Ty chức quà thực có phần lo lắng. An Lộc Sơn chắc cũng ý thực được mâu thuẫn giữa Lý Hoài Tiên và Lý Quy Nhơn, cho nên mới để An Khánh Thụy đế làm chủ tướng, có An Khánh Thụy ở giữa dung hòa, mâu thuẫn giữa hai người này rất có khả năng được hóa giải."
Lý Khánh An cười cười lắc đầu, "An Khánh Thụy có đến cũng vô dụng, bọn chúng cùng lắm là bằng mặt không bằng lòng, rút quân hành quân có lẽ không sao, nhung một khi liên quan đến lợi ích thiết thực của song phương, như thể kịch chiến, mâu thuẫn của chúng lại sẽ lộ rõ ra. Đấy không chi là mâu thuẫn giữa cá nhân họ, còn liên quan đến lợi ích riêng của hai bên. Lợi ích của chúng khó mà điều hòa được, điểm nay thì ta tin chắc."
"Có lẽ thế! Vấn đề đại tướng quân suy xét khác với bọn thuộc hạ. Có thể nhìn rõ hơn."
Lý Khánh An lại cười cười nói: "Sáng sớm ngày mai, chúng ta hãy đi xem Lý Quy Nhơn đóng trại, chắc sẽ có nhiều thu hoạch hơn."
Trời dẩn sáng, xích hầu bờ bên kia lại truyền đến tin. Tất cả binh sĩ Yến quân đều đã rút qua Lương Mã Trại, đi về phía Thượng Đảng. Lương Mã Trại năm ở phía đông Thấm Thủy chừng tám mươi dặm. Nơi đó địa thế hiểm rờ, công phòng kiêm bị, Yến quân rút khỏi Lương Mã Trại cũng có nghĩa họ đã xác định sẽ rút về Lộ Châu. Lý Khánh An lập tức hạ lệnh quân Bắc Đường vượt sông.
Trong vỏng hai canh giờ, công trình doanh của quân Bắc Đường đã dựng xong hai tòa cầu phao trên Thấm Thủy, đại quân bắt đầu thần tốc vượt sông. Lý Khánh An lệnh đại tướng Lệ Phi Nguyên Lề làm tiên phong, dẫn kỵ binh một vạn. Hạn hắn trong vỏng nửa ngày phải đoạt hạ Lương Mã trại. Lệ Phi Nguyên Lề lập tức nhận lệnh dẫn một vạn kỵ binh hiên ngang phóng về phía Lương Mã Trại.
Lý Khánh An thì cùng Lý Tự Nghiệp đến trước ngoài trú doanh của Lý Quy Nhơn. Lý Quy Nhơn hình như cũng đóan được Lý Khánh An sẽ đến thám thính doanh trại của mình hay sao, trước lúc đi hắn đã thu dọn sạch sẽ. Không đê lại bất kỳ tình báo có giá trị nào. Nhưng cũng chính vì thế đã nói rõ tâm tư Lý Quy Nhơn cẩn mật chừng nào.
Lý Tự Nghiệp thấy mấy tên thân binh của Lý Khánh An đang đo lường cự ly của trạm gác. Không khôi đi lên trước cười nói: "Đây chính là tiểu tiết quyết định thành bại của đại tướng quân đây."
Lý Khánh An cũng đi lên trước cười nói: "Tuy Lý Quy Nhơn tự nhận đã xóa sạch mọi dấu tích, bếp lừa bị tháo gỡ. Giếng nước cũng bị lắp. Nhưng từ các tháp trạm này, ta vẫn có thể nhận được rất nhiều tình báo."
Lý Tự Nghiệp hiếu kỳ hòi: "Ty chức xin được nghe tường tận."
Lý Khánh An cười cười, đi lên trước hòi thân binh: "Đã đo được mấy tọa rồi?"
"Hồi bầm đại tướng quân, bọn thuộc hạ đã đo được năm trạm."
"Được, cho ta kết quả đo lường nào."
Một hiệu úy thân binh đưa bảng đo lường cho Lý Khánh An. Bảng đo lường vuông vức trên đó có kẹp mười mấy trang giấy, trên đó đều là kiểu mẫu tiêu chuẩn, đó là một trong số các bảng biểu đo lường mà Lý Khánh An thiết kế, chuyên môn nhằm vào đo lường trạm gác của địch quân, ngoài ra còn có mấy mươi bảng biểu khác để đo doanh bàn. Kho lương thảo, và chuồng ngựa dê... Sau khi các quân đo lường chuyên môn kết thúc công tác sẽ giao cho tham mưu doanh tiến hành phân tích tổng kết. Cuối cùng có đươc đủ các tình báo chuẩn xác.
Cách làm này Lý Khánh An còn cHứa mờ rộng áp dụng tại An Tây, hắn mới thực thi từ sau khi vào Trung Nguyên. Cho nên Lý Tự Nghiệp cũng lẩn đầu thấy.
Lý Khánh An nhìn nhìn số liệu, bèn quay sang nhìn Lý Tự Nghiệp cười nói: "Đúng như ta dự đoán, mỗi toàn trạm aác cự ly đều đúng một trăm bước, không bất kỳ sai lệch sì; Trạm gác tuy đã bị gỡ đi không biết rõ độ cao. Nhung chúng ta vẫn có thê tìm được một ít manh mối."
Lý Khánh An đi đến trước một toàn trạm gác, đất trồi bề mặt trạm gác đã được xử lý sạch sẽ, lộ ra bốn chiếc lỗ cọc đen ngòm, Hắn chi chi lỗ cộc nhìn Lý Tự Nghiệp cười nói: "Những lỗ cọc này đã tiếc lộ rất nhiều bí mật. Trước tiên là cự ly bốn cây cọc này, đều đúng tám thước, rất chuẩn xác, hơn nữa năm tòa trạm gác đều thế này. Thứ hai nữa là độ sâu lỗ cọc. Thân binh của ta đã đi đo qua. Mỗi cọc sâu một trượng hai thước, năm tòa trạm gác có tất thảy hai mươi lỗ cọc đều giống hệt nhau. Tuy có sai lệch một hai tấc, nhưng không đáng kề, nói rõ điều gì, Lý tướng quân có nghĩ ra không?"
Lý Tự Nghiệp trầm tư một hồi nói: "Lý Quy Nhơn không cẩn phải cố ý đi đo độ sâu của lỗ, nói rõ một việc, tất cả độ dài của cộc đều giống nhau, trên cột có khắc số đo, cho nên mới chính xác như thế."
Lý Tự Nghiệp kinh thán nói: "Tên Lý Quy Nhơn này cả kích thước cũng phải quy định ư? Người này đúng là khiến người ta phải ngạc nhiên."
Lý Khánh An lắc đầu nói: "Chính từ những tiều tiết này, ta bèn có thề đoán được phong cách tác chiến của Lý Quy Nhơn, người này đánh trận cũng phải theo đúng quy cử quy tắc, một thứ đều phải làm theo kế hoạch bài trí. Thậm chí có phần hoi cứng nhắc, không giỏi dùng binh bất ngờ, ưu điểm nói rõ quân đội của hắn được huấn luyện kỹ càng, hai quân đối đầu sẽ là địch thủ đáng aờm, còn đại doanh phía nam chắc là trú địa của Thái Hy Đức bộ, rõ ràng có phần hỗn loạn hơn nhiều, từ các mặt đều không theo quy tấc, rất ư tùy tiện, thậm chí đến lúc rút đi còn một số tình báo cũng không thèm xóa bỏ, tạo thành khác biệt rõ ràng với đội quân của Lý Quy Nhơn. Nói rõ trận dụng lỏng lèo, là đội quân yếu nhất trong ba đội. Chúng ta có thế quan sát tình hình trú binh của chúng. Nếu được, chúng ta cũng có thể khử Thái Hy Đức bộ đầu tiên."
Lý Tự Nghiệp nghe mà tâm phục khẩu phục, trong mắt hắn Lý Quy Nhơn đã xóa đi tất cà dấu tích, sẽ không còn bất kỳ thu hoạch nào, nhung không ngờ Lý Khánh An lại từ tiêu tiết trạm gác đế suy luận ra nhiều tình báo như vậy, hơn nữa hợp tình hợp lý, sức thuyết phục rất mạnh, hắn không khỏi thờ dài nói: "Chi cẩn đi chung với đại tướng quân, mỗi lẩn đều có thu hoạch, thuộc hạ đã thọ giáo rồi."
Lúc này, từ phương xa có một đội kỵ binh xích hầu phóng thẳng đến trước mặt Lý Khánh An. Bọn họ lũ lượt xuống
Ngựa, hiệu úy đi đầu đã quỳ một chân thi lễ với Lý Khánh An nói: "Bẩm báo đại tướng quân, có tình báo mới nhất!"
"Nói!"
"Bọn thuộc hạ phát hiện có một đội Yến quân đóng thú tại huyện Trường Tử ngoài hai trăm dặm phía đông nam, có khoáng sáu ngàn người."
Lý Khánh An ngẫm nghĩ một lát bèn nghĩ ra. Huyện Trường Tử nằm giữa Trường Bình quan và Thượng Đàng, nhung lại không nằm trên đường đi chắc chắn phải qua. Đây chắc chắn do đối phương đã phát hiện ra đại quân Lý Quang Bật đã đến Trường Bình quan, cho nên mới trú binh tại huyện Trưởng Tử, nếu Lý Quang Bật tham gia tranh đoạt Thượng Đàng, vậy đội quân trú thủ Trường Tử này sẽ tạo thành uy hiếp nghiêm trọng với hậu cẩn quân của Lý Quang Bật.
Truyện Của Tui chấm Net
Lý Tự Nghiệp cũng ý thức được sự nguy hiểm của đội quân này, bèn chấp quyền xin tự tiến cừ: "Đại tướng quân, xin hãy để ty chức đi nhổ cái gai Yến quân huyện Trường Tử này."
"Cũng được, đánh một trận đã để thám thính thực hư quân địch!"
Huyện Trường Từ nằm cách Thượng Đàng bốn mươi dặm về phía tây nam, bờ bắc Trọc Chương thủy, nơi đây tây cao đông thấp, là vùng đất quá độ từ đồi núi thấp sang đồng bằng. Huyện thành huyện Trường Tử không lớn, trong thành chi có chừng hai ngàn hộ người, khi quân Lý Quy Nhơn đồ sát dân chúng huyện Thượng Đàng. Hàng vạn người tại huyện Trường Tư cơ bàn đều đã chạy sạch. Khi Lý Quy Nhơn bộ tướng A Sử Na Tòng Lễ dẫn một vạn kỵ bịnh đến huyện Trường Tử thì huyện thành đã trờ thành tòa thành trống, chi còn lại chừng bảy mươi người giả thà chết chứ không chịu ròi khỏi cố thô.
Trước mất có năm ngàn ba trăm người. Cơ bàn đều là người Khiết Đơn. Do quý tộc Khiết Đơn Da Luật Trọng Quang thống linh, đúng như Lý Khánh An dự đoán, Lý Quy Nhơn sờ dĩ trú quân năm ngàn tại huyện Trường Tử chính là nhằm vào quân đội của Lý Quang Bật.
Huyện Trưởng Từ cũng giống các huyện thành khác của Hà Đông, do trăm năm thanh bình không chiến sự, huyện thành đã trờ nên rất ư cũ kỹ, tường thành căn bàn không cách nào phòng ngự nổi đại quân tiến công, chi có tác dụng trang trí.
Do huyện Trường Tử rất gần Thượng Đàng, vì thế công kích của Lý Tự Nghiệp cũng coi như tập kích. Giữa đêm khuya vắng, tám ngàn kỵ binh đang băng băng phóng đi giữa thung lũng đồi núi. Dẩn dẩn, địa thế bất đầu thấp trũng xuống, phía trước là con sông lớn dòng chày nước xiết, đã đến Trọc Chương thủy rồi, sau một ngày đêm dặm trường, kỵ binh đã vượt qua khỏi Phát Cưu sơn, cách huyện thành Trường Tử chi còn hai mươi dặm lộ trình, kỵ binh Bắc Đường dẩn thà chậm lại bước chân.
Bọn họ đứng chân lại trong một khu rừng rậm rạp, vừa tranh thù thòi gian nghi ngoi, vừa đợi chờ tin từ xích hầu, Lý Tự Nghiệp đứng dưới gốc cây to, ánh mắt chăm chú nhìn về phương đông.
Tuy chi là một trận chiến nhỏ, nhung nó lại là trận đầu tiên Lý Tự Nghiệp tham dự vào thu phục quân phàn loạn An Lộc Sơn. Có ý nghĩa không tầm thưởng với hắn. Trong lòng Lý Tự Nghiệp đã dốc hết quyết tâm. Hắn muốn dùng một trận chiến thật sự để chứng minh thực lực của bàn thân.
"Đến rồi!"
Phó tướng Vệ Bá Ngọc bên cạnh hắn đã nhìn thấy, dưới ánh trăng mấy tên kỵ binh đương phóng nhanh đến. Chi một chốc sau. Mấy tên xích hầu đã đến trước rùng rậm. Đội chính xích hầu xuống ngựa bẩm báo với Lý Tự Nghiệp: "Bẩm báo tướng quân, quân địch được chia làm hai, một nửa đóng tại đại doanh ngoại thành bấc. Một nửa còn lại đóng trong thành, trước mất họ vẫn cHứa có động tĩnh gì. CHứa phát hiện được chúng ta."
"Phòng ngự huyện thành thế nào?"
"Hồi bẩm đại tướng quân, tường thành huyện thành cao hai trượng, rất cũ kỹ, có hộ thành hà. Nhung hộ thành hà thành đông chi rộng một trượng, hơn nữa thành đông đương tu bổ, không có cầu treo, có thề trực tiếp đến phá cửa thành."
"Được, tiếp tục thám thính."
Lý Tự Nghiệp một tiếng hạ lệnh, mấy tên binh sĩ quay đầu ngựa tiếp tục đi về hướng đông.
Lúc này Lý Tự Nghiệp đã triệu tập một lẩn hội nghị ngắn, mấy mươi quân quan hiệu úy trờ lên đều đến tụ tập bên hắn. Lý Tự Nghiệp trầm giọng nói với mọi người: "Hôm nay là lẩn đầu tiên chúng ta giao chiến cùng Yến quan, chúng ta lấy nhiều thắng ít. Chiến thắng là chắc chắn, quan trọng là thắng lợi như thế nào. Theo lệnh của đại tướng quân, quân đội của Lý Quy Nhơn chúng ta không chấp nhận đầu hàng, cho nên chúng ta phải tiêu diệt địch quân, dùng đầu người ghi công, thòi ai an là một canh giờ, sau một canh giờ dù có tiêu diệt được toàn bộ quân địch hay không chúng ta cũng nhất định phải quay về, kẻ này trái lệnh, chém!"
Tất cà mọi người cùng đứng dậy khom người thi lễ: "Tuân lệnh!"
Lý Tự Nghiệp huơ tay hạ lệnh: "Được rồi, hiện giờ xuất phát, không được đứng lại. Dùng thế lôi đình đánh bại doanh bàn ngoại thành đã!"
Tám ngàn kỵ binh bắt đầu từng đội một xuất phát, dọc theo Trọc Chương thủy hiên ngang tiến về huyện Trường Từ.
Quân trại ngoài phía thành bắc huyện Trường Tử rất ư yên tĩnh, hiện còn cHứa đến canh tư. Chính là lúc binh sĩ ngủ say nhất, cả đại doanh đều một màu tối đen như mực, chi có cửa lớn quân doanh là còn mấy ngọn đèn lay lắt giữa gió đêm. Mười mấy binh sĩ qua lại tuần tra. Tuy vị trí của huyện Trường Từ hơi khuất, là khu vực tương đối an toàn, nhung trú quân vẫn không dám sơ ý. Xung quanh đại doanh thẳng tấp tám tòa trạm gác, bao gồm cả binh gác tuần tra trên huyện thành, phòng ngụ rất ư cẩn mật.
Gió đêm rất mạnh, tiếng gió vù vù chói tai trong đêm. Bỗng nhiên một tên lính gác trên tháp trạm cơ hồ nghe thấy động tĩnh gì. Lớn tiếng hô hào, cùng lúc hắn hô lên. Phong hòa trên thành đầu cũng được đốt cháy bừng lên. Ánh lửa ngất trời đêm.
"Tang! Tang! Tang!"
Tiếng chuông chói tai đồng thời vang dội trên cả bốn trạm gác, lính gác cơ hồ đều đồng thời phát hiện địch tình. Lúc này khắp nơi đều bắt đầu run rẩy, tiếng vó ngựa tựa sấm đã vọng đến từ xa xa. Khắp đại doanh đều bị kinh động, hai ngàn năm trăm binh sĩ Khiết Đơn lũ lượt hô hào xông ra khỏi đại doanh, rất nhiều người đều lõa lồ thân trê, tay cầm giáo trường là chạy ra ngay.
Lúc này tám ngàn kỵ binh đã thần tốc phóng đế, với khí thế long trời lờ đất ập về phía địch doanh, vài trăm cung nỏ thủ Khiết Đơn vừa kịp chạy ra đến trước hàng rào doanh trại, quân Đường đã xông đến ngoài trăm bước, cung tiễn phủ đầu phóng về phía hàng rào, mấy trăm tên cung nỏ thù đấy chi có thể nói là trờ tay không kịp, lũ lượt bị bắn tia triệt để, còn lại hơn trăm người thấy thế bất lợi vội quay đầu bõ chạy.
Kỵ binh quân Đường đã xông đến ngoài ba mươi bước, tức tốc tản ra hai bên hàng rào, hàng trăm sợ dây thừng được thả về phía hàng rào, quấn lấy gỗ cọc, các kỵ binh cùng dùng sức kéo. Hàng rào đủng đủng ngã đồ, hai bên nam bắc xuất hiện một lối vào mấy chục trượng rộng.
Tám ngàn kỵ binh cùng ùn ùn xông vào, vượt qua chiến hào xông vào đại doanh quân Khiết Đơn. Lý Tự Nghiệp giơ cao chiến đao, nghiêm giọng hô hào: "Giết! Một người cũng không được thả!"
Quân Bắc Đường giận dữ gầm thét, chiến đao chém liền tay. Giáo trường đâm thẳng tay, đầu người rơi lăn lốc, máu chảy thành sông. Đoàn kỵ binh đã giẫm bàn doanh trướng, trương cung bắn tiễn, người Khiết Đơn bò chạy trúng tiễn thét lên thảm thiết rồi ngã xuống lập tức bị quân Đường đằng sau chém bay đầu.
Trong đại doanh chuồng ngựa dê bị quân Đường chiếm lĩnh đầu tiên, khiến người Khiết Đơn không có ngựa mà cưỡi, chi có thể chạy bằng hai chân để chạy trốn, nhưng binh sĩ quân Đường dũng mănh vô cùng, từ bốn phương tám hương truy sát những binh sĩ Khiết Đơn chân Trần bỏ đi như điên như dại.
Giờ khắc này kỵ binh quân Đường không chút nể tình, mỗi người họ đều đã được tử thần hóa thân, rất nhiều quân sĩ Khiết Đơn giơ tay đầu hắn. Nhung chiến mã vẫn phóng qua đầu họ, ánh hàn quang lóe hiện, chém bay đầu của người Khiết Đơn đang van nài...
Trên thành đầu. Chù tướng Khiết Đơn Da Luật Trọng Quang hoàng đến nhảy dựng lên. Trong bóng tối, hắn không nhìn rõ có bao nhiêu quân Đường đang ập đến, không dám mờ cửa thành đi chi viện, chi đành cho đốt hết phong hỏa trên bốn phía thành đầu. Ánh lửa ngất trời để cầu viện với Thượng Đàng cách đấy bốn mươi dặm. Từ huyện Thượng Đáng đến đây là vùng đất bằng phẳng, chi cẩn hơn một giờ lại có thể đến đây.
Ngay tị lúc này binh sĩ phóng đến bẩm báo, "Tướng quân, quân Đường đã bắt đầu tấn công thành đông rồi!"
Da Luật Trọng Quang bỗng chốc như rơi tụt xuống vực thẳm, cHứa đến hai khắc chung, quân Đường đã bắt đầu tiến công thành trì rồi, nói rõ huynh đệ trong doanh trại ngoài thành đã bị diệt sạch toàn bộ. Tính ra binh lực của quân Đường chí ít phải trên vạn người.
Da Luật Trọng Quang rất ư rõ sơ hờ phòng ngự của thành đông, chiến hào do nhiều năm không tu sửa đã trờ nên rất ư hạn hẹp, chi rộng có một trượng, chiến mã chi phóng lên đã vượt được, cầu treo cũng đã bị mục nát, quân Đường đật ván 20 lên là có thể trực tiếp dùng gỗ lớn phá cửa thành.
Da Luật Trọng Quang hoàng hốt thét to: "Lệnh cho tất cả binh sĩ đến thành đông phòng ngự. Dùng tiễn bắn! Khiêng đá tàng đến chắn cửa thành lại, dù thế nào đi chăng nữa cũng không được để quân Đường đi vào thành nội!"
Gần ba ngàn binh sĩ từ bốn phía cùng chạy về thành đông, chi thánh quân Đường ngoài thành đông chen chúc nheo nhóc, cầu ván tạm thời trên chiến hào đã được bày sẵn, hàng trăm tên quân Đường ôm khúc cự mộc đương từ từ tiến đến thành môn. Ngoài vài trăm binh sĩ quân Đường ôm cự móc ra, ngoài ra còn có vài trăm tên binh sĩ cầm khiên chắn khổng lồ yểm trợ hai bên, mấy trăm tấm khiên chắn đã che phú hoàn toàn cự mọc, xa xa nôm nhìn giống con rít ngàn chân đang từ từ tiến về phía cửa thành.
"Bắn!"
Trên thành tiễn phóng như mưa. Đá tàng, cồn mọc rào rào rơi xuống, tiễn bắn không ánh hưởng gì. Nhưng cự thạch và cồn mọc thì khó mà chống đỡ. Mười mấy quân Đường đứng trên cùng đều bị ném phải, ré lên thám thiết, con rít ngàn chân này lại bất đầ từ từ lùi ra sau.
Như thế này khi trên thành đầu đứng ném đá và cồn mọc thì quân Đường côngthành tiến lên. Còn lúc đá và gỗ phòng ngự dày đặc quá quân Đường lại từ từ lùi ra sau. Cứ thế giằng co qua lại. Mà lúc này một ngàn binh sĩ Khiết Đơn đã khiêng đến mấy trăm tảng đá nặng ngàn cân. Chặn cửa thành đông lại thật kiên cố.
Trong lúc Da Luật Trọng Quang vừa thở phào, thì trên không cả huyện thành bỗng vang lên tiếng va chạm kinh thiên động địa: "Đùng!"
Tường thành cũ kỹ đang run rẩy, thành lâu trên tường thành bắc do nhiều năm chưa sửa, đã ngã ầm xuống, tất cả binh sĩ mặt xanh như tàu lá, hớt hải tìm kiếm khắp nơi. Không biết tiếng va mạnh này từ đâu truyền đến.
Sắc mặt Da Luật Trọng Quang cũna chẳng khá hơn gì, dù cho hắn không biết tiếng va chạm từ đâu vọng đến, nhưng hắn hiểu một việc, quân Đường tấn công cửa đông là giả, bọn họ chỉ lấy tấn công cửa đông làm yểm hộ.
"Tướng quân!"
Một binh sĩ phóng nhanh đến. Hắn căng thẳng đến độ nói không ra lời, chỉ vào phía sau ú ớ: "Quân Đường... Quân Đường..."
Da Luật Trọng Quang túm lấy áo hắn mắng: "Quân Đường ờ đâu?"
"Ở... Ở của bắc!"
Da Luật Trọng Quang như thờ thẩn cả người. Lúc này lại một tiếng va chạm động trời, dưới chân lắc lư dữ dội, Da Luật Trọng Quang nhất thời không đứng vững mà ngã nhào xuống đất, tiếng động này rõ ràng là tiếng cửa thành bị phá vỡ, thành nội đã bị công phá.
Hắn đau đớn nhắm tịt mắt lại. Xong rồi, tất cả quân đội của hắn sẽ bị diệt.
Cửa thành bắc đã bị phá một lỗ to, quân Đường như cơn đại hồng thủy ào ạt vào nội thành, chi nghe tiếng hô phẫn nộ của Vệ Bá Ngọc, "Không giữ một ai, toàn bộ giết chết! Lấy đầu người luận công!"
...
Một canh giờ sau, thủ cấp của Da Luật Trọng Quang đã bị Vệ Bá Ngọc chính tay chém xuống. Một canh giờ đã đến, Yến quân huyện Trường Tử đã toàn bộ bị diệt, quân Đường thương vong không đến ba trăm người. Đại quân quay đầu dẫn theo năm ngàn đầu người Khiết Đơn phóng nhanh về phía tây. Chỉ trong một chốc đã biến mất vào điểm sáng chợt lóe nơi cuối trời, còn một vạn quân chi viện từ Thượng Đảng chỉ còn cách huyện thành Trương Tử chưa đến mười dặm.
*****
Trong bầu trời đêm hừng hực ánh lừa cầu cửu của đài phong hỏa làm kinh động đến đại doanh Thượng Đáng. Lý Quy Nhơn phái đại tướng A Sử Na Tòng Lễ dẫn quân tới cửu viện Trường Tử huyện.
Lúc A Sử Na Tòng Lễ dẫn một vạn kỵ binh đuổi tới Trường Tử huyện, quân Bắc Đường đã đi xa rồi. Cuộc chiến đã ngừng rồi, cái mà A Sử Na Tòng Lề nhìn thấy chính là một bãi chiến trường đầy máu tanh.
Bên trong và ngoài huyện thành bắn ngang đến hơn năm nghìn thi thể của binh lính Khiết Đan. Đầu người đều đã bị cắt đi. Nơi ngấn cồ bị chặt máu chảy ra nhuộm đò cả mặt đất. Bời vì trong huyện thành đã không còn cư dân. Ngay ban ngày ban mật. Mà cả tòa huyện thành biến thành một tòa quỷ thành vắng ngắt, không có một người sống, thậm chí ngay cả người bị thương cũng không có.
Từng đàn từng đàn quạ đen lượn lờ trên không trung, phát ra nhưng tiếng kêu quác quác chói tai. Cho dù A Sử Na Tòng Lễ đã quen nhìn thấy xác người chết đến không còn cảm giác rồi. Nhung cánh tượng máu tanh trước mắt vẫn khiến cho hắn cảm thấy rợn cả người.
"Có người sống hay không?" A Sử Na Tòng Lễ lớn tiếng hôi.
Một sã hiệu úy khom người nói: "Hồi bầm tướng quân, không có một người sống. Toàn bộ bị giết chết cả. Trong danh gách năm ngàn ba trăm bốn mươi người, chúng tôi đếm được năm ngàn ba trăm ba mươi thi thể. Chi kém có mười người thôi."
"Con mẹ nó, không chừa cà tù binh!"
A Sử Na Tòng Lễ nghiến răng nghiến lợi nói, hắn lại quên rằng, chính bọn họ cũng không chừa một tù binh nào cả đó sao, đó là sự trả thù của quân Đường đối với bọn họ.
A Sử Na Tòng Lễ ước chừng bốn mươi mấy tuổi, dáng người cao to, mày mặt phè phỡn, vè mặt vô cùng dữ tợn. Hắn là người Đột Quyết của bộ Kết cốt. Bày năm trước suất lĩnh mấy ngàn người trong bộ tộc đến nương tựa An Lộc Sơn. An Lộc Sơn lập tức vì hắn mừng công với triều đình, nói hắn đã giết chết được đám dân du mục chuẩn bị xâm nhập phía nam. Lý Long Cơ không phân biệt thật già. Lập tức phong hắn làm Quy Nhơn tướng quân, thưởng hắn túi Tử kim ngư (là một loại lệnh bài kiếm tra khi ra vào cung điện, từ kim là quan từ tam phẩm trờ lên mặc áo tím. Ngư đại là một cái túi bên ngoài trang trí vàng bạc bên trong là ngư phù. Đây là một loại vinh dự rất lớn).
Do hắn võ nghệ cao cường, chiến đấu dũng mănh, vẫn rất được An Lộc Sơn đánh giá cao, chi có điều là kinh nghiệm của hắn không đủ. Không có khả năng trờ thành đại tướng độc lập, lẩn này Lý Quy Nhơn làm chủ soái tuyến nam, An Lộc Sơn liền nhâm mệnh hắn làm phó tướng của Lý Quy Nhơn.
A Sử Na Tòng Lễ là người có thủ đoạn ác độc, cũng giống như nhưng người bắc Hồ khác, xem dán chúng người Hán như dê lợn. Lằn này An Lộc Sơn phán loạn, hắn đánh cướp được một lượng lớn tài phú, chi phụ nữ thôi đã cướp đến hơn trăm người.
Lẩn này năm ngàn người Khiết Đan ở Trường Tử huyện mà quán Đường đánh lén cũng không phải là cấp dưới của hắn. Mà là trực thuộc hậu quân của An Thủ Trung, do An Thủ Trung phải quay về Triệu Châu áp tài lương thực. Lý Quy Nhơn liền mệnh hắn tới viện trợ, lại không ngờ rằng. Nhìn thấy được cảnh tượng thê thám này.
Lúc này, một đội kỵ binh chạy tới, một gã quan quân ở trên ngựa chắp tay nói: "Tướng quân, chúng tôi tim được binh lính may mắn sống sót."
A Sử Na Tòng Lễ tinh thần phấn chấn hẳn lên. Hắn vội vàng hỏi: "Ờ nơi nào, mau dẫn tới gặp ta."
Lát sau. Mười tên binh lính Khiết Đan được dẫn lên. Cầm đầu một gã đội chính, bọn họ đi tới trước mặt A Sử Na Tòng Lễ, quỳ xuống lớn tiếng khóc Rõng, đội chính gạt lệ nói: "Huynh đệ của chúng tôi bị giết quá thê thám, cầu tướng quân làm chủ cho chúng tôi a!"
A Sử Na Tòng Lễ bị tiếng khóc bọn họ làm cho phiền não quá, giơ roi lên chi một cái và mắng lên: "Con mẹ nó, có cái gì đáng khóc cơ chứ. Hãy đứng lên mà nói cho ta nghe!"
Mười tên binh lính cũng không dám khóc nữa, A Sử Na Tòng Lễ sa sầm mặt hỏi bọn hắn: "Các ngươi làm thế nào mà may mắn thoát chết vậy?"
Đội chinh cầm đầu thi lễ nói: "Bẩm báo tướng quân, chúng tôi là đội tuần tra ở bên ngoài, tuần tra ở khu vực phía nam, lúc trên đường trờ về thành thấy được quân Đường tập kích, chúng tôi trốn ở trong rừng cây, mới có thế may mắn thoát chết."
"Thế ta hỏi các ngươi, quân Đường có bao nhiêu người?"
"Ước chừng trên dưới một vạn. Đều là kỵ binh, vô cùng hung ác. Ty chức tận mắt thấy mấy trăm huynh đệ từ trong đại doanh chạy ra, chuẩn bị trốn rừng cây bên này của chúng tôi, nhưng bị kỵ binh quân Đường đuôi theo, một đao chém bay đầu người, có huynh đệ quỳ xuống đất đầu hàng, cũng bị quân Đường giết chết không thiết tiếc, bọn họ căn bản không nhận hàng binh."
Nói tói đây, người đội chính này tựa như lại nhìn thấy được tình hình tối hôm qua, hắn kinh hãi đến toàn thân phát run, trong lòng A Sử Na Tòng Lễ cực kỳ phẫn hận. Nhung hắn lại không thế làm gì được, chi đành phải hạ lệnh nói: "Vùi lấp thi thế ngay tại chỗ, quay về Thượng Đáng!"
Thắng lợi của Lý Tự Nghiệp đã mang đến sự phấn chấn thật lớn cho sĩ khí quân Đường, giết toàn bộ quân địch hơn năm nghìn người, mà bên mình chi có hơn ba trăm người chết và bị thương, thắng lợi huy hoàng này đã thật sự mang đến cho quân Đường sự tự tin thật lớn.
Lý Khánh An lập tức hạ lệnh với đầu người ghi công, mỗi đầu người được thưởng ba mươi quan tiền, ghi công một bậc, mà nhưng binh lính tham chiến không có giết được đầu người cũng được thưởng năm quan tiền, ngay lập tức. Bộ hạ của Lý Tự Nghiệp hoan hô khắp doanh trại, khiến cho các binh lính khác vô cùng ngưỡng mộ.
Trong đại trướng, mấy trăm tướng lănh cao cấp trên mức trung lang tướng của quân An Tây đều tụ tập tại một chỗ, Lý Tự Nghiệp tường thuật lại tình hình trận chiến này với Lý Khánh An và các tướng quân khác nghe.
Khác với tối hôm qua là. Lý Tự Nghiệp phát hiện Lý Quang Bật không ngờ cũng có mặt. Điều này làm hắn có chút ngạc nhiên, bời vì Lý Quang Bật từ ải Trường Bình qua đây. Nhất định là đi ngang qua Trường Tử huyện, không ngờ bọn họ không chạm mặt trên đường đi. Trong lòng tuy rằng kinh ngạc. Nhung Lý Tự Nghiệp vẫn tiếp tục miêu tả tình hình cuộc chiến tối hôm qua cho mọi người.
"Khi chúng tôi cách quân doanh đối phương hai trăm bước liền bị đối phương phát hiện rồi. Nếu dựa theo sự huấn luyện của quân An Tây chúng ta. Quân địch ở ngoài trăm bước, binh lính nhất định phải ra khỏi lều xếp thành hàng rồi, quân cung nỏ đã bố trí xong. Nhưng tình hình mà ta gặp được lại hoàn toàn không phải như thế này, binh lính Khiết Đan không có mặc cả áo giáp khi ngủ. Rất nhiều người đều đê Trần thân trên, điều này cũng cũng thưởng thôi, quan trọng hơn là ta phát hiện quân Yến không có kinh nghiệm đánh đêm. Hoặc có thể nói là cHứa từng được huấn luyện đánh đêm. Quân địch trong đại doanh có lẽ là không có chuẩn bị, nhưng quân Khiết Đan bên trong thành lại toàn thân khôi giáp, đánh một trận trên phố xá đã tan rã không còn đội hình nữa. Rõ ràng không thích ứng việc đánh nhau vào ban đêm. Ta cảm thấy đó là một nhược điểm lớn của quân Yến. Chúng ta có thể lợi dụng nhược điểm này của quân Yến một cách hiệu quả."
Lúc này, Lý Khánh An thấy Lý Quang Bật tựa hồ muốn nói ra suy nghĩ của minh.
Lý Quang Bật chi tới trước quân đội của Lý Tự Nghiệp hai canh giờ thôi, tới để báo cáo quân tình với Lý Khánh An, hắn quà thật là từ Trường Tử huyện qua đây, nhung không có đi ngang qua huyện thành, mà là suất lĩnh một ngàn thân vệ từ phía nam cách huyện thành ba mươi dặm mà vỏng qua, không có phát hiện Lý Tự Nghiệp đánh lén Trường Tử huyện.
Nhưng một số thuyết minh của Lý Tự Nghiệp hắn cũng không tán thành cho lắm. Thấy Lý Khánh An cho phép hắn nói. Hắn liền đứng dậy chắp tay chào Lý Tự Nghiệp cười nói: "Đầu tiên ta muốn chúc mừng Tự Nghiệp tướng quân đã lập kỳ công đầu tiên, trảm địch năm ngàn người. Đã nâng sĩ khí của quân Đường lên rất nhiều, trận chiến này tuy nhỏ, nhưng ý nghĩa lại rất quan trọng, nhưng có một điểm, ta không đồng ý cho lắm về kết luận của Tự Nghiệp tướng quân."
Lý Tự Nghiệp và Lý Quang Bật thuộc cùng một cấp bậc, Lý Tự Nghiệp là đô đốc Hà Trung, còn Lý Quang Bật là đô đốc Thổ Hỏa La, cũng đều là thế lực quan trọng của An Tây, sau khi Lý Khánh An rời An Tây sang phía đông, bọn họ từng âm thầm cạnh tranh qua chức An Tây tiết độ sứ, tuy rằng cuối cùng Phong Thưởng Thanh thắng được, nhung quan hệ giữa bọn hắn. Không phải như nhận định của người ngoài là thân mật đoàn kết, ở mật ngoài quan hệ đều rất tốt. Nhung âm thầm lại có sự cạnh tranh lẫn nhau.
Lý Tự Nghiệp ôm quyền đáp lễ lại, trầm giọng nói: "Xin Quang Bật tướng quân chi giáo!"
"Chi giáo thì không dám. Ta chi cám thấy Tự Nghiệp có chút bị một chiếc lá làm che cả tầm mất. Quà thật, quân Yến đóng ở Trường Tử huyện không thiện về đánh đêm. Nhung cũng không có nghĩa là tất cà quân Yến cũng không giỏi về đánh đêm. Phải biết rằng, quân Yến đóng ở Trường Tử huyện cũng đều là người Khiết Đan. Là quân người Hồ viện trợ cho An Lộc Sơn. Mà không phải là quân Phạm Dương của An Lộc Sơn. Ta cho rằng Tự Nghiệp như vậy mà đã kết luận rằng quân Yến không thiện về đánh đêm. Thì không khói có chút đã quá sớm mà kết luận như vậy."
Mặt của Lý Tự Nghiệp dẩn dẩn sa sầm xuống, rõ ràng biểu lộ ra một sự không vui, hắn nghe ra trong lời nói của Lý Quang Bật có hàm ý, nói hắn bị một chiếc lá làm che cả tầm mắt chi là cái cớ, hàm ý trong đó là đang châm chọc mình, phàng phất như đang nói, chăng phải chi là giết năm ngàn người Khiết Đan, còn không phải là quân chính quy, có cẩn phải khoe khoang như vậy không? Noi này là địa bàn của hắn. Ở trước mặt nhiều thuộc hạ của hắn như vậy mà nói móc hắn. Rõ ràng không nề mặt hắn rồi.
Lý Tự Nghiệp chắp tay lạnh lùng nói: "Quang Bật tướng quân thì làm sao lại biết là không phải chứ? Chẳng lẽ Quang Bật tướng quân đã từng tiến hành trận chiến ban đêm với quân Yến rồi sao? Ta xem cũng cHứa từng đánh qua mà! Một mùa đông, cũng chi thấy Quang Bật tướng quân ở trên mật sông Hoàng Hà đã đóng băng mà đi qua đi lại thôi, cuối cùng vẫn là lui về Hà Nam đạo, chúng ta còn trông cậy vào quân Lũng Hữu chiếm lấy Ngụy Bác, đem quân của Điền Thừa Tự đuổi giết quay về u Châu chứ!"
Lý Quang Bật quà thật là có một chút không quen nhìn thói khoác lác của Lý Tự Nghiệp, chăng qua là đánh lén thành công mấy ngàn người Khiết Đan thôi, thì đã dõng dạc nói quân Yến không thiện đánh đêm. Giống như hắn đã trờ thành chủ tướng tiến công An Lộc Sơn vậy, điều này làm cho Lý Quang Bật cực kỳ chướng tai, hơn nữa Lý Tự Nghiệp tuy rằng là đô đốc Hà Trung, nhung trận chiến với Đại Thực tại Hà Trung cũng đều là do Lý Khánh An đánh hạ cà, Lý Tự Nghiệp vốn dĩ cHứa hề đánh qua một trận nào, khi không đã kiếm được cái hời từ Lý Khánh An, liền tự cho minh là khắc tinh của người Tajik. Ở trong triều thổi phồng bản thân mình là nhân vật thứ hai của An Tây, điều này khiến Lý Quang Bật cực kỳ phàn cám.
Hắn thấy Lý Tự Nghiệp ở trước mặt mọi người châm chọc mình mấy lẩn vượt sông
Hoàng Hà. Mà không nói đó là chiến lược bố trí quan trọng, hắn không khỏi nổi giận trong lòng, vừa muốn phản bác lại. Đã thấy ánh mắt của Lý Khánh An lườm về phía mình. Lý Quang Bật đánh phải nén lấy cơn giận trong lòng; Không nói một lời nào, chắp tay chào Lý Tự Nghiệp liền ngồi xuống.
Trong lều lớn im lặng như tờ, ai cũng đều nghe ra được sự mâu thuẫn xảy ra giữa hai viên Đại tướng, tuy rằng chù tướng bọn họ quả thật có chút đắc ý vênh váo, nhưng dù sao nơi này cũng là địa bàn của Lý Tự Nghiệp, trong lều lớn hơn phân nửa đều là cấp dưới của Lý Tự Nghiệp, sự vạch Trần của Lý Quang Bật thật sự là khiêu khích trước mặt mọi người.
Thế nhưng. Lý Khánh An ngồi ngay trước mật. Ai cũng không dám hé răng. Trong đó có cả phó tướng Vệ Bá Ngọc tham gia trận đánh lén lẩn này, trong lòng hắn càng phẫn nộ thêm, vốn định đứng dậy mắng cho Lý Quang Bật một trận cho hả. Lại bị Tịch Nguyên Khánh kéo lại, nói nhỏ với hắn: "Chú ý thân phận của minh!"
Vệ Bá Ngọc nhìn thoáng qua Lý Khánh An. Hắn cũng không dám hé răng, sự mâu thuẫn giũa hai viên chủ tướng đương nhiên sẽ có Lý Khánh An đến hòa giải, ai mà bây giờ nhảy ra. Người đó sẽ thành người chịu tội thay.
Sau một lúc lâu, Lý Khánh An lạnh lùng nói: "Ngày hôm qua ta còn nói, sự mâu thuẫn giữa Lý Quy Nhơn và Lý Hoài Tiên chúng ta có thế lợi dụng được, không ngờ tới hôm nay trong quân đội của ta cũng xuất hiện hai Lý Quy Nhơn và Lý Hoài Tiên. Ta không biết đây là sự may mắn của An Lộc Sơn hay là ta Lý Khánh An không biết dẫn binh đây, hay là phải bày rượu đề xin lỗi hai người các ngươi. Các ngươi cẩn không? Người đâu. Bày rượu cho ta!"
Lý Tự Nghiệp và Lý Quang Bật đồng thời quì một gối, Lý Tự Nghiệp liền thinh tội với Lý Khánh An: "Ty chức cuồng vọng vô tri. Đã phụ sự kỳ vọng lớn lao của Đại tướng quân, nguyện chịu trừng phạt, đê làm nguôi cơn giận của Đại tướng quân."
Lý Quang Bật cũng nói: "Ty chức không để ý đại cục, có tư tâm trong lòng, cũng
Nguyện chịu sự trừng phạt của Đại tướng quân, xin Đại tướng quân bớt giận."
Lý Khánh An khoát tay, nói với mọi người: "Đêm đã khuya, tất cả mọi người trờ về đi!"
Mọi người đều đứng lên. Thi lề với Lý Khánh An. Liền rời khỏi lều lớn. Lý Khánh An lại nói với Lý Tự Nghiệp và Lý Quang Bật hai người: "Các ngươi cũng trờ về, ta muốn ở một mình tĩnh tâm lại một chút."
Hai người bất đắc dĩ. Đành phải thi lề, đi ra ngoài, cho dù như thế, hai người vẫn không có làm hòa trước mặt Lý Khánh An. Cũng không nói lời nào, liền ai nấy đi cả rồi.
Lý Khánh An nhìn hai người bọn họ đi xa. Không khôi lắc đầu. Cũng đều đã làm tới quan cao cấp bậc này rồi, hai người vẫn như hai thằng ranh con vậy, một chút cũng không biết làm ra vẻ bên ngoài, điều này làm hắn cảm thấy có chút thất vọng.
Nhất là Lý Quang Bật. Tuy rằng hắn nói rất đúng, người Khiết Đan sẽ không giòi đánh đêm không phải là quân Phạm Dương sẽ không giỏi đánh đêm. Đó là đạo lý, nhưng hắn hoàn toàn có thể nói riêng với mình, nhung lại nói trước mặt nhiều thuộc hạ của Lý Tự Nghiệp như vậy làm cho hắn khó mà xuống nước được, Lý Khánh An không tin rằng hắn ngay cả lối đối nhân xử thế tối thiểu như vậy cũng không hiểu được, đó chi có thê nói rằng Lý Quang Bật có thành kiến rất sâu với Lý Tự Nghiệp.
Lý Khánh An chắp tay sau lung chậm rãi đi ra khỏi doanh trướng, bên ngoài ánh trăng sáng tỏ, ánh trăng lạnh lẽo chiếu xuống mặt hắn. Phản chiếu ra ánh mắt sâu thẳm khó có thề nắm bắt được của hắn.
Thẳng thắn mà nói. Sự mâu thuẫn giữa các đại tướng dưới tay của hắn. Hắn rõ hơn ai hết, hắn còn nhớ rõ rành mạch lúc hắn xử phạt mà điều Đoàn Tú Thạch về Quan Nội đạo, trong ánh mắt Lý Tự Nghiệp đã hiện rõ sự vui mừng khó có thể che dấu được.
Quan hệ giữa Đoàn Tú Thạch và Phong Thưởng Thanh cũng không tốt, sau khi Phong Thưởng Thanh tiếp thay cho Đoàn Tú Thạch, đầu tiên là tẩy trừ một số tướng lănh tâm phúc mà Đoàn Tú Thạch đã đề bạt.
Kỳ thật Lý Khánh An rõ hơn ai hết. Kè đã gây ra sự mâu thuẫn giữa các đại tướng này. Chinh là bàn thân hắn Lý Khánh An. Cho đến nay vị trí An Tây tiết độ sứ vẫn còn bỏ trống, lúc hắn rời khỏi An Tây từng nói rằng, hắn sẽ ở trong số những đại tướng An Tây lựa chọn một người, tiếp nhận chức vụ An Tây tiết độ sứ của hắn.
Những tướng lănh chủ yếu của An Tây, Đoàn Tú Thạch ở Toái Hiệp, Phong Thưởng Thanh ở Sindh. Lý Quang Bật ở Thổ Hóa La, Lý Tự Nghiệp ở Hà Trung. Thôi Kiền Hữu ở Bắc Đình. Lệ Phi Thú Du ở Hà Tây. Sáu viên Đại tướng cũng đều có khả năng tiếp nhận vị trí của hắn. Nhưng chính vì hắn kéo dài không đưa ra quyết định, mới khiến cho sáu người này dẩn dẩn xuất hiện một trạng thái cạnh tranh nhau, cộng thêm một số mẫu thuẫn giữa bọn họ, như vậy, giữa sáu người này liền phát sinh một sự cạnh tranh lẫn nhau, sự rạn nứt khi không còn tin tưởng nhau.
Phải nói rằng, đó là sự cố ý của Lý Khánh An. Khi còn cHứa tìm ra một phương án tốt cho việc phòng ngừa những trấn Phiên chia nhau cất cứ. Hắn không thề đề cho một người bành trướng ra. Cũng không thể để cho sáu người ngày quan hệ quá mức thân mật với nhau, nhất là ở An Tây xa xôi, bời vì sự hạn chế của không gian, sự khống chế của triều đình đối với quân đội dù sao vẫn còn khá yếu ớt.
Dựa theo kế hoạch của hắn. Tương lai hắn sẽ để cho Lý Tự Nghiệp giữ Hà Trung, để cho Lý Quang Bật giữ Thổ Hỏa La. Đề cho Phong Thưởng Thanh đóng ớ Toái Hiệp, đê cho Lệ Phi Thủ Du đóng ở Sindh. Biện pháp mà Lý Khánh An suy nghĩ ra. Chính là hai năm trao đổi vị trí một lẩn, đồng thòi phái ngự sử giám quân, nhung như vậy vẫn còn cHứa đủ, còn phải tạo sự mẫu thuẫn giữa các đại tướng với nhau, như vậy bọn họ mới có thê giám sát lẫn nhau, không chịu nế ai, cũng như lúc trước Ca Thư Hàn mật cáo An Tư Thuận chiêu mộ tư binh với Lý Long Cơ vậy.
Là một vị lănh đạo, điều đáng sợ nhất chính là thủ hạ dưới tay đoàn kết và hòa thuận, từ cổ chí kim vẫn là như thế.
"Đại tướng quân, đang vì chuyện của hai người phiền lòng sao!" Quân sư Vi Thanh Bình đi đến bên cạnh hắn cười nói.
Lý Khánh An cười xòa nói: "Cũng không có gì. Quan hệ giữa hai người bọn họ trước giờ vẫn không tốt. Xảy ra một chút mâu thuẫn nhỏ, ta sẽ không để ý."
Vi Thanh Bình thờ dài nói: "Bây giỜ ta mới hiểu được vì sao Đại tướng quân lại phải chạy gấp tới Hà Đông như thế rồi, đích thân chi huy chiến dịch rồi. Cũng chi có Đại tướng quân mới có thể kiềm chế được bọn họ, điều chinh sự phối hợp giữa bọn họ, nếu không. Hậu quả rất nghiêm trọng a!"
"Đúng vậy! Cho dù ta tin rằng bọn hắn sẽ không bỏ mặt đối phương, nhung trên việc phối hợp nhất định xảy ra vấn đề, nếu Lý Quang Bật bị vây, Lý Tự Nghiệp chi cẩn tới trể một canh giờ thôi, cũng đều có thể xuất hiện bại cục khó có thể vàn hồi được, cho nên ta phải tới đây gấp để đích thân chi huy."
Lý Khánh An nói đến đây, lại cười nói với Vi Thanh Bình: "Việc làm chủ soái cũng là một môn học vấn. Đừng xem bọn hắn hiện tại không ai chịu phục ai, thấy hình như sự mâu thuẫn rất gay gắt. Nhung ta chi cẩn biết cách mà ứng đối cho thích đáng, thì sự mẫu thuẫn của bọn họ ngược lại sẽ trờ thành một thử động lực. Để cho bọn họ cạnh tranh lẫn nhau. Hôm nay Lý Tự Nghiệp không phải đã xử lý xong năm ngàn người của Trường Tử huyện sao? Ngày mai ta cũng sẽ cho Lý Quang Bật một cơ hội tương tự. Đê cho hắn đi cắt đứt lương thảo của Lý Quy Nhơn."
*****
Huyện Thượng Đàng, A Sứ Ng Tòng Lễ đã từ huyện Trường Tử trờ về, đang báo cáo kết quà viện cứu cùng mười mấy đại tướng bọn An Khánh Tự, Lý Quy Nhơn, Lý Hoài Tiên. An Khánh Tự hôm nay vừa mới đến huyện Thượng Đàng, khi mệnh lệnh của An Lộc Sơn đã truyền đến Hà Đông từ hai ngày trước đó, tất cả mọi việc đều phải phục tùng theo chi huy của An Khánh Tự, cũng có nghĩa là chủ soái đã không phải là Lý Quy Nhơn, mà là An Khánh Tự.
An Lộc Sơn cũng biết người con trai này của mình kinh nghiệm tác chiến và mưu lược không đủ. Bèn để quân sư Cao Thượng cũng đi theo An Khánh Tự. Cao Thượng ngồi ngay sau lung An Khánh Tự, hắn có địa vị cực cao trong Yến vương, ngồi sau An Khánh Tự chẳng khác gì đề gia tăng quyền uy noi An Khánh Tự.
Lý Hoài Tiên cũng đã đến. Đó là nể mặt An Khánh Tự. Chi cẩn không phải Lý Quy Nhơn làm thống soái thì hắn có thể chấp nhận. Lý Hoài Tiên ngồi ở phía ngoài rìa nhất, mặt trầm không nói một lời. An Khánh Tự đã cánh cáo hắn, nếu hắn muốn sống sót mời rời quân doanh thì hãy ngoan ngoăn ngậm miệng lại.
Lý Quy Nhơn thì cầm nạng ngồi ở phía còn lại. Sắc mặt Lý Quy Nhơn cũng chẳng khá khẩm hơn bao nhiêu, không phải vì Lý Hoài Tiên có mật mà do vị trí chủ soái nam tuyến của hắn đã bị An Khánh Tự thay thế, nói rõ An Lộc Sơn đã không tin tường hắn. Trong lòng hắn rất bất măn, nhưng lại không dám nói gì cà, dẫu sao An Khánh Tự cũng là thế tử. Hơn nữa Cao Thượng còn mang theo Sát tướng kiếm của An Lộc Sơn đến đây, ai dám không phụ thì hắn hoàn toàn có thể tiên tràm hậu tấu.
A Sử Na Tòng Lê tường tận ti mi kề lại tất cả tình hình tai nghe mắt thấy của hắn. Xong lại đê đội chính may mắn thoát chết tường thuật lại một lượt với mọi người. Trong đại trướng bỗng chốc tĩnh lặng như tờ. Trả đũa! Ai cũng hiểu rõ đây chính là trả đủa. Không lưu tù binh, toàn bộ giết chết, đó là cách trả đũa Lý Quy Nhơn đã giết chết thương binh An Tây.
Lý Hoài Tiên cực kỳ bất măn liếc sang nhìn Lý Quy Nhan, hàng binh không giết, đó là quy cừ nhất quán trên chiến trường, nhung đã bị Lý Quy Nhơn phá hoại, giờ đến phiên bản thân họ, xem Lý Quy Nhơn sẽ nói thê nào.
Khiến Lý Hoài Tiên phẫn hận còn một việc khác, đó là Lý Quy Nhơn đã giết quá nhiều người. Hơn nữa giết xong phó mặc, đế phòng ngừa dịch bệnh xuất hiện mà hiện nay Lý Hoài Tiên không thể không phái ba ngàn người của mình đi tham gia vào việc chỗn xác, mà ba ngàn người này sau khi xử lý xác xong lại không thề trờ lại được quân đội. Lý Quy Nhơn đã làm việc nhân thần cùng phân, nhưng lại đê Lý Hoài Tiên hăn phải đi chùi đít xử lý hậu sự cho, cũng may là ôn dịch còn cHứa bùng phát, nếu không mười mấy vạn người đều sẽ toàn bộ bị chết sạch. Lý Hoài Tiên hận hắn thấu xương, nhưng nếu ở trong quân doanh mình, hắn đã sớm bắt Lý Quy Nhơn đem đi chém đầu thuở nào.
Lúc này, An Khánh Tự cuối cùng cũng đã phát ngôn: "Gách lược của Lý Khánh An rất ư rõ ràng, chính là phái đánh phá từng chỗ, hiện giờ chúng ta không thê phân tán trú thù thêm được nữa."
Hắn nhìn nhìn Lý Hoài Tiên và Lý Quy Nhơn, lại từ từ nói: ""Mọi người chi cẩn phân chia làm hai đại trủ địa. Một là nam đại doanh của tướng quân Lý Quy Nhan, trú quân Thượng Đáng, một là bắc đại doanh của tướng quân Lý Hoài Tiên, trú quân Đồn Lưu. Các tiêu thành còn lại thì nhất luật không trú binh."
Lý Quy Nhơn phẫn hận nói: "Có bản lĩnh thì ngươi hãy quang minh chính đại đánh
Một trận chiến, đánh lén như thế thì là anh hùng gì chứ?"
Lý Hoài Tiên vừa mờ miệng định mỉa mai thì ai ngờ Cao Thượng đã có chuẩn bị trước, vừa giơ tay ghì hắn lại. Không cho phép hắn nói gì. Lý Hoài Tiên chi đành nuốt lại lời vào bụng. Lạnh lùng nhìn Lý Quy Nhơn, trong lòng đầy khinh khi.
Cao Thượng tiếp lời cười nói: "Lý Khánh An vốn dĩ nổi tiếng với việc áp dụng đủ quý kế mưu mô, ngươi để hắn không xuất kỳ binh đột xuất, vậy hắn sẽ không còn là Lý Khánh An nữa. Ta đã nghiên cửu rất kỹ đặc điểm tác chiến của hắn. Hắn rất thích đánh thăm dò trước, rồi mới đánh biên, cuối cùng là tấn công thẳng chủ lực. Lẩn này xem ra bài bản của hắn cũng chẳng thay đối gì. Tập kích huyện Trường Tử chẳng qua là thám thính thôi, vậy bước tiếp theo của hắn chắc chắn sẽ là đánh biên, giờ quan trọng là biên của chúng ta ở đâu? Mọi người đã nghĩ ra được cHứa?"
Phán tích của Cao Thương đã làm dấy lên hứng thú của rất nhiều người. Mọi người đều thi nhau trầm tư. Lý Hoài Tiên nói trước: "Không lẽ là bao vây tấn công bốn vạn quân cũ Doãn Tử Kỳ ở Thái Nguyên?"
Cao Thượng lắc lắc đầu cười nói: "Quân Doãn Tử Kỳ và nam tuyến quan hệ không lớn. Cho dù khử quân Doãn Tử Kỳ đi, Quách Tử Nghi cũng phải thù Thái Nguyên. Hắn tính tình cẩn thận, sẽ không dễ dàng nam hạ. Cho nên chúng ta không phải quá lo lắng hắn."
An Khánh Tự cũng cười nói: "Quách Từ Nghi kiên nhẫn khiến người ta phải kinh ngạc. Doãn Từ Kỳ chi có bốn vạn người, còn hắn lại có tám vạn quân. Doãn Tử Kỳ trú binh khiêu khích ngoài hai mươi dặm thành Thái Nguyên. Quách Tử Nghi thì cũng chi án binh bất động, thật sự khiến người khó mà lý giải."
"Thiếu soái, kỳ thực rất dễ hiểu thôi."
Cao Thượng cười nói: "Quách Từ Nghi chi có tám vạn nhân mã này thôi, hắn dù làm sì cũng phải giữ lại cho kỳ được, nếu như nói là hắn đang bảo vệ Thái Nguyên chi bằng nói hắn đang tự bảo vệ chút lực lượng cuối cùng của minh. Triều đình là nơi phải dựa vào sức mạnh để nói chuyện, nếu không có thực lực, vậy hắn cùng chẳng còn là cái thá gì. Tên Quách Tử Nghi này thật nực cười, hắn còn nghĩ minh sẽ bảo vệ được cho con cháu của Lý Thế Dân nữa sao?"
Lời của Cao Thượng đã dấy lên cách nhìn chung từ phía Lý Hoài Tiên, hắn cũng cười nói: "Tên Quách Tử Nghi quả thực là người không biết điều chút nào, Lý Khánh An đã có năm mươi vạn đại quân, tám vạn đại quân của hắn thì làm nên trọ trống gì? Hắn còn có thể phản loạn triều đình nữa sao? Ta xem Lý Khánh An cũng chẳng để hắn trong mắt sì..."
Lời của Lý Hoài Tiên còn cHứa nói xong thì đã bị Lý Quy Nhơn lạnh lùng cắt ngang, "Cao tiên sinh, nói qua nói lại, rôt cuộc thì mục tiêu của Lý Khánh An là ở đâu? Ta vẫn đang rửa tai để chờ nghe đây!"
Cao Thượng áy náy cười cười, xong nói với mọi người: "Mục tiêu của Lý Khánh An mà ta nói. Không phải chi Thái Nguyên, chắc là Minh Châu Hà Bắc, cắt đứt đường lương của chúng ta."
Mọi người như thế mới ngỡ ra. Lý Quy Nhơn chau mày lại nói: "Nhưng hắn làm sao có thể vỏng ra sau lưng chúng ta?"
"Hắn không thể, nhưng Lý Quang Bật có thể!" Lý Hoài Tiên lạnh lùng đáp trả lại đòn cho Lý Quy Nhơn.
Từ Trường Bình quan đến Triệu Châu Hà Bấc còn phải đi quan Bạch Hình, trực tiếp từ Bạch Lộc sơn đi vào huyện Cộng Thành Vệ Châu, cũng chính là Huy Huyện Hà Nam hôm nay, sau đó đi vào Tương Châu, đi thẳng lên Minh Châu. Minh Châu cũng chính là noi sờ tại của Hàm Đan Hà Bắc ngày nay, có tên từ con sông lớn Minh Thủy.
Địa bàn khống chế của Lý Quy Nhơn là Minh Châu. Hình Châu và Triệu Châu, kho lương chủ yếu của hắn cũng nằm ở huyện Lâm Minh của Minh Châu, có trọng binh phòng ngự. Giới bị rất ư nghiêm ngặt. Còn lương thực chú yếu của lẩn nam chinh này sẽ được vận chuyển trước từ u Châu đến kho lương Lâm Minh, rồi mới nam hạ đi qua Phủ Khẩu Hình vận đến Lộ Châu.
Nếu như muốn cắt đứt đường lương thực của Yến quân, đoan đường tốt nhất chính là khúc từ Hàm Đan đến huyện Phủ Dương, quan đạo dài khoáng năm mươi dặm. Nhất lộ rừng núi rậm rạp, có rất nhiều địa điểm náu minh cực tốt.
Quân đội của Điền Thừa Tự chù yếu tập trung tại Ngụy Châu và Bác Châu, cũng có lượng ít trú binh tại Tương Châu, chi có hàng ngàn người. Chú yếu tập trung trong các thành thị chú yếu như thành Tương Châu và Nghiệp Huyện... , Vệ Châu phía nam không binh trú thủ. Sau khi Lý Quang Bật vào Hà Đông, để chiếm cứ đường thông đạo cực kỳ quan trọng như Bạc Hình này, hắn đã xuất binh năm ngàn người, chiếm cứ huyện Cộng Thành Vệ Châu, cũng là chiếm cứ lối vào Bạch Hình tại Hà Bắc đạo.
Tối ngày hôm đó, một đội kỵ binh hai ngàn người phóng băng băng giữa đất Hà Bắc, đại tướng đi đầu chính là Lý Quang Bật, hắn phụng mệnh của Lý Khánh An đến chặn lại đường lương thực của Yến quân. Đường lương thực này đương nhiên là khó mà cất đứt được, nhung có thể thừa cơ tiêu diệt vài đội nhân mã chuyển lương, cũng có thể phần nào làm lung lây quân tâm Yến quân, cũng chẳng thua gì công to Lý Tự Nghiệp khi tập kích huyện Trường Tử.
Hai ngàn binh sĩ mà Lý Quang Bật tuyển chọn cực kỳ tinh nhuệ, đều là lão binh An Tây tòng quân trên năm năm. Tuyệt đại đa số đều là người Thồ Phồn từng theo hắn tiến công Lũng Hữu và Thổ Hoả La. Đều thân trải trăm trận, hơn nữa chiến mã họ dùng đều là ngựa Đại Uyển thượng hạng, con nào con nấy cao to tuấn tú. Sờ trường trường chinh vạn dặm.
Hai ngày kỵ binh băng băng giữa màn đêm đen thẳm, vó ngựa đã được dùng vải bông An Tây bọc kỹ, băng đi giữa rừng rậm vào thảo nguyên. Không còn tiếng vó ngựa chói tai, nôm tựa nhưng bóng ma lướt đi dưới ánh trăng huyền ảo.
Đoàn kỵ binh đã rời xa Tương Châu và Nghiệp Huyện đi thẳng bắc thượng, có thể nói thiên lý vô kê đề, tuy thời gian đã chuyển sang đầu hạ tràn trề sức sống, nhung nơi mà họ đi qua đều không một bóng người, đâu đâu toàn huyện thành trống trơ hoặc thôn trang hoang tàn không còn bóng người, ngờ chừng đã đi vào quỳ vực Trần gian. Sau An Sử chi loạn, khu vực Hà Bắc đã bị phủ lên cánh tượng lụi bại hoang tàn.
Trong lòng Lý Quang Bật thấy nặng trĩu, lúc này hắn mới có thể cảm nhận rõ được khố tâm vì sao Lý Khánh An phải mấy lẩn di dân quy mô và cả giới hạn chiến lược không cho quân đội của An Lộc Sơn vào Hà Đông. Quân của An Lộc Sơn còn ghê gớm hơn nạn châu chấu, nơi nào đi qua đều bị chúng càn quét sạch sẽ.
Đoàn kỵ binh ngày đêm phóng đi. Hành quân suốt hai ngày hai đêm. Tối hôm đó, đoàn kỵ binh cuối cùng cũng đã đến một nơi hẻo lánh không mấy tiếng tăm tên là Chiêu Nghĩa trấn tại bờ nam Phủ Thủy. Nơi đây là nơi kết họp giữa mạch núi Thái Hành sơn cùng đồng bằng, là một dãy núi đồi thấp kéo dài vài chục dặm. Còn bên kia sông chính là Phủ Khẩu trấn, là lối vào của Phủ Khẩu hình.
Vùng này thế núi thấp trũng, rừng núi xum xuê, do nhân khẩu chủ yếu tập trung tại
Khu vực phía đông huyện Phù Dương, vì thế vùng này người cực ít. Môi trường cHứa gặp phải phá hoại, có khu rừng lớn trải dài trăm dặm thênh thang.
Nhưng điều kiện này đã không bị bỏ quên xuất hiện trên sa bàn nhỏ của Lý Quang Bật. Lý Quang Bật có một sa bàn đặc biệt, là lễ vật Lý Khánh An đã tặng hắn hồi mùa đông năm ngoái, điểm đặc biệt của nó là vì sa bàn này được ghép lại từ một trăm mẫu tiểu sa bàn một thước hình vuông tạo thành. Nếu cẩn thiết, hắn có thể chi mang một bộ phận đi, như thể hiện tại. Hắn chì cẩn mang bốn mẫu sa bàn theo hành quân đã có thể bao gồm tất cả lộ tuyến hành quân của hắn.
Dưới ánh trăng mờ, các binh sĩ đều tranh thù nghỉ ngơi trong rừng. Lý Quang Bật thì tìm một khoảng đất trống, một minh ngồi bàn chân trên đất. Lợi dụng ánh trăng soi sáng chăm chú nghiên cứu sa bàn trước mắt. Theo tình báo mà Lý Khánh An đã cung cấp cho hắn. Gần đây An Lộc Sơn lẩn lượt cho vận chuyển năm mươi vạn thạch lương thực từ u Châu đến Minh Huyện. Như vậy trong thời gian này, đội chuyển lương thực đi qua Phủ Khâu Hình đến Hà Đông cũng sẽ được gia tăng rất nhiều.
Xích hầu hắn phái ra đã đi thám thính tình hình. Lý Quang Bật suy ngẫm là hướng đi tiếp của Yến quân, sau khi huyện Trường Từ bị tập kích. Yến quân nhất định sẽ gia tăng phòng ngự. Muốn tập kích thành công thì cũng không còn dề dàng nữa. Lý Quy Nhơn có thê không thiện dùng binh đột kích, nhưng An Khánh Tự thì sao? Nhất là đi cùng An Khánh Tự nam hạ còn có mưu sĩ Cao Thượng, hắn liệu có nhìn ra minh sẽ tập kích đường chuyển lương không?
Dù cho trong lòng Lý Quang Bật hiểu rõ khó khăn khi đánh úp, nhung hắn vẫn phải đi nước cờ này, hắn không muốn thua Lý Tự Nghiệp, nhất là khi Lý Tự Nghiệp nói hắn đi đi lại lại trên Hoàng Hà. Đã vạn phần cảm kích hắn. Mỉa mai của Lý Tự Nghiệp cũng như cách nghĩ của bao nhiêu người. Quả thực không ai có thể lý giải sau khi hắn vượt sông Hoàng Hà. Vì sao lại phải rút quân về. Rõ ràng Tương Châu không có quân đội trú phòng, hắn vì sao không đi chiếm đóng? Không chi người ngoài không thể lý giải, cả thù hạ của hắn cũng không Lý giả. Lý Thịnh còn cố ỷ từ Tề Châu chạy đến chất vấn hắn.
Hắn khó mà trả lời được, nhưng lời này đều do hắn trung thành chấp hành mệnh lệnh của Lý Khánh An. Lý Khánh An không cho phép hắn chiếm Tương Châu, không cho phép hắn đánh Ngụy Bác, lệnh hắn phải rút về Hà Nam trước khi Hoàng Hà băng tan. Và cho hắn một Lý do, quân lương bổ cấp khó khăn.
Thật sự là như thế ư? Cũng như Lý Thịnh đã chất vấn. Hoàn toàn có thể tổn lượng lớn lương thực tại Tương Châu, căn bàn không cẩn thiết chuyển về Hà Nam, hơn nữa bọn họ sờ hữu đội thuyền vận chuyến duy nhất của Hoàng Hà. Trong một ngày một đêm có thể chuyển vài vạn đại quân vượt qua Hoàng Hà. V. V và v. V, bọn họ có thể rút về Hà Đông, chấp tay dâng tặng Hà Bắc cho An Lộc Sơn.
Lý Quang Bật không cách nào trả lời được nghi vấn của binh sĩ, càng không cách nào trả lời cho người thiên hạ. Vì thế hắn bèn phải được cho một cái biệt danh là "người lái đò trên sông Hoàng Hà", từ đầu chí cuối, hắn chi từng giải thích qua với một mình Lý Thịnh mà thôi, cho dù giải thích, hắn cũng chi nói không đầu không đuôi, "An Lộc Sơn nếu không được toàn cánh Hà Bấc, hắn sẽ không phân binh trú thủ, cũng không cách gì hình thành được quân phiệt chia cắt tại Hà Bắc."
Đấy là nguyên văn của Lý Khánh An. Lý Quang Bật cũng cHứa hoàn toàn lý giải, nhung giờ hắn hiểu rồi. Quân phiệt chia cất tại Hà Bắc đã dẩn thành hình. Sử Tư Minh bộ, Lý Hoài Tiên bộ, Lý Quy Nhơn bộ, Thái Hy Đức bộ, Điền Thừa Tự bộ, An Khánh Tự bộ, nhưng quân đầu này người nào người nấy đều không dễ dàng đè đầu cưỡi cỗ được, hoàn toàn không chịu nhường nhịn nhau, toàn dựa vào uy tín của An Lộc Sơn đê duy trì, một khi An Lộc Sơn gặp phải chuyện gì, Yến quân tất sẽ tự phân liệt.
Lý Quang Bật vẫn đang trầm tư. Lúc này tiếng bước chân vội vã phóng chạy vọng đến. Có thân binh đi lên bẩm báo: "Tướng quân, xích hầu có tin tức đến rồi."
"Dẩn lên đây!"
Một tên xích hầu bị dẫn qua. Hắn quỳ một chân xuống bầm báo: "Bầm báo tướng quân, chúng ta đến thám thính tình báo."
"Nói! Tình báo gì?"
"Tại phía bấc huyện Phủ Dương chừng năm mươi dặm, một đội lương thảo đương từ phía nam đi đến. Được tổ thành từ khoảng năm trăm chiếc xe ngựa. Vận chuyền toàn bộ đều là cỏ khô, tổng cộng có một ngàn hộ vệ kỵ binh."
Lý Quang Bật trâm tư được một hôi. Đây chi là một đội lương thảo hạng trung. Hơn nữa không có lương thảo, giá trị không cao, nhung mục đích của hắn không phải là vì chặn được bao nhiêu lương thảo, chi cẩn thắng lợi, và quan trọng hơn nữa. Hắn ở đây càng lâu sẽ càng dễ bị bại lộ.
"Lý tướng quân..."
Xích hầu do dự một lúc nói: "Chúng ta có một tên huynh đệ bị mất tích."
"Bị bắt cóc ư?"
"Không biết!" Xích hầu lắc lắc đầu."Có lẽ là bị bắt cóc. Cũng có thể bị lạc đường."
Phó tướng bên cạnh rất ư lo lắng, khẽ giọng nói: "Tướng quân, nếu như bị bắt cóc rồi. Hành tung của chúng ta sẽ bị bại lộ. Hay chúng ta quay về trước đã."
"Không!"
Lý Quang Bật quyết liệt hạ lệnh nói: "Để huynh đệ lên ngựa, chuẩn bị xuất phát!"
Lệnh hạ như núi đổ, hai ngàn kỵ binh trờ người lên ngựa, vượt qua Phủ Thủy, phóng đi về phía bắc. Chi một chốc đã biến mất trong màn đêm nặng trĩu.
Trong một khu rừng phía tây quan lộ, An Thù Trung ngước đầu nhìn nhìn ánh trăng. Trăng đang xuyên qua mây màu. Lúc tò lúc mờ.
"An tướng quân, ta lo rằng quân Đường sẽ không đến!" Một quân quan bên cạnh
Khẽ tiếng nói.
An Thù Trung cười cười lắc đầu nói: "Bọn chúng chắc sẽ đến. Chi cẩn không phát hiện được chúng ta. Chúng ta không phải đã bắt được một xích hầu quân Đường sao? Lý Quang Bật cũng trong quân trung, cơ hội như thế sẽ không có nhiều đâu!"
Hắn vừa dứt lời thì một tên Yến quân xích hầu băng đến báo: "An tướng quân, đã phát hiện quân Đường, có khoảng hai người kỵ binh, đã đi đến ngoài hai mươi dặm."
"Tốt lắm!"
An Thù Trung đắc ỷ hạ lệnh nói: "Chuẩn bị kéo lưới được rồi!"
Lý Quang Bật suất lĩnh hai nghìn kỵ binh phóng chạy băng băng ven bìa rừng rậm rạp, phi ngựa song song với quan đạo, nhưng quan đạo lại ở ngoài xa năm dặm. Lý Quang Bật lòng tin tràn ngập gấp trăm lẩn. Nhung không thê nào ngờ rằng một mỏm núi hắn vừa mới vượt qua được, lại chính là cửa bẫy do An Thù Trung bày ra.
Lúc này, một đội xích hầu chạy tới. Trên mặt bọn họ có chút sợ hãi. Thấp giọng ghé sát bên tai Lý Quang Bật nói vài câu, Lý Quang Bật mặt chợt biến sắc. Nhưng lại khoát tay áo, ý bảo binh lính tiếp tục đi tới. Phó tướng bên cạnh hắn vè mặt ngạc nhiên, biết rõ trong núi có hổ, lại cử chọn hướng núi có hổ đi sao?
*****
Ban đêm đã đến thời gian canh một. Trên quan đạo cách huyện Phủ Dương một quăng hai mươi dặm về phía bắc có một đội xe ngựa đang đứng đó, khoảng hơn năm trăm chiếc, trên xe ngựa chờ đầy cỏ khô, từng có một khoảng thời gian, cỏ khô của Hà Bắc còn quỷ giá hơn cả lương thực.
Các binh sĩ và phu xe đều núp trong xe ngựa mà ngủ. Bọn họ sẽ nghỉ ngơi hai canh giờ, rồi sau đó tiếp tục đi vội về phía nam. Nhiệm vụ của đội xe ngựa này chính là vận chuyển lương thảo, đi đi lại lại. Không biết đi được bao nhiêu chuyến, người cũng trờ nên mệt mòi. Ngay cả lính gác bắc buộc cũng không biết trốn ở nơi nào đi tìm tới giấc ngủ.
Xe ngựa trên quan đạo đỗ lại bắn ngang loạn xạ. Ngựa cũng đã ăn cỏ khô và uống nước xong, đứng lại ở trước xe ngựa ngủ. Bốn bề trờ nên vắng lặng, ngập chìm trong tiếng rả rít của côn trùng đua nhau vang lên.
Ngay lúc này, một mũi tên lửa "rít! Một tiếng bắn qua. Trúng ngay vào đống cỏ trên một chiếc xe ngựa. Mồi lừa nhanh chóng bít bác đốt cháy lên. Nương theo thế gió, một chốc lát bèn đã trôi vụt lên trời, phu xe núp ngủ trong đống cò thảm kêu rơi từ trên xe ngựa xuống, ngọn lửa lớn đã bốc cháy trên đầu tóc của hắn.
Hòa tiền bắn tới đầy trời, chi trong phút chốc, hơn ba trăm chiếc xe ngựa đều bị đốt cháy, trên quan đạo trờ nên hỗn loạn, các binh sĩ hộ vệ trờ mình lên ngựa, hớt hải kéo lấy dây cương. Nhưng mong ồn định lại nhưng con ngựa chiến đã bị kinh sợ.
"Giết!"
Lý Quang Bật một tiếng Rõng to, hai ngàn kỵ binh như mành hổ từ trong rừng rậm lao ra. Lao thẳng tới đoàn xe. Thẳng xả chiến đấu kịch liệt với Yến quân hộ vệ, tiếng leng keng của binh khí chạm vào nhau, kỵ binh bị chém trúng kêu thảm rơi xuống ngựa. Yến quân rõ ràng không phải là đối thủ của quân Đường, chi trong thoáng chốc hộ vệ binh của xe ngựa đã chết hơn phân nửa. Nhưng hộ vệ kỵ binh còn lại chạy trốn tán loạn về bốn phía, tất cả xe ngựa đã hoàn toàn bị cơn lửa to nuốt sống. Vô số chiếc xe ngựa chạy thục mạng trên quan đạo và trong ruộng hoang. Rất nhanh liền bị lật nhào trên mặt đất. Ngựa kéo xe cũng bị vùi đầu lấp thân bời nhưng đống cò khô đã bốc cháy hừng hực.
Lúc này, ánh mắt của Lý Quang Bật lạnh lùng nhìn sang bốn bề rừng rậm. Hắn đã nghe thấy tiếng thét giết và tiếng vó ngựa như sấm rền từ trước sau trái phải truyền đến. Chi thấy Yến quân đông như kiến cò từ bốn phương tám hướng xuất hiện, tuyệt đại đa số đều là kỵ binh, dựa vào kinh nghiệm của Lý Quang Bật mà phán đoán, ắt hẳn không thấp hơn ba vạn người.
Lý Quang Bật đã phán đoán thật sự rất chính xác. Ba vạn năm nghìn người. Lý Quy Nhơn. Thái Hy Đức, Lý Hoài Tiên mỗi người ra một vạn người, còn có năm ngàn quân hộ do An Thủ Trung suất lĩnh nữa.
Hành động của đợt vây bắt quân Đường lẩn này do hắn phụ trách dẫn đầu. Chú ý là dẫn đầu. Mà không phải thống soái, trước hết là quân của Lý Hoài Tiên thôi thì hắn đã không thế thống soái được rồi. Lý Hoài Tiên có thế ửng lệnh của An Khánh Tự mà xuất binh, nhung quyền chi huy tuyệt đối không giao ra cho ai.
Ba đội quân tựa như một chiếc lưới săn khổng lồ, đang nhanh chóng hướng con mồi mà vây thắt lại, nhung khi còn cách quân đội Lý Quang Bật ước chừng bốn trăm bước, hơn ba vạn quân Yến đã đứng bước lại.
Giống như con mồi là một con sư từ hung mành, các thợ săn không ai dám tiến lên đi bắt con thú săn. Trong tình hình thông thưởng. Cũng đều là chờ cho con hùng sư tự vì đói khát mà ngã thẳng ra. Huống chi đây lại là ba thợ săn ai nấy đều có ý đồ riêng, ai cũng không muốn mạo hiểm đi bắt con mồi. Nhưng ai cũng muốn có chiến lợi phẩm tốt nhất, đầu người Lý Quang Bật.
Bên trong sự vây khốn của trọng quân, hai ngàn quân của Lý Quang Bật nhanh chóng kết thành vỏng trận, hình thành trong ngoài hai cái vỏng tròn lớn. Bên vỏng ngoài các con ngựa cách xa nhau một bước, còn bên trong vỏng thì chiến mã cũng cách xa nhau một bước như thế, cùng vỏng ngoài lẩn lượt sắp xếp xen kẻ nhau, như vậy song phương có thể vừa tiến ra vừa tiến vô, hình thành hai đoạn tầm bắn.
Trên tay mỗi một kỵ binh cũng đều cầm một loại kỵ nỏ tối tân nhất.
Đây là một loại kỵ nỏ vừa mới nghiên cửu chế tạo ra chuyên dùng cho kỵ binh, khá giống với thần tí nỏ sau này, thân cung dài ba thước ba. Dây cung dài hai thước năm. Tầm bắn xa đến ba trăm bước, tầm bắn có hiệu lực sát thương trong phạm vi là một trăm tám mươi bước.
Nó chủ yếu khác ở chỗ cách thức lên dây cung. Nhưng nỏ tiễn thông thưởng cũng đều là dùng sức phía sau kéo ra. Dùng chân nhún hoặc là lực cánh tay, nhưng loại nỏ tiễn này lại có một que gậy như đòn bẩy vậy, từ phía dưới kéo ra trước để kéo que gậy bật ra. Lợi dung nguyên Lý đòn bẩy, có thể kéo dây cung ra rất dề dàng.
Đối với bộ binh, phương thức kéo dây cung ngược lên này không quá thực dụng, nhưng với kỵ binh thì lại khác, cung nỏ có cán bằng gỗ, kỵ binh có thề một tay cầm khiêng. Một tay khác cầm cán lên dây cung. Bên trên bàn đạp của yên ngựa có một vật tựa vỏng sắt tròn, vỏng sắt tròn đó chính là mấu chốt lên dây cung, phối hợp với loại kỵ nỏ này mà chuyên môn thêm vào, chi cẩn đem gậy bấy cắm vào bên trong vỏng sắt. Một tay hướng về phía trên dùng sức nhấc lên. Chi nghe "Răng rắc một tiếng, thì đã hoàn thành việc kéo dây cung rồi.
Các mũi tên cũng là dùng hộp nỏ đựng, một hộp nỏ chứa hai mươi mũi tên, chi cẩn cầm nỏ ngang với mặt đất, dùng ngón trỏđẩy tấm chắn nắp tên, một chiến nỏ tiễn bèn sẽ chính xác roi vào trong chỗ lên tên. Cho dù có chút lệch đi, cũng có thế dùng tay điều chinh, tên chi có bảy tấc. Nhung lại sắc bén hơn. Tốc độ càng nhanh hơn. Sức xuyên giáp tốt hơn. Loại kỵ nỏ này tiện lợi. Nhanh nhẹn, uy lực lớn mạnh, một vạn chiếc kỵ nỏ vừa mới trang bị trong quân đội, bèn rất được sự ưa chuộng sâu sắc của các kỵ binh, do hộp tên cực giống như Sửng bò tót, vì vậy các kỵ binh lại gọi nó là "Tê ngưu vọng nguyệt nỏ" (nỏ bò tót ngắm trăng).
Thêm vào đó nó có chỗ độc đáo của cán tay cầm, rất nhiều binh sĩ thông binh bèn lợi dụng chỗ lõm trên bề mật khiên đỡ phối họp sử dụng với loại nỏ này, có thề dùng một tay xạ kích, phương thức xạ kích này rất nhanh đã thịnh hành ở quân doanh, cũng gây được sự chú ý với các quân tượng, bất đầu nghiên cứu sự phối họp giữa khiên chắn và nỏ tiễn.
Hai nghìn kỵ binh vây thành hai vỏng tròn to ở bên trong và bên ngoài, hai nghìn chiếc kỵ nỏ lạnh lùng nhắm thẳng vào quân địch ở ngoài ba trăm bước, song phương đã hình thành nên cục diện giằng co.
Nhưng cục diện giằng co này cũng chi duy trì được trong chốc lát, quân đội Lý Quy Nhơn phía tây nam đã phát động sự công kích đầu tiên, tiếp theo sau là Thái Hy Đức bộ ở phía đông cũng phát động công kích theo, năm nghìn hộ lương quân của An Thủ Trung cũng đánh tới, nhưng một vạn quân Lý Hoài Tiên ở phía bắc lại không động đậy, bọn họ phất cờ reo hò, nổi trống trợ uy, nhung không một ai đánh ra.
Thủ hạ mănh tướng Lý Nhật Việt của Lý Hoài Tiên nhận được sự chi thị của chủ soái: Xuất binh không xuất lực, nhằm để bào toàn thực lực.
Hai vạn năm nghìn Yến quân từ ba phía nhanh chóng đánh ập tới. Khí thế như dỡi non lấp bể, khiến người ta kinh hoàng, nhưng Lý Quang Bật lại chẳng nhúc nhích chút
Nào, hắn có mang theo vũ khí bí mật. Không chút hoang mang. Lý Quang Bật thấy quân đội phía bắc tuy rằng tiếng thét giết ùn trời, vậy mà thực tế lại không tiến công, trong lòng hắn có chút sờ ngộ, bèn tức tốc điều chinh trận hình, từ trận tròn biến thành trận bán nguyệt, mặt bắn phát càng lớn hơn nữa.
t r u y e n c u a t u i N e t
Cho dù quân Đường chi có hai nghìn người, nhưng bọn họ lại ngưng tụ trầm vững như thái sơn. Ai nấy ánh mắt sắc lạnh, tay cầm kỵ nỏ, nhắm thẳng vào Yến quân đập ngay trước mắt. Bọn họ không có chút sì là hoảng sợ và mong muốn thoái lui, sát khí lớn mạnh do hai nghìn quân đội tụ lại phát ra. Lại chẳng mảy may thua kém với hai vạn năm nghìn Yến quân.
Yến quân đang tức tốc lao thẳng vào quân Đường, ba trăm bước... Hai trăm năm mươi bước... Hai trăm bước... Một trăm tám mươi bước, kỵ binh đã dẫn đầu bước vào cự ly sát thương, một tiếng mõ dồn dập trong đội ngũ quân Đường đột ngột vang lên. Theo tiếng mõ vang, một nghìn nỏ tiễn như mưa bão bắn ra. Ập thẳng vào kỵ binh Yến quân đông nghịt, chi thấy một lớp người ngựa ngã người bay, mấy trăm kỵ binh Yến quân bị bắn trúng, ngã nhào xuống đất. Trờ nên Rối loạn, ngay sau đó kỵ binh vỏng trong giục ngựa tiến lên. Lại là một nghìn chiếc nỏ tiễn bắn bật mạnh ra. Dày đặc như mưa rào, lại là ba bốn trăm kỵ binh trúng tên ngã quỵ.
Ngoài ra một nghìn kỵ binh đã lên nỏ tiền xong, một lẩn nữa bắn phát ra. Binh sĩ quân Đường đã từ từ ăn ý nhau, bọn họ không còn là một trước một sau nữa. Mà là cùng hàng phát tên. Mỗi người đều hình thành sai lệch thòi gian với chiến Hữu bên cạnh, một lượt tên phát ra. Lại một lượt tên khác lại lập tức bắn phát.
Vào khuyên, nâng nỏ, lên tên. Xạ kích, cơ hồ là một hơi liền mạch dứt khoát, động tác thuần thục dị thưởng, đến nỗi mà tên trận không có bất kỳ sự ngắt quàng nào, trôi chảy như nước chảy mây trôi, mũi tên ngập trời lấp đất từng đợt từng đợt bắn vào quân trận của quân địch, chi vỏn vẹn trong khoảng cách trăm bước ngắn ngủi, đã bắn ra sáu đợt một vạn hai nghìn mũi tên. Kỵ binh tử thương đã gần đến năm nghìn người, tám nghìn kỵ binh của Lý Quy Nhơn tan rã trước nhất, đã triệt ra khỏi sự vây công.
An Thù Trung cũng là một viên lão tướng kinh nghiệm phong phú. Hắn thấy nỏ tiễn của kỵ binh quân Đường lại lợi hại như vậy, khiến cho hắn sửng sốt thán phục, còn quân đội của Lý Hoài Tiên không hề tham dự vào sự vây công, hai bên như vậy thì sẽ xuất hiện lỗ hổng binh lực. Quân Đường có thể từ trong hai lỗ hổng này ung dung mà chạy khỏi ra.
Hắn lập tức hô lớn: "Thu binh!"
Tiếng chiêng thu binh "tang! Tang! Tang! Gõ vang. Yến quân cảm thấy bất lợi lui xuống như nước triều, lại lui đến ngoài ba trăm bước, khi sự xạ kích của quân Đường không hề đứng lại, mà là dày đặc bắn vào mặt đất. Hàng nghìn binh sĩ Yến quân bị thương đang giãy giụa trên mặt đất. CÙNG với nhưng con chiến mã nằm trên mặt đất chảy máu co giật, sau một chốc lát. Trên chiến trường trờ nên tĩnh lặng, tất cả thương binh thương mã toàn bộ đều đã bị bắn giết hết.
Còn binh sĩ quân Đường cũng bị thương ba mươi mấy người, bị mũi tên bắn từ đối phương sây thương tích, nhung không một ai trận vong, trên chiến trường trờ nên tĩnh lặng. Đối phương đã bước vào sự giằng co của một đợt mới.
An Thủ Trung phóng ngựa chạy vội đến phía bắc, giận mắng đại tướng Lý Nhật Việt nói: "Ba quân tướng sĩ đều chiến đấu quên mình, sao bộ ngươi lại không xuất?"
Lý Nhật Việt lạnh lùng đáp: "Thời cơ cHứa tới, xuất binh thương vong quá lớn. Mất nhiều hơn được."
An Thủ Trung tức giận đến điếng người, chửi ầm lên nói: "Ngươi... Hỗn đản! Nếu
Không phải các ngươi không ra binh, bọn ta cũng không đến nỗi thương vong lớn đến như vậy, các ngươi ôm tư tâm trong lòng!"
"An tướng quân!"
Lý Nhật Việt vẫn khẩu khí lành đạm nói: "Ra binh hay không do bản thân bọn ta quyết định, ngươi không phải An thiếu vương gia. Không có quyền chi huy bọn ta. Vì vậy xin ngươi đừng có vượt quyền."
"Ngươi!"
An Thù Trung tức giận đến cả người phát run. Hắn rút ra một mũi tên. Gập lại hai đoạn, xoay người giục ngựa bước đi. Lý Nhật Việt liếc mắt một cái nhìn tên gãy trên đất, khinh khinh cười lạnh lên một tiếng.
Trong quân Đường. Lý Quang Bật lại kích động vạn phần, hắn lớn tiếng cổ vũ các binh sĩ của mình: "Làm hay lắm. Không hô là quân An Tây, núi Thái sơn lờ ngay trước mặt mà không kinh sợ, để cho Yến quân cẩu tặc nhìn xem. Cái gì là thiên hạ đệ nhất quân, cái gì gọi là lấy một làm mười, các huynh đệ. Hôm nay bọn ta phải để người thiên hạ biết rằng, quân nhân bước ra từ chiến trường Thồ Hỏa La. Là không thể nào chiến thắng được!"
Trên quan đạo, hai nghìn quân Đường đang giằng co với ba vạn Yến quân, còn trong kho lương Yến quân của huyện Lâm Minh lại là tiếng thét giết rung trời. Lâm Minh vốn dĩ có tám nghìn trọng binh Yến quân trú phòng, nhung An Thủ Trung mang đi năm nghìn người đi phục kích Lý Quang Bật. Ngoài ra còn có một nghìn kỵ binh đi ngụy trang áp tải lương thảo, trong kho lương chi còn lại có hai nghìn quân, binh lực rất ư yếu mánh.
Mà lúc này, một chi ba nghìn quân Đường do bộ tướng Ưng Hy Hạo của Lý Quang Bật suất lĩnh đã xông phá sự liều chết chống cự của hai nghìn hộ lương Yến quân, đánh
Thẳng vào trọng địa kho lương, từng túi hòa dầu phun bắn lên trên kho lương, từng ngọn đuốc đốt cháy hỏa dầu, ngọn lửa thổi bùng lên trên không trung, từng tòa từng tòa kho lương bị ngọn lửa lớn hừng hực nuốt chửng lấy, ánh lửa ngụt trời, chiếu sáng bầu trời đêm tăm tối, ngoài xa trăm dặm đều có thể nhìn thấy ngọn lửa sáng đò và khói đặc cuồn cuồn.
Trên quan đạo ngoài xa ba mươi dặm. Quân Đường và Yến quân vẫn còn đang giằng co, một viên quân Đường đột nhiên chi vào phương bắc la to: "Tướng quân. Ưng tướng quân đã thành công rồi!"
Yến quân cũng đã phát hiện sự bất thưởng, bỗng chốc trờ nên xao động, chúng quân ồ lên kinh hoàng, mỗi người đều trợn mắt há hốc mồm. An Thủ Trung vỗ mạnh lên trán một cái. Trong mắt đau khổ tột cùng. Hắn đã trúng phải kế điệu hồ ly sơn của Lý Quang Bật rồi.
Lý Quang Bật thấy thời cơ đã chín mùi, bèn hô to một tiếng: "Chấn thiên lôi bắn ra!"
Lập tức có mười mấy viên công tượng quân Đường từ trên xe ngựa dỡ xuống một chiếc máy bắn đá loại nhỏ, máy bắn đá loại nhỏ chia làm bốn bộ phận khác nhau, trong chốc lát bèn đã lắp đật xong, mấy chục quân Đường đem máy bắn đá loại nhỏ khiêng đến ngoài mấy chục bước.
Loại máy bắn đá này giống như một chiếc giường nỏ loại to, dài đến một trường, dùng bàn kéo lên lực. Có thê đem vật thế nặng ba mươi cân bắn đến ngoài ba trăm bước.
Hai vạn người Yến quân đều ngơ ngác nhìn vào bọn họ đang hì hục bận rộn. Ai cũng không biết quân Đường đang làm gì. Sắp ném đá tác chiến ư? Nhung chi có một cái máy bắn đá. Có ý nghĩa gì chứ?
Một viên binh sĩ quân Đường đã đốt cháy chấn thiên lôi giống như quả bí đỏ màu đen vậy, mồi lửa nhanh chóng được đốt lên. Khi lửa cháy đến vạch mức ba trăm bước, máy bắn đã đã phát bắn ra. Một quả chấn thiên lôi đen ngòm ở giữa không trung vẽ ra
Một đường cong đẹp mất. Trong không trung "xè! Xè! Bốc khói trắng. Bắn đi về phía đỉnh đầu đám bộ binh dày đặc nhất của Yến quân, đây là bộ thuộc của Thái Hy Đức. Hơn một vạn Yến quân cùng nhau ngước đầu lên ngóng nhìn, trơ mắt ra nhìn vào vật thể hình cầu màu đen đập tới trên đinh đầu của bọn họ.
Lúc này hai nghìn quân Đường cùng nhau quay đầu vọt lẹ về hướng bắc. Một hơi xông ra khỏi một trăm năm mươi bước, đã chạy ra khỏi bán kính sát thương của chấn thiên lôi, rất nhiều người đều bịt chặt lấy lỗ tai, ngay cả lỗ tai của chiến mã cũng bịt chặt lại.
An Thù Trung đột nhiên ỷ thức được không ổn. Hắn hô to một tiếng."Không hay!"
Vừa dứt lời. Chấn thiên lôi liền ở trong đám đông Yến quân phát nổ mạnh, chi thấy một ngọn lửa màu đỏ bắn ra. Ngay sau đó là tiếng phát nổ rung trời lờ đất. Ánh đỏ xẹt qua. Khói đặc cuồn cuồn, khói đặc màu trắng xám vụt thăng lên trời, nhanh chóng hình thành nên một đám mây hình nấm.
Dưới ba lớp đả kích của hòa dược, khí áp và xác vụn vò sắt. Yến quân tử thương thảm trọng, trung tâm vụ nổ khắp nơi đều là xác chân tay ngồn ngang, đầu người bị nổ banh, thân thể bị nổ đứt. Còn có binh sĩ bị khí áp giật chết, binh sĩ bị thương nằm khắp trên mặt đất, khắp nơi là tiếng rên ri đau khổ, đám đông Yến quân quá tập trung đông đúc. Làm cho hiệu quả sát thương của quả chấn thiên lôi này phát huy đến cực độ, hơn một nghìn Yến quân bị nổ chết hoặc nổ thương.
Nhưng sự xông kích mà chấn thiên lôi mang lại càng đáng sợ hơn. Hơn hai vạn Yến quân có mật tại hiện trường đều bị dọa đến Sửng sờ, bọn họ cHứa bao giờ nhìn thấy qua thử vũ khí uy lực lớn như vậy, đây quả thật chính là lôi thần đang tức giận.
Đại bộ phận binh sĩ đều là người Hồ, bọn họ quỳ rạp xuống đất. Liều mạng dập đầu cầu xin tha thử. Đây là trời phạt, trời khiển phạt đối với sự tàn bạo của bọn họ.
Quân Đường cho dù có chuẩn bị, nhưng vẫn là bị tiếng nổ to đùng của chấn thiên lôi làm kinh sợ đến phát hoảng Rối loạn, nhung rất nhanh bèn đã khôi phục lại bình thưởng. Lý Quang Bật vung chiến đao một cái. Gào thét lớn: "Các huynh đệ! Thời khắc
Của anh hùng đã đến. Để quân giặc run rẩy dưới vó ngựa của chúng ta đi!"
Quân Đường đồng thanh Rõng lên. Hai nghìn thanh hoành đao vạch ra làn sát khí ngập trời, hai nghìn kỵ binh nhanh mà mạnh như sấm bồ, dùng một tư thế cuốn phăng mọi thử. Càn quét về phía Yến quân hồn bay phách lạc.
Yến quân đã quân tâm đại loạn, bọn họ không còn lòng dạ nào chống cự. Chi trong nháy mắt đã tan rã. Bọn họ tháo chạy tán loạn, khóc thét vút trời, đầu người thẳng lốc dưới vó ngựa của quân Đường, tiếng cầu xin trờ thành tiếng thảm kêu của chết chóc.
An Thủ Trung thấy Yến quân không sức nào chống đỡ, đặc biệt là kho lương mà hắn phụ trách đã bị quân Đường thiêu hủy, hắn tự biết Lý Quy Nhơn sẽ không bỏ qua cho minh, bèn suất lĩnh hai nghìn binh sĩ tâm phúc chạy trốn sang hướng đông nam. Đi nương nhờ Điền Thừa Tự, Lý Nhật Việt cũng bị chấn thiên lôi dọa đến Sửng người, hắn càng không lòng dạ nào tác chiến nữa. Một lòng muốn bảo toàn thực lực. Suất lĩnh một vạn bản bộ nhanh chóng rút lui khỏi chiến trường.
Thê thảm nhất là quân đội của Lý Quy Nhơn và Thái Hy Đức. Đặc biệt là quân của Lý Quy Nhơn, là trọng điểm quân Đường tiến công đồ sát. Trận chiến này, giết đến mức Yến quân máu chảy thành sông, thi thể phơi khắp ruộng hoang, ba vạn năm nghìn Yến quân trước sau bị chém giết đi hơn một vạn tám nghìn người, còn quân Đường chi có hai nghìn kỵ binh, cuối cùng hai nghìn kỵ binh quân Đường từ thương cHứa đến hai trăm người, đã sáng tạo ra một trận chiến huy hoàng nhất cho sự lấy ít thắng nhiều trong mối loạn An Sử.
Một trận chiến này đã làm cho Lý Quang Bật danh chấn thiên hạ. Được xưng tặng là "quân thần", hào quang của hắn nhanh chóng vượt qua khỏi Lý Tự Nghiệp, trờ thành nhân vật xếp thứ hai của quân An Tây chi đứng sau Lý Khánh An.
← Hồi 554 | Hồi 556 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác