← Hồi 016 | Hồi 018 → |
Xuân đi xuân đến, mai rụng tuyết tàn.
Thời gian như nước tẩy sạch những dấu vết còn sót lại của tháng năm. Tuy trận đánh ở thung lũng Phi Long trời long đất lở, quỷ dị khó lường, nhưng thời gian cũng đã qua lâu, ngoại trừ những người trong cuộc ra thì đã không còn mấy ai nhớ được tình cảnh thảm liệt và quỷ dị lúc đó.
Nhưng chỉ cần là người đã từng trải qua thì cả đời này sẽ không quên được hết thảy những việc đã xảy ra lúc ấy!
Cuối xuân năm nay là mùa cỏ cây sinh sôi, đàn chim oanh bay hót, trong và ngoài Anh Vũ lâu ở phủ Khai Phong ồn ào náo nhiệt không ngớt, cấm quân qua lại nhộn nhịp như những chú kiến.
Bởi mấy ngày này là lúc tổ chức Ma Khám cấm quân rất lớn, cho nên cấm quân kinh thành đến tham gia sát hạch rất đông.
Đại Tống trọng văn khinh võ, khoa cử thường xuyên được tổ chức nhưng nếu không phải thời kì đặc biệt thì rất ít khi tổ chức võ cử. Quân nhân nếu không có lai lịch xuất thân, trong triều không có người nói giúp, để được từ sương quân được bổ sung vào cấm quân, con đường thăng chức duy nhất chính là tham gia Ma Khám. Người có thể đi vào trong Anh Vũ lâu thi diễn võ nghệ, chức vị thấp nhất cũng phải là Phó Đô Đầu trở lên, mà phần lớn quan quân cấp thấp nếu muốn thăng chức, cũng chỉ có thể tiến hành sát hạch ở Bát Đại doanh bên ngoài Anh Vũ lâu.
Trong Kiêu Võ doanh thuộc Bát Đại doanh, có quan giám thị hô to:
- Vương Khuê thi tiễn.
Một người ra khỏi hàng. Mọi người thấy người này mặt đen như than, tuổi tác cũng không lớn lắm, vừa bước lên đứng ở trên võ trường thì cả người đã tỏa ra một luồng khí tức lẫm liệt dũng mãnh. Lúc này có người đưa cho gã một chiếc cung cứng, hai tay Vương Khuê dùng sức đã kéo căng cung cứng khiến cho mọi người phấn khích ủng hộ không ngớt.
Đám cấm quân chỉ trỏ, một người nói:
- Nếu lần này Vương Khuê vượt qua được khảo hạch thì sẽ trở thành Phó Đô Đầu rồi. Sau này chúng ta sẽ không còn nhìn thấy hắn ở đây nữa.
- Đương nhiên rồi, ngươi cho là ai cũng giống như ngươi sao? Nhìn ngươi xem, mấy năm nay chẳng có tiến bộ một tí gì, chín năm qua chưa vượt qua được một cuộc khảo hạch nào, đến bây giờ cũng chỉ là một Thừa Cục mà thôi. Người nhà Vương Khuê không có ai ở trong triều mà hắn lại có được chí khí như vậy, mỗi một cuộc khảo hạch đều vượt qua, một cơ hội nhỏ cũng không bỏ lỡ, từ một quân nhân tầm thường đã tiến lên được Quân Đầu, thoắt cái lại sắp trở thành Phó Đô Đầu rồi, thật đúng là một hán tử.
Người bị chất vấn kia bất mãn nói:
- Vậy thì sao chứ? Cũng chỉ là một Đô Đầu thôi, bên trên còn có Đô Ngu Hầu và Chỉ Huy Sứ. Chỉ Huy Sứ ở trong kinh thành thì được coi là cái gì? Nếu như ngươi không vào được Tam Ban thì cả đời này cũng chỉ là quân nhân thấp kém. Chỉ có gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì mới thật sự có triển vọng. Dù Vương Khuê có dũng mãnh đi chăng nữa, nếu muốn tiến nhập vào Tam Ban sứ thần thì sợ rằng râu cũng đã bạc trắng rồi? Nỗ lực như thế để 'chui' vào Tam Ban thì cũng đã sắp về trời rồi, tội gì chứ?
Người lúc trước thở dài, lại nói tiếp:
- Nói thì nói thế, nhưng mà được thăng chức bao giờ cũng là chuyện tốt, giống như làm Tương Ngu Hầu dù sao cũng tốt hơn so với Thừa Cục.
Nói xong gã cười đắc ý. Vốn dĩ gã chính là quan cấp bậc Tương Ngu Hầu, cao hơn Thừa Cục một bậc, nói vậy chính là để châm chọc đối phương.
Người kia bị châm chọc đỏ mặt, phẫn nộ nói:
- Lão tử là Thừa Cục thì sao nào? Dù sao lão tử cũng dựa vào năng lực của bản thân mà thăng chức, chứ không giống với một số người, chỉ biết khoác lác, bưng bít mà vượt qua kiểm tra. Đúng là năm nào lão tử cũng dậm chân tại chỗ, nhưng ngược lại có những người năm nào cũng thụt lui. Tuy nhiên người ta vẫn là Thập Tương, còn cao hơn môt bậc so với Tương Ngu Hầu ngươi đó.
Người lúc trước cười nói:
- Người ngươi muốn nói là Địch Thanh?
- Không phải sao, tên khoác lác từ trên trời rơi xuống kia không gì làm không được, nghe nói giết một tên Tăng Trưởng Thiên Vương gì đó. Vốn tưởng rằng Quách Tuân ở trong cấm quân cũng là một người không đến nỗi nào, không ngờ rốt cuộc cũng chỉ là hạng người dùng người theo cảm tính. Địch Thanh này vốn ngay cả sương quân cũng không được xếp vào, thế mà Quách Tuân lại xin công cho Địch Thanh, để hắn vào thẳng cấm quân, hơn nữa còn một bước lên làm Thập Tương... Nhưng tên Địch Thanh này bản lĩnh cái rắm gì cũng không có, thật là khiến cho người ta tức chết mà.
Thừa Cục kia căm giận nói.
Tương Ngu Hầu kia nói:
- Ngươi tức giận là bởi vì Quách Tuân không phải là người thân thích của ngươi sao? Hắc hắc, nói vậy Tăng Trưởng Thiên Vương kia chỉ là Bồ Tát làm từ đất sét, nên mới có thể để cho hắn ta một chiêu thành công nhỉ?
Hai gã đều cười hắc hắc.
Lúc này, trong doanh truyền đến một tràng hò reo ủng hộ, thì ra Vương Khuê đã bắt đầu tiến tới khảo hạch cưỡi ngựa bắn cung, gã phi thân lên ngựa, tay kéo trường cung, bắn một tên trúng hồng tâm, khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi ầm ầm.
- Đây mới là bản lĩnh thật sự!
Tương Ngu Hầu khen ngợi.
- Đương nhiên rồi, nào có như tên Địch Thanh kia, thực là làm mất mặt đồng đội.
Thừa Cục tiếp lời.
Lúc này quan giám thị xướng:
- Vương Khuê loại tốt, Địch Thanh thi tiễn.
Hai gã Thừa Cục và Tương Ngu Hầu nhìn quanh bốn phía, cùng nói:
- Không biết hôm nay hắn còn mặt mũi mà đi ra ngoài không?
Đang ngó nghiêng một hồi thì bỗng nghe có tiếng người nói từ phía sau:
- Tránh đường.
Hai người quay đầu lại nhìn, liền lộ vẻ xấu hổ, cuống quýt tránh sang một bên, hóa ra người lên tiếng chính là Địch Thanh, vừa nãy hắn đứng ở sau bọn họ.
Thời gian đã qua vài năm, Địch Thanh đã cao lên nhiều nhưng cũng gầy đi nhiều. Trên cái trán hắn có một vết sẹo nhỏ giống như nốt ruồi đỏ, bên má trái có xăm hai chữ "Kiêu Vũ", râu dưới cằm mọc lởm chởm, dung mạo rất tiều tụy.
Thấy hai người tránh ra, Địch Thanh chậm rãi đi tới phía trước quan giám thị, đưa lệnh bài ở thắt lưng ra. Quan giám thị kiểm tra tỉ mỉ, xác nhận là thật, liền gật đầu nói:
- Địch Thanh thi tiễn.
Có người đưa cung tên tới, Địch Thanh chậm rãi nhận lấy, nhìn trường cung, vẻ mặt phức tạp, tay khẽ run rẩy.
Quan quân cấp bậc thấp muốn thăng chức, cần phải thi bốn loại kĩ thuật là bộ bắn, cưỡi ngựa bắn, võ nghệ và bắn nỏ. Nếu Địch Thanh muốn từ Thập Tương thăng lên làm Quân Đầu, nhất định phải bộ bắn cung sáu đấu lực, bắn nỏ một tạ bảy đấu lực, cưỡi ngựa bắn ba mũi tên trúng đích, thi diễn võ nghệ, lúc này mới do quan giám thị xét duyệt, quyết định xem có được thăng chức hay không.
Bộ bắn cung sáu đấu lực đối với Địch Thanh lúc trước mà nói, không khó chút nào. Mặc dù hắn võ nghệ không cao, nhưng ngày ngày đi tới cửa hàng lò rèn giúp đập sắt, cơ bắp rất khỏe, trước đây dù cho Quách Tuân bất ngờ ra tay cũng không tóm được tay hắn. Tuy nhiên, hiện giờ kéo cung sáu đấu lực đối hắn mà nói là vấn đề vô cùng khó khăn.
- Địch Thanh thi tiễn!
Quan giám thị thấy Địch Thanh còn chưa có kéo cung, nên không kiên nhẫn được nữa. Mọi người thấy thế, xì xào nổi lên, có người kêu lên:
- Không được thì trở về ôm con đi, đừng làm lãng phí thời gian của mọi người. Phía sau còn có người chờ đó!
Địch Thanh âm thầm cắn răng, hét lớn một tiếng, hai tay dùng sức, chỉ nghe "Răng rắc" một tiếng, hai cánh trường cung đã bị hắn kéo gãy làm đôi. Mọi người cảm thấy kính nể, mặt mang vẻ sợ hãi. Nhưng sau đó Địch Thanh lảo đảo, mềm nhũn ngã xuống đất. Hai tay nắm chặt lại, móng tay cắm vào thịt, vẻ mặt rất đau đớn.
Mọi người đều xôn xao, không biết chuyện gì đã xảy ra. Thừa Cục than thở:
- Kéo cung lại có thể làm cho mình ngất xỉu, đây đúng là chuyện chưa bao giờ xảy ra.
- Nếu ngươi không nói, không ai bảo ngươi câm đâu.
Một người lạnh lùng nói.
Thừa Cục vừa quay đầu lại nhìn, thấy phía sau có một người mũi to như mũi sư tử, để ria ngắn, dung mạo rất có uy thế. Thừa Cục cuống quít thi lễ nói:
- Chỉ Huy Sứ, sao người lại đến đây?
Người này không đếm xỉa tới Thừa Cục, đi tới bên người Địch Thanh, gật đầu với quan giám thị rồi tự mình cõng Địch Thanh ra khỏi đại doanh.
Tương Ngu Hầu thấy người có lỗ mũi sư tử đã đi xa, không nhịn được hỏi:
- Người đó là ai vậy, cuồng ngạo ghê nhỉ?
Thừa Cục lau mồ hôi lạnh, nói:
- Người này tên là Vương Tín, chính là Chỉ Huy Sứ của Thần Vệ quân, cũng là bằng hữu của Quách Tuân. Ngươi biết Chỉ Huy Sứ không? So với Tương Ngu Hầu ngươi thì không thể sánh nổi.
Tương Ngu Hầu hít một hơi khí lạnh, chỉ có thể lắc đầu nói:
- Tên Địch Thanh này tốt số thật, có quan to như Quách Tuân và Vương Tín chiếu cố. Haizz... Nếu như ngươi và ta có thể được bọn họ chiếu cố thì nói không chừng đã sớm trở thành Đô Đầu rồi.
Trong khi hai người đang than thở thì Vương Tín đã đặt Địch Thanh nằm dưới bóng râm ở bên ngoài quân doanh.
Địch Thanh tỉnh lại, nhìn thấy Vương Tín thì gắng gượng đứng dậy nói:
- Vương đại nhân, là ngài cõng ta ra đây sao?
Vương Tín nói:
- Nếu như không thể, cần gì phải miễn cưỡng chứ?
Địch Thanh nở một nụ cười chua chát, nói:
- Ta là người lỗ mãng, không suy xét được nhiều.
Vương Tín nhìn hắn một lúc lâu, mới nói:
- Ta còn có việc, đi trước một bước.
Y xoay người rời đi, đợi đến khi Địch Thanh không còn thấy mình nữa, lúc này mới lắc đầu, lẩm bẩm nói:
- Haiz... đáng tiếc cho một anh hùng.
Địch Thanh ngồi trở lại dưới tán cây, vẫn còn cảm thấy trong đầu nổ ầm ầm, đau đớn mơ hồ, ngẩng đầu nhìn cành liễu lả lướt, mưa bay lất phất, thần sắc ảm đạm, lẩm bẩm:
- Lẽ nào Địch Thanh ta cả đời này thật sự là kẻ vô tích sự?
*****
Thì ra Địch Thanh bị Đa Văn Thiên Vương làm tổn thương não bộ, sau khi tỉnh lại đến giờ vẫn không còn sức để hoạt động, không thể xuất khí lực được.
Mấy năm nay nhờ có Vương Duy Nhất hết lòng châm cứu nên Địch Thanh mới tránh khỏi trở thành phế nhân, nhưng cây ngân châm trong đầu hắn thì Vương Duy Nhất cũng bó tay không lấy ra được.
Mặc dù Địch Thanh có thể hoạt động lại được nhưng hơi dùng sức một tí là trong đầu lại đau đớn và nhức nhối vô cùng, bởi vậy hai năm nay hắn tham gia Ma Khám đều thất bại ở giai đoạn kéo cung khai nỏ. Hôm nay nghe thấy người khác bàn tán về mình, mặc dù ngoài mặt bình tĩnh nhưng trong lòng hắn rất căm uất, thực sự không muốn Quách Tuân vì mình mà bị chỉ trích nên dùng hết sức để kéo cung, dù đã kéo gãy trường cung nhưng trong đầu lập tức như bị thiết chùy đánh vào, đau đớn không chịu nổi mà ngất đi.
Ngày đó trước khi Quách Tuân tiến vào thung lũng Phi Long, ý định ban đầu là muốn rèn luyện cho Địch Thanh nhưng không ngờ lại khiến hắn bị trọng thương, thiếu chút nữa thì mất mạng. Trong lòng Quách Tuân hổ thẹn nên đã đem hơn một nửa công lao ở thung lũng Phi Long đẩy qua cho Địch Thanh, lại cố gắng giúp Địch Thanh lên tới chức quan Thập Tương. Nhưng Quách Tuân có thể làm đến Điện tiền Chỉ huy sứ, chịu trách nhiệm hộ vệ hoàng thượng, không chỉ vì võ công cao cường mà còn nhờ vào gia thế tốt. Địch Thanh không có xuất thân, chức Thập Tương này thì đã là năng lực cực hạn Quách Tuân tranh thủ cho hắn rồi.
Tuy chức quan Thập Tương không cao nhưng nhìn chung áo cơm không cần phải lo, mặc dù Quách Tuân vẫn còn áy náy nhưng Địch Thanh không hề có mảy may ý nghĩ trách hận Quách Tuân.
Trong lúc Địch Thanh còn đang đau lòng thì có một thiếu niên hoạt bát chạy đến nói:
- Địch nhị ca, thế nào rồi?
Người này chính là Quách Quỳ, chỉ trong một thời gian ngắn mà cậu cũng đã cao lên nhiều, nhưng vẫn không thoát khỏi tính trẻ con. Cậu gọi Quách Tuân là đại ca, cho nên gọi Địch Thanh là nhị ca. Mấy năm qua, Địch Thanh sống ở kinh thành cùng với huynh đệ họ Quách vô cùng vui vẻ.
Địch Thanh lắc đầu, Quách Quỳ thấy Địch Thanh có vẻ chán nản, vội vàng an ủi:
- Địch nhị ca, đệ biết hết rồi, huynh không cần phải nói nữa.
Thấy có mấy người từ Anh Vũ lâu đi ra, nét mặt vênh váo tự đắc, Quách Quỳ nói tránh đi:
- Địch nhị ca, huynh đừng thấy mấy kẻ này tài trí hơn người, thật ra bọn chúng đều là ỷ vào công trạng của phụ thân cả thôi. Phụ thân của bọn chúng không phải nhậm chức ở trong Tam Ban thì cũng là quan to hai viện. Những người này chỉ như là đống phân, ấy mà lại có thể vào thẳng Anh Vũ lâu. Huynh so với bọn chúng còn giỏi hơn nhiều.
Địch Thanh thầm nghĩ: "Bây giờ mình còn không thể so với đống phân nữa."
Hắn bèn nói lảng đi:
- Tiểu Quỳ, đệ tìm huynh có chuyện gì?
Hắn ngáp một cái, hứng thú tan hết.
Tròng mắt Quách Quỳ chuyển động, nói:
- Thiếu chút nữa quên nói cho huynh một chuyện, đại ca của đệ lại phải rời kinh rồi.
Địch Thanh lo lắng nói:
- Huynh ấy đi đâu, có nguy hiểm không?
Thì ra Quách Tuân tuy là Điện tiền Chỉ huy sứ nhưng bởi vì võ công cao cường, làm việc linh hoạt nên thường xuyên bị Tam Nha điều đi hỗ trợ phủ Khai Phong và quan phủ địa phương xử lý một số vụ án phức tạp, do đó Quách Tuân hiếm khi ở kinh thành.
Quách Quỳ nói:
- Huynh còn nhớ ba người Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc không?
Địch Thanh vô cùng kinh ngạc nói:
- Đương nhiên là nhớ. Ba người này trước đây chính là thuộc hạ của Quách đại ca, sau đó mất tích ở thung lũng Phi Long, Quách đại ca lúc nào cũng nhớ mãi không quên... Ba người bọn họ làm sao vậy?
- Quách Mạc Sơn và Trương Hải tạo phản ở Thiểm Tây.
Quách Quỳ nhíu mày nói:
- Hiện tại thanh thế bọn họ không nhỏ, đã trở thành tai hoạ ngầm của triều đình. Đại ca biết tin bọn người Quách Mạc Sơn tạo phản, lập tức xin lệnh đi trước tới Thiểm Tây dẹp loạn. Đây dù sao cũng là thuộc hạ của huynh ấy, không rõ vì sao những người này không trở về kinh thành mà lại muốn tạo phản nhỉ?
Địch Thanh không muốn suy nghĩ nhiều, cười khổ nói:
- Chỉ hy vọng Quách đại ca mọi chuyện đều thuận lợi. Tiểu Quỳ, huynh đi dạo chút.
Hắn không được như ý, trong lòng chỉ muốn tìm một nơi thanh tịnh để tĩnh tâm. Quách Quỳ kêu lên:
- Được rồi, Địch nhị ca, đại ca của huynh sợ huynh ở kinh thành thiếu tiền tiêu nên nhờ người mang đến đây ba lượng bạc cho huynh. Này, đây này.
Nói xong, cậu chìa tay đưa ra ba lượng bạc, Địch Thanh không nhận, hỏi:
- Có thư không?
Con người Quách Quỳ chuyển động, cười nói:
- Đại ca của huynh không phải không biết chữ sao? Sao mà có thư được chứ?
Địch Thanh nói:
- Tiểu Quỳ, đệ không cần gạt huynh nữa, đây là Quách đại ca cho huynh đúng không?
Thấy Quách Quỳ không nói, Địch Thanh vỗ vỗ bả vai Quách Quỳ, nói:
- Tiểu Quỳ, huynh chỉ giúp Quách đại ca một lần, nhưng huynh ấy thật sự không nợ huynh cái gì hết, hai người đối với huynh quá tốt, huynh không cách nào báo đáp được.
Quách Quỳ cố gắng ưỡn lồng ngực gầy gò nói:
- Chúng ta có phải huynh đệ không? Nếu phải thì không cần nói ra những lời này.
Địch Thanh không nhịn được cười, dí mạnh cái mũi nó nói:
- Nhìn bộ dạng của đệ thật giống như một anh hùng hảo hán vậy. Huynh thật sự không thiếu tiền để dùng, chức quan Thập Tương này của huynh tuy là không làm gì được nhưng bổng lộc của triều đình thì cũng đủ cho huynh không cần lo chuyện ăn uống. Được rồi... Còn phải làm phiền đệ một việc, huynh có tích góp được mấy lượng bạc, đệ quen biết nhiều, xem thử có thể giúp huynh chuyển số tiền này đến Phần Châu, đưa cho đại ca huynh hay không. Huynh ấy đã một thời gian dài không có tin tức của huynh, e rằng huynh ấy lo lắng.
Địch Thanh móc từ trong người ra thỏi bạc, trong lòng ít nhiều cũng có chút chua xót.
Trước đây, sau khi Địch Vân đánh thức được Địch Thanh, thấy đệ đệ yếu ớt nên hết sức lo lắng cho Địch Thanh, nhưng trong lòng lại nhớ thương Tiểu Thanh. Địch Thanh đương nhiên biết tâm sự của đại ca nên thúc giục y trở về. Quách Tuân còn vui vẻ đề nghị Địch Vân đưa Tiểu Thanh lên sống tại kinh thành, nhưng Địch Vân lại từ chối do không quen sinh hoạt ở kinh thành, bảo rằng kinh thành tốt thì tốt thật nhưng y không thích, hơn nữa quê nhà ở Tây Hà, gốc rễ ở Tây Hà, nên không muốn đến kinh thành. Vì thế sau khi Địch Vân thấy đệ đệ đã khỏe hơn thì liền quay về Tây Hà. Quách Tuân có phần khó hiểu nhưng trong lòng Địch Thanh lại biết, đại ca bởi vì chân què, không muốn đệ đệ mình bị mất mặt nên mới khăng khăng muốn quay về. Cũng may sau khi Địch Vân trở về Tây Hà cùng Tiểu Thanh làm buôn bán nhỏ, sống qua ngày cũng không đến nỗi nào.
Quách Quỳ nhìn thỏi bạc kia, thầm nghĩ: "Địch nhị ca này yếu mà không đuối."
Không muốn để Địch Thanh khó xử, cậu nhận lấy bạc, nói:
- Được, đệ nhất định sẽ chuyển giúp huynh.
Sau khi tạm biệt Quách Quỳ, Địch Thanh cứ thế lững thững bước đi, thấy ven đường có quán rượu bèn đi vào kêu một cân rượu thường mà uống. Trong lòng hắn thầm tính toán, ở lại kinh thành có lẽ không phát triển được gì, còn muốn quay về Tây Hà thì lại càng không được. Mặt mình đã bị xăm chữ, cũng chẳng khác gì phạm nhân, gia nhập cấm quân không dễ, rời khỏi cấm quân lại càng khó khăn hơn. Hắn than nhẹ một tiếng, bỏ lại mười văn tiền rồi đi ra khỏi quán, nhất thời xung quanh mờ mịt, chỉ thấy tơ liễu bay bay, giống như bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống, phố xá náo nhiệt vô cùng, nhưng đều là tiếng ồn ào rầm rĩ của người khác, chẳng hề liên quan đến bản thân hắn.
Chợt nghe ở phía trước có tiếng trầm trồ khen ngợi, lúc này Địch Thanh mới phát hiện ra mình đã đi qua Châu Kiều, đến chỗ Đại Tướng Quốc Tự. Nơi này có câu lan ngõa tứ, ca hát biểu diễn, đúng là cực kỳ náo nhiệt.
(Câu lan: nơi hát múa và diễn kịch thời Tống, Nguyên ở Trung Quốc)
Phố phường người qua kẻ lại, hôm nay quả là tiên hoa tranh diễm, vạn vật rộn ràng giữa tiết xuân, hai bên đường đầy cửa hàng và chợ hoa, muôn hồng nghìn tía, hương hoa len lỏi.
Địch Thanh dừng chân nghỉ ngơi, trong lòng đầy phiền muộn. Đúng lúc này phía trước vọng đến vài tiếng chiêng, có một đội kỵ mã chạy trước mở đường, phía sau là một đoàn văn nhân cưỡi ngựa trâm hoa, người nào cũng hớn hở, vó ngựa gõ nhẹ..
Có một người dân tấm tắc nói:
- Mau nhìn, mau nhìn kìa, thiên tử môn sinh đang dạo phố kìa.
*****
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua đó, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân. Mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập (1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang này từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích lại quyết định có được trọng dụng hay không.
Tốc độ thăng chức của những người này cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Năm xưa, sau khi Thái Tông lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian bảy năm đã tiến vào Lưỡng Phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là "dưới một người, trên vạn người!"
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí trên vạn người, sao mà không khiến sĩ tử nghèo trong thiên hạ thèm thuồng? Bởi vậy cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, "Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!" (Ngước trông tên bảng hổ treo, mười năm thân đã tới ao phượng hoàng!)
Địch Thanh nhìn thiên tử môn sinh nở mày nở mặt, cúi đầu nhìn lại bản thân, cười tự giễu. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều mỉm cười, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong lâu các kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì giành được một đoạn giai thoại này đấy sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy, đều thẹn thùng không nói nhưng chỉ xuống lầu các, mặt tài tử đỏ bừng làm dân chúng cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là cô gái thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại chuyện phong lưu này vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói:
- Huynh đệ, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, đệ không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ, phong lưu như thế. Nhìn đám cô gái này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, nhưng cũng nhìn trúng tài văn chương của những người này.
Người bạn của gã cười khẩy nói:
- Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con trai bướng bỉnh:
- Con trai à, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, 'Nam nhi chớ tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ sai lầm cả đời', nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại.
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, khinh miệt nhìn Địch Thanh, sùng kính nhìn tài tử. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử này đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy! (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác!)
Địch Thanh đã tiều tụy.
Nghĩa khí, nhiệt huyết làm việc năm xưa đã trôi như nước chảy, Địch Thanh của bây giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng kinh hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng đôi tay mình mà khai phá ra một mảnh bầu trời riêng của mình, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng, hôn mê vài năm càng khiến nội tâm hắn bị thương nặng hơn. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn "Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự. (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác, ngàn thu tiếng để đời, ích gì sau lúc thác)" Đọc đến nỗi lệ rơi ròng ròng...
Địch Thanh khi ấy hoàn toàn không cảm thụ được gì, nhưng vào giờ này khắc này, cô độc nhộn nhịp, tương phản to lớn nhưng lại làm hắn bỗng dưng cảm nhận được sự cô độc và hiu quạnh của mẫu thân lúc đó.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: "Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn, người mà năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ." Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: "Mẹ... Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể."
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ chuyển động, trào lên ý niệm muốn đi vào bên trong xem thử.
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chiếu dọi như dải mây bảy màu. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, đông nghịt.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự thăm quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đám đông, đi vòng ra phía sau Đại Hùng bảo điện, tới trước Thiên Vương điện có mái hiên Đấu Củng. (Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu)
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, còn có Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, "Giáo Phật Di Lặc thực ra bắt nguồn từ xa xưa, từ thời Lương Vũ đế đã sáng lập ra rồi. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự cũng có tôn phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen." Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn, thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ thấy người nào âm hiểm, hung ác như vậy. Đối với tất cả những việc xảy ra tại thung lũng Phi Long năm xưa, hắn và Quách Tuân sau đó đã thảo luận mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đưa phật chủ Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi.
Địch Thanh có linh cảm, phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu càng chứng tỏ hắn đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói, năm xưa khi nhìn thấy Tứ Đại Thiên Vương ở thung lũng Phi Long, bất kể là trang phục, mặt nạ hay binh khí đều cực kỳ giống với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm:
- Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi tà ác giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi.
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương kia, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người ấy hình như lưu lại một nét cười nhưng vẻ mặt rất lạnh.
(1) kỳ tập: gặp gỡ định kỳ. Đặc biệt chỉ có sĩ tử sau khi thi đậu dựa theo lệ cũ tập trung dạo chơi và tiệc rượu.
(2) trà dư tửu hậu: giờ rỗi rãi (sau khi cơm nước xong).
*****
Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia thu hút, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, làm trường sam của người đó bay lên, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của người đó lộ ra, bỗng nhiên cảm giác ngực mình như bị đánh một quyền cực mạnh.
Đai lưng màu xanh biếc khuấy động đến ký ức chôn sâu của Địch Thanh.
Màu sắc của đai lưng kia chẳng phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương sao?
Khóe miệng kia hơi mỉm cười chẳng phải giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên sao?
Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không còn hình bóng. Địch Thanh cất bước muốn đuổi theo, đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức, lảo đảo muốn ngã, nhưng lại không thể nào di chuyển được, nhưng tư duy lại rõ ràng mà trước giờ chưa từng có. Sau lưng người đó chẳng phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không có gì lạ, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!
Người đó chính là Đa Văn Thiên Vương!
Bằng trực giác, Địch Thanh khẳng định người hắn thấy chính là Đa Văn Thiên Vương. Nhưng sao Đa Văn Thiên Vương lại xuất hiện ở Đại Tướng Quốc Tự?
Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng rất đau thương, hai tay nắm chặt, móng tay cắm sâu vào thịt. Sự đau nhức ở lòng bàn tay xua tan cái đau ở trong đầu Địch Thanh, lòng báo thù trỗi dậy, hắn lao ra khỏi Thiên Vương điện, khàn giọng nói:
- Đừng hòng thoát!
Lúc này hắn hoàn toàn không nghĩ đến chuyện mình không phải là đối thủ của Đa Văn Thiên Vương.
Nhưng Địch Thanh vừa mới lao ra khỏi Thiên Vương điện, trái phải hai người đi qua. Một người đang muốn tiến vào trong điện thì vừa vặn bị Địch Thanh va vào, không khỏi "Ai u" một tiếng, ngồi bệt ở trên mặt đất.
Thanh âm yếu ớt này như dòng nước xuân ấm áp, thì ra người bị Địch Thanh đụng vào chính là một cô gái.
Địch Thanh không quay đầu lại xin lỗi, khi chạy vội đi thì nghiêng liếc mắt nhìn nàng kia một cái, chỉ thấy được nàng có một đôi mắt trong veo sáng rực.
Nha hoàn bên cạnh nàng nói:
- Tiểu thư, người này thật vô lễ.
Địch Thanh nghe được lời trách móc, trong lòng cảm thấy áy náy, nhưng hắn đang nóng lòng truy tìm Đa Văn Thiên Vương nên không quay lại. Chạy vội một hồi ra khỏi Tướng Quốc Tự, người đi đường rất nhiều, lưng đeo cây dù cũng nhiều nhưng không có ai thắt đai lưng màu xanh biếc cả.
Địch Thanh dừng bước, mờ mịt nhìn xung quanh, lại đuổi theo về một hướng khác. Hắn giống như con ruồi không đầu, chạy loạn xạ khắp nơi, tìm kiếm bốn phía xung quanh, không hề để ý đến ánh mắt tràn đầy vẻ kinh ngạc của mọi người xung quanh nhìn hắn. Không biết đã qua bao lâu, tiếng chuông khánh xa xa truyền đến, Địch Thanh lúc này mới dừng lại, đấm một đấm vào cây hòe ở bên cạnh, phát hiện mình mồ hôi nhễ nhại, quá mệt mỏi.
Tìm không được rồi, tìm không được rồi!
Trong lòng Địch Thanh vang lên tiếng gào thét điên cuồng, trong mắt lửa giận hừng hực, không ngừng nghĩ: Vì sao Đa Văn Thiên Vương lại tới nơi này? Hắn tới nơi này một lần, có khi còn trở lại? Nhưng cũng có thể hắn chỉ tình cờ đi qua đây, cả đời này không bao giờ... đến nữa...
Tâm tư của Địch Thanh như nước thủy triều, trong lúc nóng nảy, chợt nghe thấy giọng nói một thiếu nữ:
- Tiểu thư, chính là người này đã làm tiểu thư ngã, ánh mắt hắn rất dữ.
Địch Thanh nghe xong ngẩn ra, quay đầu nhìn lại, hai người cô gái đang nhìn mình. Cô gái bên trái quần áo màu xanh nhạt, trang phục của một nha hoàn, đang dìu đỡ tiểu thư ở bên phải. Tiểu thư này khuôn mặt như tranh, y phục màu trắng tuyết, màu da còn trắng hơn so với y phục vài phần, thấy Địch Thanh nhìn qua, sóng mắt trong vắt như nước dời đi, nhỏ giọng nói với nha hoàn:
- Đừng có gây sự.
Tâm tư Địch Thanh rối loạn, muốn xin lỗi nhưng lại không nghĩ ra được lời nào để nói, bị ánh mắt trong veo của nàng kia quét qua, càng không được tự nhiên. Dưới tình thế cấp bách này, hắn liền xoay người bỏ đi, nhưng vẫn còn có thể nghe được tiếng lầm bầm của nha hoàn:
- Tiểu thư, lần này vốn định đi xem hoa mẫu đơn, nhưng chân của người bị trẹo rồi, còn có thể đi được không?
Tiểu thư này đáp:
- Thật khó khắn lắm mới đi ra ngoài được một lần, ài... dù sao vẫn muốn đi xem.
Trong giọng nói mềm yếu của nàng còn mang một chút thất vọng.
Nha hoàn nói:
- Cũng được, nhưng chỉ sợ ở đây không có hoa gì đẹp, không bằng Diêu Hoàng ở nhà mình...
Tiểu thư kia than nhẹ một tiếng, cũng không nói gì nữa.
Giọng nói xa dần, Địch Thanh có chút bất an, muốn quay trở lại nhưng không có dũng khí. Hắn vốn là kẻ không sợ trời không sợ đất, trước đây cho dù đơn độc đối đầu với đám tai sai của Triệu công tử, khi dũng cảm đâm Tăng Trưởng Thiên Vương võ công cao tuyệt cũng không nhút nhát như vậy, chẳng biết vì sao lúc này hắn lại sợ nhìn thấy đôi mắt đen như hạt châu, ánh mắt sáng trong đẹp đẽ của nàng kia.
Đi không được bao lâu, phía trước có mùi thơm bay đến. Địch Thanh nhìn đến, thấy nơi đó có một lán hoa, hoa mẫu đơn đang nở rộ, bèn tới gần xem thử.
Người bán hoa chính là một ông lão, nếp nhăn trên mặt giống như bùn đất bên trong chậu hoa, tràn đầy tang thương, thấy Địch Thanh đi tới, hỏi:
- Khách quan, muốn mua hoa sao?
- Chỉ xem thôi.
Địch Thanh nói cho lấy lệ. Thật ra hắn chẳng hề thích hoa. Nhiều văn thần trong triều rất thích trâm hoa, mỗi lúc gặp dịp tiết khánh long trong, cả triều đầy trâm hoa, nhưng Địch Thanh dù sao vẫn cho rằng một người nam nhân nhuốm máu đào, ít nhiều cũng có chút không được tự nhiên.
Ông lão thấy không có khách nào tiếp, thì nhiệt tình giới thiệu với Địch Thanh:
- Khách quan, ở đây có Tử Kim Bàn, Điệp Lâu Thúy, Bạch Ngọc Băng và Mãn Đường Hồng, đều rất đẹp, nếu mua một chậu về nhà bày trí, nhìn sẽ rất đẹp đó.
Lán bán hoa này đều đặt cho những loài hoa một cái tên lịch sự tao nhã, tìm cách thu hút ánh mắt của khách hàng.
Địch Thanh nhìn thấy Hoa mẫu đơn có tên gọi là Tử Kim Bàn màu nâu son viền vàng rất hiếm thấy; Mẫu đơn Điệp Lâu Thúy màu xanh biếc, cánh hoa tầng tầng lớp lớp, cũng rất đẹp; Bạch Ngọc Băng kia tên cũng như nghĩa chính là màu trắng; Mãn Đường Hồng thì toàn thân màu đỏ. Mẫu đơn nở rộ, quả thực là đặc sắc diễm lệ. Ánh mắt Địch Thanh đảo qua, đột nhiên hỏi:
- Có hoa gì tên là... Diêu Hoàng không?
Ông lão ngẩn ra, lắc đầu nói:
- Giống Diêu Hoàng thì cực kỳ quý báu, đường kính hoa này nửa thước, lão cũng chỉ thây qua một lần mà thôi, nhưng ở đây lại không có bán.
Địch Thanh hỏi:
- Ở đâu có bán vậy?
Ông lão lắc đầu nói:
- Lão không biết, nhưng mà loại hoa này... chỉ có nhà quyền thế phú quý mới có khả năng mua được thôi.
Ông lão thấy Địch Thanh ăn mặc giản dị, nhịn không được mà nhắc nhở.
Địch Thanh nghe lão bán hoa nói như vậy, thầm nghĩ: "Trong nhà tiểu thư kia có Diêu Hoàng, chắc là người phú quý rồi."
Hắn mới vừa rồi chỉ nhìn thoáng qua, bị dung mạo của tiểu thư kia làm cho khiếp sợ, dĩ nhiên không dám nhìn lâu, chỉ ngờ ngợ cảm thấy tiểu thư kia cực kỳ xinh đẹp, nhưng y phục như thế nào thì không nhớ, cũng không để ý.
Đang trong suy tính thì hắn trông thấy có chậu mẫu đơn nở hoa màu vàng óng ánh ở trong khóm hoa thơm cỏ lạ đua sắc có vẻ điềm tĩnh an bình. Địch Thanh chậm rãi đến gần, dừng chân trước hoa một lát. Ông lão giới thiệu nói:
- Khách quan, hoa này đây là...
Chưa kịp nói xong, bên ngoài lán đột nhiên có người hô lớn:
- Cao lão đầu, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?
Ông lão quay đầu lại nhìn lên, thấy ba du côn đứng ở trước lán, phía bên trái là một người có dáng người ục ịch, ở giữa là một người đội mũ lệch, phía bên phải là một người phanh ngực, ở trên mặt xăm một con mãnh hổ dữ tợn, cử chỉ của ba người này vô cùng hung hăng ngang ngược, chỉ thiếu xăm hai chữ "côn đồ" trên mặt nữa thôi.
Lão Cao thấy thế hoảng sợ bước lên phía trước nói:
- Các vị, chuẩn bị cái gì vậy?
Người đội mũ lệch nói:
- Ngươi giả bộ hồ đồ phải không? Phí bảo vệ lán nên giao nộp rồi phải không nhỉ?
Lão Cao vội la lên:
- Mấy ngày trước không phải đã nộp rồi sao?
Người đội mũ lệch cười lạnh nói:
- Ngươi vài ngày trước đã ăn cơm rồi, chẳng lẽ ngày hôm nay không cần phải ăn nữa?
Người xăm mặt kia gật đầu phụ họa nói:
- Lão đại nói có lý.
Lão Cao vội la lên:
- Lão bán hoa chỉ đủ nuôi thân mình, nào có dư thừa tiền đâu? Các vị... à, tháng sau mới nộp tiền cho các ngươi có được không?
Người đội mũ lệch cười lạnh nói:
- Vậy tháng sau ngươi mới ăn có được không hả?
Người xăm mặt kia khen:
- Lão đại nói có lý.
Địch Thanh nghe đến đó, đã biết là có chuyện đã xảy ra, chậm rãi đi tới, lạnh lùng thốt:
- Các ngươi có biết nhục không?
Người đội mũ lệch nghe vậy cả giận nói:
- Ngươi là ai?
Địch Thanh thản nhiên nói:
- Cho dù các ngươi không biết nhục, lẽ nào cũng không biết chữ?
Người đội mũ lệch kia ngẩn ra, hét lớn:
- Đại gia biết hay không biết chữ, quan hệ gì với ngươi?
Người ục ịch đảo mắt, thấy chữ xăm trên mặt Địch Thanh thì biến sắc, nói khẽ với người đội mũ lệch:
- Đại ca, gã này chính là cấm quân.
*****
Người đội mũ lệch mải đắc ý kiêu ngạo, lúc này mới nhìn thấy trên mặt Địch Thanh có xăm chữ, sắc mặt liền khẽ biến. Bọn họ dù sao cũng chỉ là du côn, thường ngày chỉ dọa dẫm bắt nạt kẻ yếu mà sống chứ nào dám đắc tội với cấm quân, biết thân phận của đối phương thì ngay lập tức nhún nhường, cười làm lành nói:
- Vị đại gia này, tiểu nhân dốt nát, thuở nhỏ nhà nghèo, đâu có tiền mời thầy dạy học, nên không biết chữ, không nhận ra đại gia, xin người rộng lượng bỏ qua.
Bộ mặt y liền thay đổi nói với lão Cao:
- Chỉ đùa một chút với lão thôi, đừng có tin là thật nhé!
Dứt lời nháy mắt với hai người huynh đệ, xám xịt mà rời đi.
Lão Cao thở phào nhẹ nhõm, nói với Địch Thanh:
- Vị quan gia này, đa tạ ngươi đã giúp đỡ. Lúc này kinh thành thuế má không nhẹ, còn phải đối phó với đám vô lại này, thật là khiến người ta đau đầu.
Dứt lời lão lắc đầu, vẻ mặt bất đắc dĩ.
Địch Thanh cười, quay đầu lại nhìn chậu hoa mẫu đơn màu vàng rực rỡ kia, hỏi:
- Hoa kia bán bao nhiêu tiền vậy?
Lão Cao cười theo nói:
- Nếu quan gia thích thì cứ việc cầm lấy đi là được, chậu hoa này coi như lão tặng cho ngài.
Địch Thanh cười đáp:
- Ta chỉ là một cấm quân tầm thường, không phải là gia gì cả. Nếu ta không trả tiền thì có khác gì bọn du côn kia chứ?
Dứt lời, hắn liền chìa bàn tay đưa tới một vài đồng tiền nói:
- Chừng này đủ chưa?
Lão Cao gật đầu liên tục:
- Vậy là đủ rồi, dư nữa, dư nữa.
Địch Thanh bỏ đồng tiền xuống cầm chậu hoa đi ra ngoài, nhưng đột nhiên sửng sốt, hóa ra cô gái áo trắng kia dẫn theo nha hoàn đang ở bên ngoài lán nhìn mình. Địch Thanh đem chậu hoa này đặt ở trước người nàng, không nói được lời nào, xoay người rời đi. Cô gái áo trắng kia vô cùng ngạc nhiên, gọi:
- Này...
Nhưng giọng nói của nàng yếu ớt như muỗi kêu, không biết Địch Thanh có nghe được hay không, sớm đã lẫn vào trong biển người.
Nha hoàn bĩu môi nói:
- Chỉ có một chậu hoa phế phẩm như thế, sao có thể so sánh với Diêu Hoàng trong nhà mình được? Tiểu thư, cô nói xem đúng không? Hắn đụng tiểu thư bị thương, chẳng lẽ muốn bồi thường bằng chậu hoa này hay sao? Nếu không phải tiểu thư rộng lượng, chúng ta đem hắn giao cho phủ Khai Phong, đánh hắn hơn chục hèo! Hừ!
Cô gái áo trắng ôn hòa nói:
- Hình như lúc nãy hắn có việc gấp đó. Em không thấy hắn giúp đỡ ông lão bán hoa đấy sao? Nói như vậy, hắn chính là người tốt.
Thì ra mới vừa rồi Địch Thanh đuổi đi ba du côn kia, hai người chủ tớ này đều trông thấy.
Lão già nghe nha hoàn nói đây là hoa phế phẩm thì có chút bất mãn nói:
- Vị cô nương này, hoa của lão không phải là hoa phế phẩm, cô xem nó nở nhiều hoa đẹp không này. Hơn nữa loại hoa này, không phải lão khoác lác, xung quanh trăm dặm cũng rất hiếm thấy.
Cô gái áo trắng ngồi xuống nhìn chậu hoa kia, đột nhiên nói:
- Ông à, hoa này thật kỳ lạ, trên cánh hoa sao lại có vân hình trái tim vậy? Hoa văn này, rất là kỳ lạ, giống như trái tim vẽ bên cạnh ngọc tiêu.
Nàng quan sát cực kỳ tỉ mỉ, nhìn ra được hoa này có chỗ bất thường.
Ông lão tự hào nói:
- Đương nhiên rồi, hoa này mặc dù không nổi tiếng nhưng những nơi khác đều không có. Lão đã gặp được một người tao nhã, đặt cho hoa này một cái tên, gọi là Phượng Cầu Hoàng!
Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, mờ mịt mà mãi lang thang khắp nơi. Chỉ đến khi bóng tà dương lặn dần, lũ chim mệt mỏi bay về tổ thì hắn mới chợt tỉnh táo lại, tự hỏi vì sao mình lại thất hồn lạc phách như vậy, chẳng lẽ vẫn còn muốn tìm Đa Văn Thiên Vương?
Vừa nghĩ đến Đa Văn Thiên Vương, lửa giận trong lòng Địch Thanh lại bùng lên, ngẫm nghĩ: "Giáo đồ Di Lặc này xem ra vẫn còn có chút tôn kính đối với tượng phật Di Lặc. Đa Văn Thiên Vương đến một lần, không chừng sẽ đến lần thứ hai. Đã thế, sao mình không về Đại Tướng Quốc Tự xem thử, có khi gặp hắn cũng nên."
Mới đi được vài bước, hắn đã không cầm lòng được, lại nghĩ: "Không biết nàng ấy đã rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự hay chưa?"
Nghĩ tới đây Địch Thanh mới nhận ra, là ngay cả bản thân hắn cũng không rõ mình muốn quay về Tướng Quốc Tự là muốn tìm Đa Văn Thiên Vương hay là gặp cô gái kia. Hắn không khỏi tự chế nhạo bản thân: "Địch Thanh ơi là Địch Thanh, bộ dạng ngươi thế này mà cũng mơ mộng hão huyền hay sao?"
Địch Thanh không muốn nghĩ đến cô gái kia nữa, bèn nhắm chuẩn hướng, chạy về phía Đại Tướng Quốc Tự. Trên đường đi, hắn ghé qua quán bên đường mua hai cái bánh bao cất vào trong lòng ngực. Lúc này đám đông tụ họp trong chùa đã sớm từ lâu, dân chúng cũng đều đã bỏ về nên trong chùa đã thanh tịnh hơn rất nhiều.
Địch Thanh rảo bước vào trong Thiên Vương điện, thấy trên bàn thờ khói hương nghi ngút, chỉ còn một tăng nhân đang gõ mõ ở lại. Trong lòng khẽ động, hắn lặng lẽ vòng ra phía sau bàn thờ, thừa dịp tăng nhân này không chú ý liền chui xuống phía dưới bàn thờ. Hắn làm việc không dựa vào một quy tắc nào cả, chỉ nghĩ rằng nếu hắn ở đây lâu thì chắc tăng nhân trong tự sẽ cảm thấy lạ, có khi lại đuổi hắn ra ngoài không chừng, nên dứt khoát phải trốn trước đã.
Dưới bàn thờ tương đối sạch sẽ, Địch Thanh nhẹ nhàng rút thanh đao ở thắt lưng ra, rạch một khe nhỏ trên tấm màn bằng vải bố để nhìn ra ngoài dò xét. Hắn khoanh chân ngồi xuống, nhất thời trong lòng dao động, không biết phương pháp ôm cây đợi thỏ này có tác dụng hay không. Nhưng muốn tìm Đa Văn Thiên Vương thì thực sự hắn cũng không nghĩ ra được biện pháp nào hay hơn nữa.
Màn đêm buông xuống, đèn được thắp lên, tiếng ồn ào dần dần rời xa Đại Tướng Quốc Tự, trong tự chỉ còn văng vẳng tiếng cầu kinh. Nghe được âm thanh ôn hòa này, trong lòng Địch Thanh đã tĩnh lặng trở lại. Hắn vẫn từ lỗ hổng trên tấm màn bằng vải bố nhìn ra ngoài dò xét, nhưng nhìn chăm chú liên tục khiến cho đôi mắt trở nên đau nhức, mà Đa Văn Thiên Vương lại không xuất hiện lần nữa.
Địch Thanh thấy hơi đói bụng, bèn móc bánh bao ra xé một miếng, sợ phát ra tiếng động làm cho tăng nhân phát hiện, liền cho vào trong miệng chậm rãi nhai nuốt. Sau khi ăn bánh bao xong, lại qua nửa canh giờ, Địch Thanh ngồi lâu bàn chân tê rần, biết đã gần đến nửa đêm, không khỏi cảm thấy vô cùng uể oải. Hắn thầm nghĩ, cửa chùa đã đóng lâu rồi, chắc chắn là Đa Văn Thiên Vương không tới.
Lúc này có tiếng bước chân vang lên, tinh thần Địch Thanh chấn động, bèn đưa mắt nhìn lại. Phía trước có một tăng nhân một tục nhân đi tới, tăng nhân này mặt mũi hiền lành, râu dưới cằm trắng như cước; tục nhân kia thì đưa lưng về phía Địch Thanh, trên người không có đeo vật gì dài như cây dù, không giống người Địch Thanh đang đợi. Địch Thanh nhìn không thấy chính diện mặt mũi của tục nhân, chỉ thấy được giày của hắn là thêu hoa dệt gấm, cực kỳ hoa mỹ. Địch Thanh biết đôi giày này là do danh phường Ngũ Hồ Xuân kinh thành làm ra, người mua đều là quan to quý nhân.
Người vừa đến rõ ràng không có quan hệ gì với Địch Thanh. Hắn vô cùng thất vọng, nhắm hai mắt lại, chỉ nghe thấy tục nhân kia hỏi:
-Trụ trì, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo.
Âm điệu người này tuy còn trẻ nhưng trong giọng nói ẩn chứa vẻ chán nản, giống như một lão già bảy tám mươi tuổi.
Địch Thanh hơi ngạc nhiên, cảm thấy giọng điệu người này và khuôn mặt của Đa Văn Thiên Vương có chung một điểm, là không hài hòa như lẽ thường. Hắn lại nghĩ: "Trụ trì Đại Tướng Quốc Tự phụ thuộc hoàng gia, không phải muốn gặp là gặp được, vậy mà người này có thể xin chủ trì giải thích nghi vấn, không biết có địa vị gì đây?"
Trụ trì nói:
- Thí chủ, xin cứ hỏi.
Tục nhân buồn rầu nói:
- Niết bàn là ở đâu?
Địch Thanh thiếu chút nữa phá lên cười, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ kinh thành này không phải Niết bàn sao?"
Nhưng nghĩ lại một chút, khóe miệng hắn vẫn mang nét cười.
Trụ trì chậm rãi đáp:
-Nhược tầm tịnh thổ, đương cầu tịnh tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, vô xử bất tịnh thổ. (Muốn thấy Niết bàn, để lòng thanh tịnh. Khi tâm đã tịnh, đâu chẳng Niết bàn. )
Trong lòng Địch Thanh cười khổ: "Tuy nói thì là vậy, nhưng muốn tịnh tâm đâu phải là chuyện dễ dàng?"
Tục nhân liền nói:
- Cao tăng nói rất đúng, nhưng ta lại trước sau không thể tĩnh tâm được, vẫn luôn cảm thấy khắp nơi đều là địch, như ở trong lồng giam, nên mới đến đây để cầu phật.
Địch Thanh nghe trong ngữ khí của hắn ta tràn đầy vẻ hoang mang khốn khổ, hệt như con thú bị hãm sâu vào trong lồng, lòng hắn đột nhiên dâng lên sự đồng tình. Nhiều năm qua, Địch Thanh cũng vùng vẫy ở trong gian khổ, cũng trải qua cảm giác loại cảm giác này.
Trụ trì đáp:
-Thánh nhân cầu tâm không cầu phật, người ngu dốt cầu phật không cầu tâm. Thí chủ, bần tăng muốn kể một chuyện xưa...
Tục nhân vui vẻ nói:
- Xin kể.
Trụ trì chậm rãi kể:
- Nghe kể rằng bên bờ biển Đông có một con chim bói cá, chán ghét thế tục xấu xa, nó cảm thấy thiên hạ đều là kẻ địch. Chính vì thế nó bay đến sườn núi cao đối diện biển xây tổ, tưởng rằng sẽ không còn nguy hiểm nữa, nhưng không ngờ đến một ngày thủy triều dâng lên, tổ chim bị sóng biển cuốn đi. Chim bói cá than thở nói: "Trong lòng có địch, khắp nơi đều là địch."
← Hồi 016 | Hồi 018 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác