Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Thiết huyết Đại Minh - Hồi 197

Thiết huyết Đại Minh
Trọn bộ 335 hồi
Hồi 197: Quốc quân tử xã tắc
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-335)

Hành dinh Đề đốc Yến Tử Cơ.

Khi Liễu Khinh Yên đang chỉnh lý lại tình báo, cửa phòng khép hờ bỗng bị người ta nhẹ nhàng đẩy ra, một bóng dáng thon dài tiến vào, chỉ nghe tiếng bước chân, Liễu Khinh Yên đã biết là Vương Phác đến, hơn nữa nhìn khắp toàn bộ đại doanh Đề đốc, cũng chỉ có Vương Phác có thể đi vào biệt viện của nàng.

Liễu Khinh Yên duyên dáng đứng lên, ngoái đầu lại nhìn cười nói:

- Phò mã gia, ngài tới rồi à?

Vương Phác hừ một tiếng, đi đến ngồi đối diện với Liễu Khinh Yên, nói:

- Công tác tình báo của tỷ triển khai thật sự không đắc lực nha.

- Ồ.

Liễu Khinh Yên lườm Vương Phác một cái, sẵng giọng:

- Có phải là đường báo của Kinh sư chuyển tới rồi đúng không?

- Còn gì nữa.

Vương Phác tức giận nói:

- Xem ra tin tức của tỷ vẫn chậm hơn tám trăm dặm khẩn cấp của Kinh sư đấy.

- Ơ, vậy oan uổng tỷ tỷ rồi.

Liễu Khinh Yêu yêu kiều đi đến trước mặt Vương Phác, duỗi ngón tay chỉ vào trán hắn, gắt giọng:

- Ngươi cho là người của Thánh giá là tâm phúc của Sấm tặc và Kiến Nô sao? Cho nên, nhất cử nhất động của Lưu tặc và Kiến Nô tỷ tỷ đều lập tức biết ngay à? Muốn thật sự như thế, thế thì bớt việc rồi, Ngọc nhi động mồm mép là có thể giết Sấm tặc và thủ lĩnh Kiến Nô, triều Đại Minh chẳng phải là thiên hạ thái bình rồi hả?

Vương Phác bật cười, tuy nhiên cẩn thận ngẫm lại cũng thấy có lý.

Liễu Khinh Yên vòng ra sau lưng Vương Phác, ngón tay dài nhỏ cào vào tóc mai của hắn, vừa nhẹ nhàng mát xa da đầu hắn, vừa quyến rũ nói:

- Thánh giáo ở các tỉnh đều có chi nhánh tình báo, bao gồm quan ngoại cũng có người của Thánh giáo, nhưng họ phần lớn chỉ giống dân chúng bình thường, giống như Phiên Giang Long trà trộn vào làm thủ hạ của Cố Tam Ma Tử là số cực kỳ ít, bởi vậy, chi nhánh tình báo các nơi trình tin tức lên có thể nói là đủ loại, không chỗ nào là không có, tỷ tỷ còn phải dành thời gian sưu tập toàn bộ tin tức hữu dụng, sau đó lại tiến hành phân tích mới đưa được tin tức quan trọng cho ngươi, đây cũng không phải là việc dễ dàng.

Vương Phác nói:

- Xem ra cần phải tìm vài tiểu cô nương thông minh lanh lợi để hỗ trợ cho tỷ rồi.

Liễu Khinh Yên cúi đầu xuống, thổi một hơi vào lỗ tai của Vương Phác, cười nói:

- Vì sao không tìm cho tỷ tỷ vài thiếu niên tuấn tú nhã nhặn chứ?

- Khó mà làm được.

Hai tay Vương Phác xoay ngược lại, từ đùi non của Liễu Khinh Yên tìm tòi lên trên, tận đến khi sắp chạm vào nơi tư mật kia, đáng tiếc không đợi hắn đạt được, Liễu Khinh Yên đã hất tay hắn ra. Vương Phác cười nói:

- Thật ra tìm vài thiếu niên tuấn tú hỗ trợ, vậy chẳng phải là bị tỷ mê hoặc đến thần hồn điên đảo đó sao? Sợ là càng giúp càng bận rộn.

- Thật sao? Thật là như vậy sao.

Liễu Khinh Yên cười phóng đãng nói:

- Sao không thấy ngươi thần hôn điên đảo?

- Bớt trêu chọc ta đi.

Vương Phác nuốt nước miếng một cái, buồn bực nói:

- Cẩn thận ta hạ dược trong trà của tỷ đấy, trước tiên hạ tỷ hôn mê, sau đó... hừ hừ....

Bàn tay nhỏ bé của Liễu Khinh Yên bỗng vuốt ve từ ngực bụng của hắn xuống dưới, cuối cùng dừng lại ở nơi yếu hại của hắn, ngón tay nhỏ dài nhẹ nhàng khéo léo vuốt ve vài cái, Vương Phác lập tức có phản ứng mãnh liệt.

Yêu nữ này rốt cuộc có phải là trinh nữ hay không, Vương Phác cũng không biết, nhưng có một điều có thể khẳng định, yêu nữ này nhất định đã từng được huấn luyện đặc biệt về phương diện nam nữ hoan ái, hiểu rõ kỹ thuật, cách thức khơi gợi dục vọng của đàn ông. Nghe truyền thuyết dân gian đồn đại thì Bạch Liên giáo là do Hoan Hỉ Thiền Tông của Phật Giáo biến hóa thành, xem ra không phải là tin đồn vô căn cứ, bằng không sao yêu nữ Liễu Khinh Yên này lại mê hoặc như thế?

Tận đến khi trêu đùa làm dục hỏa của Vương Phác thiêu đốt, Liễu Khinh Yên mới ghé sát vào tai hắn, cười phóng đãng nói:

- Phò mã gia, khi nào thì ngài thành Tào Tháo thì khi đó tỷ tỷ sẽ khiến cho ngài thật sự mất hồn vía, cho ngài nếm thử chút tư vị nam nữ tiêu hồn trên thế gian này, khiến ngài biết thế nào là sống lên chết xuống, ha ha....

- Phù...

Vương Phác thở hổn hển, không dám giằng co với yêu nữ này nữa, vội nói sang chuyện khác:

- Dự tính... khi nào thì Lưu tặc đánh đến Bắc Kinh?

Liễu Khinh Yên quyến rũ nói:

- Theo các loại dấu hiệu mà phán đoán, Tổng binh Đại Đồng Khương Tương đã đầu hàng Lưu tặc, một khi mất đi lá chắn là Đại Đồng, theo tỷ tỷ đoán, chậm nhất là đầu tháng mười, sớm nhất là đầu tháng chín, Bắc lộ đại quân của Lý Tự Thành có thể giết đến thành Bắc Kinh, trung lộ của Lưu Tông Mẫn và nam lộ của Lý Quá cũng có thể vào trung tuần tháng chín đánh tới Bắc Kinh.

Sáng sớm hôm sau, Vương Phác mang theo Vệ Đội đi thẳng đến xưởng Công binh dưới chân núi Tử Kim.

Nửa năm trước, Vương Phác chỉnh hợp xưởng binh khí và cục Hỏa dược, cũng chính thức đổi tên là Xưởng Công binh.

Xưởng Công binh Tử Kim Sơn được xây dựng vào tháng tư, tuy quy mô không lớn nhưng địa vị lại không hề tầm thường, bởi vì nó là Xưởng công binh có năng lực gia công máy móc nhất của triều Đại Minh, nói là gia công máy móc thật ra cũng hơi quá, Xưởng công binh Tử Kim Sơn cũng chỉ có hai bệ máy khoan thủy lực mà thôi.

Hơn nữa độ cao của Tử Kim Sơn so với mặt biển không cao, lượng nước suối trong núi không đủ, hàng năm chỉ có từ tháng tư đến tháng sáu vào mùa nức mới có thể sử dụng hai đài máy khoan thủy lực này, cũng may đây chỉ là tính chất thí nghiệm, Vương Phác cũng không để ý nhiều, một khi thí nghiệm thành công sẽ tìm nơi có tài nguyên nước sung túc dựng lên Xưởng công binh to lớn cũng không muộn.

Trong phân xưởng máy khoán, trục của hai bệ máy khoan thủy lực được cố định cùng với mũi khoan trên trục chính dưới sự kéo hạ của bánh xoắn đang xoay tròn một cách nhanh chóng, bởi vì không có ổ trục, chỉ có thể để cho từng trục và nền cố định tiến hành hoạt động ma sát, phát ra âm thành vô cùng chói tai.

Trục chính và mũi khoan của máy khoan thủy lực là lắp từ dưới lên trên, gắn với bánh xoắn giấu ở dưới mặt đất cùng với dòng chảy nước, trên máy khoan còn dựng một cái giá tam giác, trên giá có trang bị đường ray truyền thẳng đứng, có thể hoạt động kéo trượt, nòng cần khoan đã được cố định tại chỗ trượt.

Hai thợ thủ công vai tròn eo thô giữ chặt hai bên tay của tòa trượt, dùng sức nặng toàn thân ấn xuống, mũi khoan phi tốc xoay tròn từng điểm xoáy tiến vào trong nòng súng tại chỗ trượt, mũi khoan cùng vách nòng súng ma sát với nhau tạo nên âm thanh chói tai, còn có mùi cháy sém gay mũi tràn ngập trong không khí.

Một người thợ thủ công đang không ngừng tưới nước vào mũi khoan và nòng súng, để tránh cho mũi khoan và nòng súng bị đốt trọi.

Hai bệ máy khoan thủy lực này là Tống Ứng Tinh dựa theo thiết kế của Vương Phác đã tự mình giám sát chế tạo, đến hiện tại đã được dùng thử hơn hai tháng, tốc độ gia công quả nhiên là nhanh hơn so với nhân công nhiều lần, nhân công khoan phải mất một tháng mới có thể khoan được một vào một nòng súng, tốc độ gia công đề cao gấp ba mươi lần!

Hơn nữa máy khoan thủy lực xuyên ra nòng súng rõ ràng ngang bằng so với nhân công khoan ra.

Tuy nhiên, lần này Vương Phác tới xưởng công binh Tử Kim sơn cũng không phải vì máy khoan thủy lực mà tới, mà là vì nghiên cứu phát triển thành công của Tống Ứng Tinh về nòng súng sau.

Cái gọi là nòng súng sau tức là đối ngược với nòng súng trước.

Hỏa dược và chì đạn của nòng súng trước được bắn ra từ lối vào nòng súng nhét vào nòng súng, lại dùng que cời áp đến phần đáy, đó là một kỹ thuật rất tốn thời gian, trước khi chưa phát minh đạn xác giấy, mỗi lão binh thuần thục nhất trong mỗi phút đồng hồ cũng chỉ có thể khai mở hai phát, sau khi phát minh ra đạn xác giấy, tốc độ mới được đề cao ở mức lớn nhất.

Đạn xác giấy của nòng súng sau đã không còn nhét vào từ nòng súng trước, mà là nhét vào từ nòng súng sau, điểm tốt là nhét vào nhanh hơn, hơn nữa cũng không cần dùng que cời ép đạn dược vào trong nòng súng, cứ như vậy, binh lính có thể quỳ rạp trên mặt đất lắp đạn, liên tục bắn, điều này đã đề cao năng lực sinh tồn của hỏa thương binh trong đối xạ súng kíp.

Đối lập với nòng súng sau, nòng súng trước có ưu thế áp đảo.

Công nguyên năm 1545, năm Gia Tĩnh thứ 17, quân Minh tại Thu Phục trong trận chiến Song Tự bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm, bắt được một số người Nhật Bản giỏi chế tạo Hỏa thằng thương (Súng mồi lửa), do đám người Mã Hiến, Lý Hòe học tập phương pháp chế tạo súng kíp, cũng trên cơ sở này mà gia tăng nghiên cứu cải tiến, vào năm Gia Tĩnh thứ 37 đã tạo ra được Hỏa thằng thương so với Tây phiên còn ưu việt hơn, được xưng là Điểu chủy súng, tức là điểu thương hoặc điểu súng.

Nòng của điểu súng dùng thép tôi tạo ra, nặng chừng 12 cân, có đầu ruồi súng, có cửa nhắm, lắp đặt trên đế gỗ, đường kính của súng dài từ 9-13mm, chiều dài nòng súng dài từ 90-150cm, tầm bắn lớn nhất đạt trên 300m, tầm sát thương trên 100m, tầm sát thương này không phải là khoác lác, độc giả từng sử dụng hỏa súng dân gian (cũng là súng không có giảm thanh) thì sẽ biết.

Có độc giả rất không hiểu nhưng lại nói như rất hiểu, rằng tầm bắn của hỏa thằng thương chỉ 45m vân vân, trên thực tế công nghệ tạo súng của đời Minh là khá hoàn mỹ, Mãn Thanh sau đó còn xa mới bằng được. Sau khi Mãn Thanh nhập chủ Trung Nguyên, công nghệ tạo súng, đúc pháo, tạo thuyền của đời Minh đã hoàn toàn bị gián đoạn, khoa học kỹ thuật thụt lùi ước chừng ba trăm năm.

Về phần điểu súng, hỏa súng bắn tiếp cận được biên quân Đại Minh sử dụng uy lực nhỏ, dễ dàng bị nổ, trong thực chiến hoàn toàn không áp chế được cung tiễn của Kiến Nô, đó hoàn toàn là bởi vì quan trường hủ bại tạo thành, quan viên công bộ vì trung gian kiếm lợi nhuận riêng, đã làm hàng nhái, làm thành nòng điểu súng mỏng vô cùng, không thể bị nổ sòng sao được?

Nhưng điều này không liên quan gì đến công nghệ chế tạo súng của đời Minh.

Tống Ứng Tinh nghiên cứu phát triển nòng súng sau đường kính chỉ nhỏ 10mm, so với nòng súng trước mà hỏa thương đội sử dụng thì nhỏ hơn 2mm, chiều dài nòng súng vẫn dài 120cm, nhìn nó dài hơn và nhẹ hơn, trang bị nòng cốt chính là một bánh xoắn, khá giống với dạng súng săn thời hiện tại là có thể gập lại, lấy đạn xác giấy ra đặt vào nòng sau, sau đó hợp súng lại, cài vào, có thể bắn.

Nòng súng sau này đường kính mặc dù nhỏ, nhưng số lượng trang bị đạn xác giấy lại không hề giảm bớt, cho nên so với đạn xác giấy của nòng súng trước dài nhỏ hơn, đại cũng từ chì đạn hình tròn đổi thành đạn hình trụ nhọn ở đỉnh.

Vương Phác bảo Lã Lục thử bắn hơn mười súng, phát hiện tốc độ bắn của nòng súng sau quả nhiên là đề cao lên, gần như là gấp hai nòng súng trước. Tầm bắn và độ chính xác cũng đề cao hơn nòng súng trước, tầm bắn đạt đến 300m, với những lão binh giống như Lã Lục, có thể ngoài 200m bắn chính xác mục tiêu lớn nhỏ.

*****

- Tốt.

Xem màn biểu diễn của Lã Lục xong, Vương Phác tán thành nói:

- Rất tốt!

Nhìn thấy bộ dạng mừng rỡ như điên của Vương Phác, Tống Ứng Tinh không khỏi có chút đắc ý, ôm quyền nói:

- Ty chức may mắn không làm nhục mệnh.

- Ha ha, Tống tiên sinh khổ cực rồi.

Vương Phác nói tiếp:

- Tống tiên sinh, một tháng có thể tạo ra bao nhiêu súng phát lửa nòng sau?

Tống Ứng Tinh nói:

- Chỉ cần sức nước sung túc, hai bệ máy khoan thủy lực một tháng có thể khoan sáu mươi nòng súng.

- Chỉ có sáu mươi thôi ư?

Vương Phác nghe xong khó tránh khỏi có chút thất vọng, tuy nhiên nghĩ lại thế vẫn tốt, lại nói:

- Cũng tốt, sáu mươi thì sáu mươi, tháng sau đúng giờ này bản tướng quân phái người tới lấy.

Tử Cấm thành, tiền điện Càn Thanh cung.

Sùng Trinh Đế đang triệu tập Nội các Thủ Phụ Chu Diên Nho cùng với Thứ phụ Hạ Phùng Thánh, Trần Diễn, Ngụy Chiếu Thừa, Phạm Văn Cảnh, Lý Bang Hoa cùng nghị sự, Binh bộ Thượng thư Trương Tấn Ngạn cũng được nhận lệnh dự thính.

Thực lực quốc gia Đại Minh ngày một giảm sút, đại quân Lưu tặc đang dùng thế nghiền nát bẻ gãy quét ngang hai tỉnh Sơn Tây, Kinh Sư.

Mùng bảy tháng bảy, Lý Tự Thành ở Tây An tuyên thệ trước khi xuất quân đông chinh.

Ngày mười chín tháng bảy đánh hạ Bình Dương.

Ngày hai mươi sáu tháng bảy tiến tới Phần Châu.

Mùng ba tháng tám công chiếm Thái Nguyên, Tuần phủ Sơn Tây Uông Kiều Niên tử tiết.

Mùng chín tháng tám từ Thái Nguyên Bắc thượng, ở Võ Ninh quan đã bị phản kháng bởi tổng binh Sơn Tây Chu Ngộ Cát. Chu Ngộ Cát phái người cầu cứu tổng binh Đại Đồng Khương Tương, nhưng Khương Tương chẳng những không phái binh cứu viện, ngược lại âm thầm đầu phục lưu tặc, từ phía sau lưng giáp công Võ Ninh quan.

Ngày mười lăm tháng tám, Võ Ninh quan thất thủ, tổng binh Sơn Tây Chu Ngộ Cát tử tiết.

Ngày hai mươi ba tháng tám, Lưu tặc tiến chiếm Dương Hòa, Phó Tổng binh Đại Đồng Khương Tuyên phản bội hàng tặc.

Mùng sáu tháng chín, Lưu tặc tới Tuyên Phủ, Tuần phủ Tuyên Phủ Chu Chi Phùng, tổng binh Vương Thừa Dận phản bội hàng tặc.

Công văn báo nguy như tuyết rơi bay đến Kinh Sư, Tôn Truyền Đình, Vương Phác vẫn án binh bất độngvẫn như, bày ra thái độ liều chết bảo vệ nửa giang sơn – Giang Nam. Tổng binh Sơn Đông Lưu Trạch Thanh và Tổng binh Ninh Tiền Ngô Tam Quế tuy rằng đáp ứng khởi binh cần vương nhưng lại chậm chạp không có hành động, chỉ có Tổng binh Ngọc Điền Tào Biến Giao và Tổng binh Kế Trấn Bạch Quảng Ân đã suất quân tới rồi Bắc Kinh cần vương, chỉ tiếc binh mã của hai người cộng lại cũng chỉ có tám ngàn người, sao ngăn cản được gần trăm vạn đại quân Lưu tặc?

Lưu tặc thế như chẻ tre, Chu Diên Nho và Nội các đại thần lại bó tay không biện pháp.

Đối mặt với tai hoạ ngập đầu đã sắp đến, Sùng Trinh Đế vừa bi thương lại vừa bất đắc dĩ, cảm thán nói với Chu Diên Nho và nội các phụ thần:

- Trẫm là quân vương chưa mất nước, nhưng lại giống như đã mất nước, thiên hạ do Tổ tông dãi gió dầm mưa gây dựng nên, một khi mất đi, trẫm còn mặt mũi nào đi gặp họ?

Quần thần nhìn nhau ảm đạm, xấu hổ.

Sùng Trinh Đế từ khi lên ngôi đến nay ngày đêm vất vả, tại vị mười sáu năm, không gần thanh sắc, lo lắng chuyên cần cảnh giác, chuyên tâm cai trị, hoàn toàn là một vị hoàng đế có năng lực chăm lo việc nước, có lẽ không đủ để đánh đồng với Thái tổ Hồng Vũ Đế cùng Thành tổ Vĩnh Lạc Đế, nhưng luận cần chính, lại là một vị Đại Minh Thập lục đế có một không hai!

Tiếc nuối chính là, thời vận của Sùng Trinh Đế thời quá xấu, cục diện giang sơn mà ông ta tiếp nhận trong tay phụ - huynh đã rối rắm, mục nát đến tận xương tủy, Trung Nguyên Lưu tặc nổi dậy như ong, quan ngoại Kiến Nô hung hăng ngang ngược, hơn nữa mấy năm liên tục thiên tai, nhân họa hoành hành, đến nỗi dân chúng lầm than, thực lực của một nước mệt mỏi, niên cảnh khó khăn xui xẻo như vậy, dù là Đường Thái Tông tái thế cũng là hết cách xoay chuyển.

Sau một lúc lâu, Sùng Trinh Đế dứt khoát nói:

- Văn tử gián, võ tử chiến, quốc quân tử xã tắc, trẫm quyết ý cùng tồn vong với tông miếu xã tắc, cùng tồn vong với tổ tông lăng tẩm, cùng tồn vong với triệu sinh linh Kinh Sư! Chư vị ái khanh có thể mau trở về phủ đệ, triệu tập gia đinh hộ viện, phân công khí giới, cùng quyến chiến với Lưu tặc!

Sùng Trinh Đế quyết tâm hạ chỉ, lệnh Binh bộ Thượng thư Trương Tấn Ngạn chiêu mộ tráng đinh Kinh Sư, tổ chức Cần Vương quân, phân phát khí giới bảo vệ Kinh Sư, lại hạ một đạo thánh chỉ, hy vọng hoàng thân quốc thích, bách quan trong kinh thành lại lấy quốc sự vì đầu, hiến gia tư hỗ trợ quân lương, đáng tiếc là căn bản không có nhiều người hưởng ứng lời hiệu triệu của Sùng Trinh Đế.

Chỉ có đại thái giám Vương Vĩnh Phúc, Vương Thừa Ân, Vương Đức Hóa ái ngại mà tự hiến năm vạn lượng, hoàng thân quốc thích và quan viên có tiền còn lại người nào cũng đều keo kiệt, vắt chày ra nước.

Nội các thứ phụ Trần Diễn cũng có cống nạp, nhưng ông ta chỉ cúng mươi lượng bạc, còn nói mình làm quan thanh liêm, không hề nhận hối lộ, trong nhà chỉ có dư mươi lượng bạc, nhưngcuối cùng lưu tặc vào kinh, sau khi Lưu Tông Mẫn lục soát trong nhà, không ngờ phát hiện trong nhà ông ta có hơn hai mươi vạn lượng bạc.

Thái giám Vương Chi Tâm là phú ông nổi tiếng kinh thành, Sùng Trinh Đế buông tha không giáp mặt bắt ông ta quyên tiền, ông ta mới nhịn đau cúng một vạn lượng bạc, nhưng cuối cùng lưu tặc vào kinh, lục soát được trong nhà ông ta có hơn năm mươi vạn lượng bạc, những thứ này còn chưa tính châu báu đồ cổ, cùng với trang viên điền sản.

Còn có Quốc trượng Gia Định Bá Chu Khuê, Sùng Trinh Đế phái Đại thái giám Vương Thừa Ân tự mình đến nhà quyên tiền, nhưng mặc cho Vương Thừa Ân nói toạc cả mép, Chu Khuê vẫn không chịu nôn ra, cuối cùng Vương Thừa Ân tức giận phẩy tay áo bỏ đi, trước khi đi còn buông một câu:

- Lão hoàng thân keo kiệt như này, đại thế mất rồi!

Cuối cùng Lưu tặc vào kinh, Lưu Tông Mẫn truy quét lục soát trong nhà Chu Khuê được hơn trăm vạn lượng bạc.

Không có bạc không mua được lương thực, không có lương thực tướng sĩ và các lộ Cần Vương quân cũng chỉ có thể đói bụng tử thủ Bắc Kinh, Sùng Trinh Đế dù sao cũng là Hoàng đế Đại Minh, ông ta không thể giống như Tả Lương Ngọc đưa binh đánh cướp dân chúng Kinh Sư được! Đại quân Lưu tặc khí thế hung hãn, quan quân Đại Minh đói mệt khó khăn dồn dập, kết quả có thể nghĩ.

Ngày mười ba tháng chín, Lưu tặc công hãm huyện Bình Nguyên – lá chắn cuối cùng của phía bắc Kinh kỳ (kinh đô và vùng lân cận), quan Tổng binh Tào Biến Giao, Bạch Quảng Ân tử tiết, tám ngàn tinh binh sở bộ toàn quân bị giết, cùng ban đêm, đại đội lưu tặc dọc Sa Hà đi xuống, thẳng tiến tới Bình Tắc Môn ngoài thành Bắc Kinh, ven đường ánh lửa ngút trời, quân giặc thổi quét khắp núi.

Đêm dài vắng người, Tử Cấm thành luôn luôn uy nghiêm trang nghiêm lúc này lại hiện ra cảnh tượng thê lương đến vô cùng, dưới ánh trăng chiếu rọi hiện ra sự yên tĩnh chết chóc.

Gần đây thành Bắc Kinh vẫn truyền lưu một loại tin đồn thần bí, nghe nói người đi đường đêm đi qua cửa chính của Tử Cấm thành có thể nghe được Hồn tiếng kêu rên của linh hồn các tướng sĩ chết trận trên chiến trường, trừ phi bất đắc dĩ, bằng không không có một ai nguyện tới gần Tử Cấm thành một bước, gần mười vạn thái giám cung nữ trong cung cũng trốn chạy gần như toàn bộ.

Dưới ánh trăng u ám lạnh lẽo, Sùng Trinh Đế được Vương Thừa Ân dìu đi về hướng Khôn Ninh cung.

Ngay tại một khắc trước, Sùng Trinh Đế đã nhận được tin tức, thái giám Vương Tương Nghiêu thủ vệ Tuyên Vũ môn, Binh bộ Thượng thư Trương Tấn Ngạn thủ vệ Chính Dương môn còn có cửa Thành Quốc Công Chu Thuần Thần thủ vệ Tề Hóa môn đã đồng thời mở cửa thành ra, đại quân Lưu tặc đã giết tiến vào nội thành Bắc Kinh, cách Tử Cấm thành chỉ có một bước ngắn rồi!

Thái Tử Chu Từ Lãng, Vĩnh Vương Chu Từ Quýnh và Định Vương Chu Từ Chiếu đã được Cao Khởi Tiềm mang theo hơn mười tiểu thái giám hộ tống đi quý phủ Quốc trượng Chu Khuê. Thật ra Sùng Trinh Đế cũng biết Chu Khuê không đáng tin cậy, nhưng ông ta hiện tại đã không có lựa chọn nào khác, Sùng Trinh Đế vốn muốn đem Thái Tử gửi gắm cho nội các phụ thần, nhưng vừa rồi, lúc ông ta tại tiền điện triệu tập đại thần, không ngờ không một ai đến.

Vạn bất đắc dĩ, Sùng Trinh Đế chỉ có thể phái Cao Khởi Tiềm mang theo Thái Tử, Vĩnh Vương và Định Vương đi nương tựa Quốc trượng Chu Khuê, dù sao Thái Tử cũng là cháu ngoại ruột của Chu Khuê, câu cửa miệng nói hùm dữ còn không ăn thịt con, lão ta dù thế nào cũng nên hộ tống Thái Tử đi Nam Kinh chứ?

Sùng Trinh Đế đã chuẩn bị tâm lý "Quốc quân tử xã tắc", điều duy nhất ông ta không buông bỏ được chính là hậu cung phi tần và Trường Bình công chúa và Chiêu Nhân công chúa. Lưu tặc vào kinh đã không thể tránh né, thân là nhất đại Hoàng đế, Sùng Trinh Đế đương nhiên không thể dễ dàng chấp nhận việc phi tần của mình và hai vị công chúa biến thành trò chơi cho Lưu tặc.

Sùng Trinh Đế bước vào đại điện Khôn Ninh cung, đã thấy Chu hoàng hậu ngồi ngay ngắn ở chính điện.

Đã muộn thế này, Chu hoàng hậu chưa đi an nghỉ mà ăn mặc chỉnh tề ngồi đó, thần thái yên ổn ngồi trên ghế phượng, xem ra bà đã biết hết thảy rồi, biết thời khắc cuối cùng của sinh mạng cũng đã đến, đón nhận ánh mắt áy náy, tự trách của Sùng Trinh Đế, Chu hoàng hậu cười nhẹ nhàng, dịu dàng nói:

- Vạn tuế gia, nô tì xin đi trước một bước.

Dứt lời, Chu hoàng hậu đi vào Đông Noãn Các, một lát sau khi Sùng Trinh Đế đuổi vào theo, Chu hoàng hậu sớm đã treo cổ ở trên xà nhà rồi.

- Ôi.

Sùng Trinh Đế ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, lại rút trường kiếm, nhanh chân chạy đến Thừa Càn cung.

Trong Thừa Càn cung cũng đèn đuốc sáng trưng, Điền quý phi cũng chưa đi ngủ, thấy Sùng Trinh Đế tay cầm bảo kiếm xông vào, Điền quý phi thoáng chốc mặt trắng bệch. Điền quý phi xinh đẹp dịu dàng lại tinh thông âm luật, luôn luôn được Sùng Trinh Đế coi là tri âm, nàng tuyệt đối không bao giờ ngờ tới có một ngày lại chết dưới kiếm của Sùng Trinh Đế.

- Ái phi.

Sùng Trinh Đế ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, buồn bã nói:

- Nước mất nhà tan, sống không ý nghĩa, không bằng đi theo trẫm?

Điền quý phi chăm chú nhìn Sùng Trinh Đế thật lâu, sau đó ngã quỵ xuống đất khấu đầu ba cái, đau buồn tha thiết nói:

- Vạn tuế gia, nô tì xin bái biệt...

Sùng Trinh Đế nhẫn tâm, cắn răng một cái, tay nâng kiếm đâm vào cổ họng của Điền quý phi, huyết hoa bắn tung tóe, nhất đại quý phi đã ngọc nát hương tan như vậy.

Sau khi bức tử Chu hoàng hậu lại giết tử Điền quý phi, Sùng Trinh Đế lại chạy đến nơi ở của đứa con gái mà ông ta yêu quý hơn cả tính mạng mình, sủng ái như hòn ngọc quý trên tay – Trường Bình công chúa, tức là người vợ chưa xuất giá của Vương Phác.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-335)


<