Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Sáp huyết - Hồi 018

Sáp huyết
Trọn bộ 119 hồi
Hồi 018: Ngũ Long
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-119)

Địch Thanh nghe xong trong lòng có chút hỗn loạn, thoáng nghĩ, "Ta và Đa Văn Thiên Vương không phải là địch, nhưng nếu người này không chết thì đại loạn sẽ không thể dừng lại được. Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt..." Nghĩ tới đây, khóe miệng nhếch lên một nụ cười cay đắng, "Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt, ta có thể tha hắn không? Sợ rằng không thể. Vậy chẳng phải gần nghìn thường dân sẽ chết oan uổng ở thung lũng Phi Long sao?

Tục nhân yên lặng một lúc lâu, lúc này mới nói:

- Đa tạ đại sư chỉ điểm, ta đã biết nên làm thế nào. Đại sư vất vả rồi, ta có ý muốn trùng tu chùa chiền, làm một chút công đức, không biết ý đại sư thế nào?

Trụ trì nói:

- Trùng tu hay không trùng tu, có công đức hay không công đức, trong lòng có phật, đã là công đức.

Tục nhân hiểu ý, hai tay hợp thành chữ thập thi lễ, chậm rãi bỏ đi, trụ trì cũng theo sau, Thiên Vương điện thoáng cái đã yên tĩnh trở lại.

Địch Thanh nghe cao tăng giảng kinh Phật, lúc thì cảm thấy có lý, lúc thì lại cảm thấy không buông bỏ được, lại có chút tò mò về địa vị của tục nhân kia. Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên cảm thấy một tia sáng xuyên thấu qua tấm màn vải, tối rồi lại sáng. Địch Thanh khẽ rùng mình, tiến đến phía sau màn che bằng vải bố nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một người đứng yên trước tượng phật Di Lặc, bên hông có thắt một cái đai lưng màu xanh, lưng đeo cây dù dài, đúng là người mà hắn muốn tìm kiếm.

Tim Địch Thanh đập thình thịch, nhìn qua mặt người đó. Chỉ thấy khóe miệng người đó hơi mỉm cười, nhưng khuôn mặt cực kỳ lạnh lẽo u ám, đang nhìn tượng phật Di Lặc đến xuất thần. Địch Thanh nhìn người đó một lúc lâu, thấy y vẫn đứng yên không đổi, trong lòng không khỏi cảm thấy ớn lạnh. Địch Thanh biết mình dù cho không bị thương thì võ công so với người đó cũng kém quá xa, thời khắc này hắn ngay cả thở mạnh cũng không dám, thầm than Quách Tuân đã rời khỏi kinh thành, nếu không cũng có thể tìm Quách Tuân đối phó với người này.

Không biết đã qua bao lâu, bên ngoài cửa điện có tiếng bước chân vọng đến, một tăng nhân bước vào, thấy người ấy đứng lặng im trước tượng phật, ngạc nhiên quát khẽ:

- Ngươi là ai?

Đại Tướng Quốc Tự là quốc tự, để ngọn đèn dầu ở chủ điện cả đêm không tắt, tăng nhân này phụ trách nửa đêm đến đây thêm dầu thắp thì bỗng nhiên nhìn thấy có người lạ ở đây, khó tránh khỏi ngạc nhiên.

Đa Văn Thiên Vương nghe được tiếng quát hỏi, đột nhiên xoay người lại, đến trước mặt tăng nhân. Cây dù dài trên lưng khẽ chuyển động, cán ô đã đập mạnh vào sau gáy tăng nhân.

Tăng nhân chưa kịp tri hô thì cả người đã mềm nhũn ngã xuống đất. Người nọ vươn tay ra bắt được hũ dầu cầm trong tay tăng nhân, đi một vòng quanh đại điện, châm thêm dầu cho những ngọn đèn ở bốn vách tường.

Địch Thanh từ một nơi bí mật gần đó nhìn thấy rõ ràng, nhưng không hiểu người này rốt cuộc muốn gì.

Người kia thêm dầu xong, trở lại ngồi trước mặt phật Di Lặc, nhìn Di Lặc phật chủ, lẩm bẩm nói:

- Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp... Ngũ Long lại xuất hiện, nhỏ lệ không ngừng?

Y lặp lại không ngừng mấy câu nói đó, hình như đang suy nghĩ gì đó. Địch Thanh nghe không hiểu gì hết, thầm nghĩ năm xưa ở thung lũng Phi Long, người này niệm chú mê hoặc nhân tâm, nhưng hiện giờ ở chỗ này chỉ có một mình hắn thì còn niệm cái chú ngữ làm gì?

- Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt. Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!

Người đó lại niệm những lời này đến điên đảo, miết chặt đầu mày, ánh mắt nhìn chăm chú trên thân tượng phật Di Lặc.

Dưới ngọn đèn dầu, phật Di Lặc rạng rỡ tỏa hào quang. Trong người kia đột nhiên lộ ra vẻ vui mừng, thấp giọng nói:

- Đúng rồi, Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!

Bất luận giọng điệu y thế nào nhưng nụ cười ở khóe miệng vẫn tồn tại.

Địch Thanh chợt tỉnh ngộ: "Người này chắc chắn là đang mang mặt nạ cải trang."

Hắn chưa kịp suy nghĩ nhiều thì thân người đó chợt lóe lên, nhảy vút lên cạnh đài sen, chuyển tới bên thân tượng phật Di Lặc, đi liên tục mấy vòng.

Địch Thanh không nhịn được thò đầu ra khỏi tấm màn bố quan sát, cũng may toàn bộ tâm tư người này đều đặt trên người phật Di Lặc, nằm mơ cũng không ngờ rằng dưới bàn thờ có người đã nhìn thấy tất cả.

Cuối cùng người kia cũng dừng lại, lấy tay gõ gõ vào thân tượng phật Di Lặc, hai tay đột nhiên đặt trên tượng phật Di Lặc, tập trung tinh thần dùng hết sức, khẽ gầm một tiếng. Chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm vang lên, tượng Di Lặc phật đã bị y đẩy khỏi đài sen.

Trong tiếng nổ, tượng phật Di Lặc đã vỡ thành bốn năm mảnh, bụi bay tràn ngập không gian. Đột nhiên có một tiếng "đinh" vang lên rất nhỏ, người kia nhảy xuống, đưa tay chụp lấy một vật gì đó trong mảnh vỡ của tượng phật, không nén được vui mừng nói:

- Quả nhiên ở chỗ này.

Trong lòng Địch Thanh tràn đầy hiếu kỳ, không biết người này rốt cuộc lấy cái gì.

Đúng lúc này, bên ngoài Thiên Vương điện truyền đến mấy tiếng quát lớn:

- Là ai ở trong điện?

Tiếng quát chưa dứt thì đã có mấy võ tăng tiến vào.

Mặc dù Đại Tướng Quốc Tự lấy việc nghiên cứu tinh hoa Phật pháp, vì hoàng tộc phục vụ là chính, nhưng trong chùa cũng thu không ít pháp khí kim ngân, danh gia mặc bảo, sợ đám trộm vặt lớn gan không có mắt nhìn vào chùa trộm cướp cho nên luôn có võ tăng hộ viện. Vào Đại Tướng Quốc Tự trộm cướp là trọng tội, xưa nay đều phải bị chém đầu, quả thực đã uy hiếp không ít đạo tặc. Bởi vì nguyên nhân này mà mấy năm qua ít có kẻ trộm, tăng nhân trong chùa cũng thoải mái rất nhiều, không ngờ hôm nay trong Thiên Vương điện lại có biến đổi lớn. Mấy võ tăng tuần tra trong viện nghe được động tĩnh vội vàng chạy vào, nhìn thấy bên tượng phật Di Lặc bị phá vỡ, bên cạnh đứng một người, không khỏi vừa sợ vừa giận, không thèm hỏi mà vung côn lên đánh về phía người đó.

Người nọ hừ lạnh một tiếng, tay nắm lấy trường côn, tung người đá tới, đá một võ tăng văng ra ngoài. Đám võ tăng kinh hãi, làm sao lường trước được võ công người này cao cường đến như vậy, nhưng mang trách nhiệm bảo vệ chùa trong người, dù không đánh lại cũng phải kiên trì bao vây.

Địch Thanh nghe được tiếng gào "Ai, ui, má ơi" không dứt, chỉ trong chớp mắt, mấy võ tăng vọt tới đều người nọ đánh bay ra ngoài. Địch Thanh vốn định liên thủ cùng đám võ tăng, nhưng lại sợ bị võ tăng hiểu lầm là đồng đảng của tên trộm đó, không chừng ăn không được thịt dê, trái lại còn chuốc lấy phiền phức vào người. Trong lúc hắn đang lưỡng lự, người nọ đã lẻn đến trước điện, vừa mới nhảy ra ngoài điện chợt nghe được một tiếng hét lớn:

- Nằm xuống!

Một vệt kiếm quang như trăng sáng xuyên mây, đâm về phía trước người nọ!

Người nọ kinh hãi lùi lại một bước, nhưng đường kiếm kia hư hư thực thực, biến hoá khó lường, người nọ sau khi lùi một bước, lại bị bức lui thêm hai bước. Người xuất kiếm cũng âm thầm lặng lẽ đánh một chưởng vào giữa người nọ.

Người nọ bị một chưởng đánh trúng bay ngược trở ra, khí huyết trong lồng ngực cuồn cuộn, không khỏi hoảng hốt, thầm nghĩ "sao hắn ta lại ở đây?" Trước khi tới đây y đã thăm dò được địa thế trong điện, lại biết được võ tăng ở Đại Tướng Quốc Tự tuy đông nhưng đều không phải là đối thủ của y, vì vậy không kiêng dè gì cả, đâu ngờ kẻ thù một mất một còn của mình không ngờ lại cũng đi tới Đại Tướng Quốc Tự.

Địch Thanh nhìn thấy người vừa đến ánh mắt như kiếm phong thì trong lòng mừng rỡ, thì ra người xuất kiếm đẩy lùi gã kia lại chính là bộ đầu Khai Phong Diệp Tri Thu!

Một chưởng củaDiệp Tri Thu trúng đích vẫn không hề buông tha. Cả người gã theo kiếm bay tới, kiếm quang trùng trùng đâm tới toàn thân người nọ.

Người nọ hừ lạnh một tiếng, trở tay tháo cây dù dài đeo trên lưng xuống, chỉ cần điểm nhẹ lên mặt đất đã lập tức bay nhanh trở ra. Diệp Tri Thu ngạc nhiên với thân thủ người nọ, nhưng chẳng hề buông tha, mũi chân liên tiếp điểm mấy cái, cưỡi gió đuổi theo.

Hai người một tiến một lùi, thoáng cái đã đến bên cạnh tượng phật Tứ Đại Thiên Vương. Người nọ quát to một tiếng, cầm cây dù đâm tới Diệp Tri Thu, không ngừng di chuyển. Diệp Tri Thu thầm rùng mình, biết rõ cây dù dài của người này biến hóa vô cùng nên tập trung toàn bộ tinh thần mà chống đỡ.

Người nọ thấy thế thì cười một tràng dài, thò tay kéo một tượng Phật sắp đổ ném về phía Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu đành phải lùi ra sau một bước, người nọ thừa cơ tung người nhảy lên đỉnh tượng Phật, lại nhảy tiếp lên một cái xà ngang trên nóc điện, nhưng cực hạn của gã vẫn còn cách xà ngang một cánh tay, trong ranh giới sắp rơi xuống, người nọ quay ngược cán dù móc vào rồi ôm lấy xà ngang, làm vỡ ngọc lưu ly trên đỉnh điện, vọt tới trên nóc Thiên Vương điện.

Đỉnh điện mặc dù cao, người nọ mấy lần mượn lực, rõ ràng là muốn từ đỉnh điện để chạy trốn.

Diệp Tri Thu vô cùng giận dữ, không ngờ hắn ta lại ứng biến nhanh nhạy đến như vậy. Gã không dám khinh nhờn tượng phật, nhưng lại hoàn toàn không có cách gì leo lên nóc điện, nên chỉ có thể lách mình ra khỏi điện, thét ra lệnh thuộc hạ:

- Bao vây Thiên Vương điện.

*****

Nhưng mệnh lệnh y vừa ra thì tự biết đã có vấn đề lớn, dù sao Thiên Vương điện cũng không phải là đại điện cô lập, mà còn gắn liền với cung điện khác, người nọ tuyệt đối không thể ở lại đỉnh điện chờ người lùng bắt, chỉ sợ lúc này sớm đã trốn thoát mất rồi.

Ánh trăng như nước, chiếu một mảnh tiêu điều trong trời đất. Diệp Tri Thu cau mày, phỏng đoán mục đích đến của người này. Đột nhiên nghe được trong điện truyền đến vài tiếng quát:

- Người nào?

Trong lòng Diệp Tri Thu ngạc nhiên, lắc mình vào trong điện, thấy đám võ tăng vây bắt một người, thất thanh:

- Ngươi...

Trong lòng gã khẽ động, hét lớn:

- Là người một nhà, các vị hãy thu hồi côn bổng lại đi.

Mới vừa rồi Diệp Tri Thu cùng người nọ đại chiến trong điện, đám võ tăng không làm được gì, đều cảm thấy vừa thẹn vừa ngượng, thấy kẻ trộm phá đỉnh điện chạy thoát thì càng khiến cho bọn họ trợn mắt líu lưỡi, không ngờ trên đời này còn có công phu bậc này. Những tăng nhân bảo vệ tự này ngày ngày luyện võ, tuy nói là tăng nhân vô dục vô cầu nhưng trong nội tâm đối với tài năng của Diệp Tri Thu tại Khai Phong thì cũng có lòng muốn tỷ thí. Nhưng hôm nay thấy người cầm cây dù dài hoành hành không kiêng nể gì ai, nếu như không có Diệp Tri Thu thì chỉ sợ tất cả bọn họ đều mất mặt, cho nên vừa có bảy phần kính nể ba phần cảm kích Diệp Tri Thu, liền thu hồi côn bổng.

Địch Thanh hơi xấu hổ, hô lên:

- Diệp bộ đầu.

Thì ra người nọ lật nhào tượng phật, thiếu chút nữa là đập xuống bàn thờ, Địch Thanh bị dọa cho xanh mặt, không thể ẩn náu được nữa mà lao ra ngoài, đám võ tăng thấy có người khác, thầm muốn lập công chuộc tội nên vây Địch Thanh lại. Địch Thanh thầm nghĩ không xong, nhất thời không biết giài thích thế nào mới phải.

Diệp Tri Thu cau mày, đột nhiên nói:

- Ngươi vì theo dõi Đa Văn Thiên Vương này mà đến đây sao?

Địch Thanh bội phục nói:

- Diệp thần bộ quả nhiên danh bất hư truyền. Ban ngày ta nhìn thấy người này ở trong chùa đi tới đi lui, lòng mang ý đồ xấu, nghĩ rằng có khả năng buổi tối hắn sẽ tới đây nên mới ở chỗ này ôm cây đợi thỏ. Gã đó thật sự là Đa Văn Thiên Vương, nói như vậy thì ta không có nhận lầm người?

Diệp Tri Thu mặc dù thấy Địch Thanh nói vô cùng tỉ mỉ xác thực, biết hắn tuyệt đối không phải là bè đảng của Di Lặc giáo, và cũng vì nguyên do Quách Tuân nên cũng không muốn thêm nhiều chuyện phức tạp xảy ra, y bèn nói:

- Tốt, ngày khác ta sẽ thỉnh cầu công lao cho ngươi. Ngươi trước tiên hãy rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự đi.

Địch Thanh không nghĩ núp ở dưới gầm bàn mà cũng có công lao, xem như là thời gian khổ cực cũng đã qua. Hắn vừa định nói gì thì có người vội vội vàng vàng tới bên cạnh Diệp Tri Thu, thấp giọng thì thầm hai câu. Diệp Tri Thu gật đầu, nói với Địch Thanh:

- Ta... còn có việc khác, ngươi rời khỏi nơi đây trước đi đã.

Y đã hai lần giục Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, vẻ mặt hình như có điều bí ẩn khiến cho Địch Thanh có phần khó hiểu. Tuy nhiên Địch Thanh biết rõ Diệp Tri Thu có ý tốt, liền gật đầu rời khỏi chùa. Vừa mới ra khỏi Đại Tướng Quốc Tự, cửa chùa Ầm một tiếng đóng chặt. Địch Thanh vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ chắc đám tăng nhân này hơn phân nửa thấy tượng phật Di Lặc bị phá hỏng, sợ gánh trách nhiệm cho nên len lén ở trong chùa tu bổ, nhưng Diệp Tri Thu thì ở trong chùa làm gì?

Địch Thanh lắc đầu không muốn suy nghĩ nhiều bèn trở về phủ đệ của Quách Tuân.

Quách phủ không nhỏ nhưng lại chỉ có huynh đệ họ Quách ở, Quách Tuân trong một năm thì đã có hơn nửa năm ở bên ngoài kinh thành bắt giặc dẹp loạn, mấy năm nay Địch Thanh vẫn luôn ở Quách phủ. Địch Thanh ghé qua thăm Quách Quỳ trước, thấy nó đã ngủ say bèn nhặt cái chăn rơi trên mặt đất, nhẹ nhàng đi vào trong thay cho Quách Quỳ một cái chăn ấm, lúc này mới trở lại gian phòng của mình, châm ngọn đèn dầu.

Ngọn đèn lập loè giống như đôi mắt đa tình của tình nhân, Địch Thanh nhìn ngọn đèn một lát, chậm rãi sờ tay vào ngực móc ra một cầu đen to cỡ nửa nắm tay.

Chẳng ai biết đó là vật gì, Địch Thanh cũng vậy. Nhắc đến cũng là trời xui đất khiến, thứ này từ trên người Đa Văn Thiên Vương rơi xuống.

Lúc đó Đa Văn Thiên Vương phá vỡ tượng phật Di Lặc, lấy ra một vật từ trong đó, làm kinh động võ tăng và Diệp Tri Thu. Đa Văn Thiên Vương bị Diệp Tri Thu đánh một chưởng làm rơi ra một quả cầu đen, lăn xuống dưới bàn thờ. Địch Thanh đưa tay tóm lấy, cất vào trong ngực, hắn biết thứ này chắc là liên quan đến Đa Văn Thiên Vương nên đem vật này giữ lại trên người.

Lúc ở Đại Tướng Quốc Tự, Địch Thanh vốn định nói với Diệp Tri Thu điều này nhưng Diệp Tri Thu vội vội vàng vàng rời đi làm cho Địch Thanh không có cách nào mở miệng. Địch Thanh cầm quả cầu đen này, thấy nó cũng không phải sắt, toàn bộ đen nhánh rất bắt mắt, cảm giác thô ráp, không hiểu sao Đa Văn Thiên Vương lại phải vất vả mạo hiểm tới lấy?

Lật qua lật lại nhìn hồi lâu bỗng nhiên phát hiện quả cầu đen hình như lóe hàn quang nhè nhẹ, Địch Thanh cầm quả cầu đen tiến về phía ngọn đèn, phát hiện trên quả cầu đen có khắc hai chữ triện Ngũ Long.

Địch Thanh cau mày, nhớ tới lời Đa Văn Thiên Vương lẩm bẩm nói "Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt." Xem ra phật Di Lặc không phải độ kiếp mà là gặp nạn, mới sinh ra vật Ngũ Long này.

Nếu quả cầu đen này là Ngũ Long, vậy nó có tác dụng gì?

Địch Thanh nghĩ đến đau cả đầu mà vẫn không nghĩ ra. Thử dùng đao khứa nhẹ lên mặt quả cầu đen, hắn phát hiện ra vật này cực cứng, đao sắc như thế mà cũng không để lại một vết tích nào.

Địch Thanh nghiên cứu liên tục một canh giờ mà mãi vẫn không thể khám phá ra điều gì, hắn ném thứ đó lên mặt bàn, lầm bầm:

- Cái thứ khỉ gió gì đây chứ, lãng phí thời gian ngủ của ông mày quá.

Bận rộn cả đêm, bây giờ cũng đã tờ mờ sáng. Địch Thanh không thèm cởi giày, cứ thế ngã lăn ra giường nhìn lên nóc nhà, trong đầu đột nhiên lại hiện ra khuôn mặt thanh lệ thoát tục kia, lắc đầu cố xua hình bóng ấy ra khỏi đầu, mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Không biết đã qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy trước mắt có tia sáng rực chiếu thẳng vào mắt. Gian phòng của hắn quay về hướng đông, mặt trời mọc lên ở phương đông, tia sáng đầu tiên của ánh mặt trời lúc nào cũng chiếu vào đây. Địch Thanh đã quen với ánh mặt trời nhưng lần này lại cảm thấy ánh mặt trời khác thường, hắn mở choàng hai mắt thì đột nhiên nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ đến khó tin, kinh ngạc đến nỗi thiếu chút nữa bật kêu to.

Hóa ra trước mắt hắn xuất hiện một dải lụa màu đỏ, bằng phẳng trải rộng ra, trên dải lụa đầy những chấm li ti kì quái, trong lúc nhất thời khó mà phân biệt được.

Địch Thanh phút chốc run sợ, bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi, hét to một tiếng. Tiếng hét của hắn vừa phát ra thì dải lụa đỏ đột nhiên biến mất, trong phòng liền yên tĩnh trở lại. Chỉ thấy một luồng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chiếu vào trên giường, Địch Thanh lúc này mới phát hiện toàn thân mình mồ hôi đầm đìa, đồng thời mí mắt hắn giật giật liên tục.

Cửa phòng mở ra. Quách Quỳ chạy ùa vào hỏi:

- Địch nhị ca, sao vậy?

Địch Thanh bất thình lình nhảy dựng lên tóm lấy Quách Quỳ hỏi:

- Tiểu Quỳ, đệ mới vừa rồi... có thấy dải lụa đỏ không?

- Lụa đỏ, lụa đỏ nào cơ?

Quách Quỳ chẳng hiểu gì, đưa tay sờ soạng trên trán Địch Thanh:

- Huynh sao mà ra nhiều mồ hôi vậy, bị bệnh à? Mí mắt huynh sao mà giật giật liên tục thế?

Địch Thanh lau mồ hồi trên mặt, cảm thấy mí mắt cuối cùng cũng đã ngừng giật, gấp gáp nói:

- Mới vừa rồi nếu đệ ở bên ngoài, hẳn là phải thấy ở trong phòng này có một dải lụa màu đỏ, từ mặt tường này kéo dài tới mặt tường kia.

Hắn đưa tay phụ họa, thấy Quách Quỳ kỳ quái nhìn mình thì mất hứng bỏ tay xuống, lẩm bẩm:

- Đệ không có nhìn thấy sao?

Quách Quỳ khó hiểu nói:

- Đệ vốn muốn tìm huynh, đứng ngoài cửa sổ nhìn thấy huynh đang ngủ say. Đệ đang do dự có nên chờ một lát hay không thì chợt nghe huynh thét to một tiếng, đệ lập tức chạy vào đây, đâu có thấy lụa đỏ gì đâu?

Trong lòng cậu bé thầm nghĩ Có phải Địch nhị ca vì lo lắng quá độ, buồn bực sinh ra bệnh rồi hay không?

Địch Thanh nhìn chằm chằm Quách Quỳ, thấy thái độ của cậu thành thật, cũng không cần phải bịa chuyện với mình làm gì, lẩm bẩm:

- Chẳng lẽ đây chỉ là một giấc mơ sao?

Thấy Quách Quỳ lo lắng nhìn mình, Địch Thanh miễn cưỡng cười nói:

- Đệ tìm huynh có chuyện gì?

- Đúng ra là Diệp bộ đầu tìm huynh... Nhưng mà y đi rồi.

Quách Quỳ nói:

- Địch nhị ca, tối hôm qua có phải huynh đến Đại Tướng Quốc Tự không?

Địch Thanh cũng không giấu diếm, đem chuyện hôm qua kể lại một lượt nhưng lại lược bỏ bớt đi chuyện nữ tử áo trắng và quả cầu đen. Hắn không muốn đề cập đến chuyện cô gái ấy cho Quách Quỳ nghe, đồng thời cũng thấy quả cầu đen có chút quái dị. Vừa nghĩ đến quả cầu đen, hắn không nhịn được nhìn về phía cái bàn, thấy vật kia vẫn bình thản nằm ở cạnh bàn, ánh sáng mặt trời lên, vẫn là một màu đen tuyền.

Quách Quỳ chú ý tới quả cầu đen kia, thắc mắc:

- Đây là vật gì?

- Huynh nhặt được.

Địch Thanh thuận miệng đáp.

Quách Quỳ cầm ở trong tay xem xét, cười nói:

- Hình như là sắt, nếu như là vàng thì ngon rồi.

Cậu để lại quả cầu đen trên bàn, nói:

- Diệp bộ đầu bảo đệ nói với huynh là mấy ngày này không nên đi tới Đại Tướng Quốc Tự. Còn nữa, chuyện tối hôm qua thì cố gắng mà quên hết đi, nhớ kỹ nhé!

Chỉ sợ Địch Thanh có điều không vừa lòng, Quách Quỳ nói:

- Diệp bộ đầu cũng là muốn tốt cho huynh. Y nói không có nghi ngờ huynh gì hết, nhưng có nhiều chuyện không cần để ý tới quá, để tránh khỏi chuốc lấy phiền phức vào người.

Địch Thanh gật đầu nói:

- Huynh hiểu.

Quách Quỳ thầm nghĩ: "Huynh thì hiểu, nhưng đệ lại không hiểu gì hết."

*****

Quách Quỳ thầm nghĩ: "Huynh thì hiểu, nhưng đệ lại không hiểu gì hết."

Nhưng thấy vẻ mặt Địch Thanh hoảng hốt thì không hỏi nhiều, bèn xoay người rời đi. Địch Thanh nhớ tới hôm nay còn phải làm đương sai, đành sửa sang lại trang phục chuẩn bị ra ngoài. Chức quan Thập Tương này của hắn tuy là cơm ăn không phải lo, nhưng chuyện nên làm thì vẫn phải làm tốt. Cũng may Đại Tống đã hơn mười năm không có chiến tranh, kinh thành vẫn bình an vô sự, cái gọi là việc đương sai, chỉ cần làm qua loa cho xong.

Trước khi ra ngoài, Địch Thanh nhìn quả cầu đen trên bàn một lúc lâu, cuối cùng đem bỏ vào trong ngực, chẳng biết vì sao hắn nghĩ ảo cảnh sáng nay dường như có liên quan đến quả cầu đen này.

Vừa đến cấm quân doanh, Địch Thanh đã thấy có hai người xì xầm bàn tán. Một người mặt dài như mặt ngựa tên là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh, có bộ râu rậm rất uy mãnh nhưng con mắt lại chẳng lớn hơn so với hạt đậu tương được bao nhiêu, khiến cho cái uy mãnh của gã giảm đi nhiều.

Địch Thanh tiến lại gần hỏi:

- Đang bàn chuyện gì vậy?

Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đều xem như là bằng hữu của Địch Thanh, quan hệ trong Kiêu Võ quân doanh cũng không đến nỗi nào. Trương Ngọc là một Quân Đầu, cao hơn Địch Thanh một cấp, Lý Vũ Hanh lại là một Tương Ngu Hầu, lại nhỏ hơn Địch Thanh một cấp. Bất kể là Quân Đầu, Thập Tương hay Tương Ngu Hầu, đều thuộc quan quân cấp thấp, quản lý không bao nhiêu việc, bổng lộc mỗi tháng nhiều lắm cũng chỉ một hai lượng bạc mà thôi, cho nên mọi người thường ngày cũng chỉ hi hi ha ha, ít có phân biệt cấp bậc.

Lý Vũ Hanh thấy Địch Thanh đến, ra vẻ thần bí nói:

- Địch Thanh, ta kể cho ngươi một bí mật, nhưng mà ngươi chớ có nói cho người ngoài biết.

Trương Ngọc bên cạnh cười mắng:

- Con mẹ nó, hôm nay ngươi nói cái câu này cũng không dưới chục lần rồi, cái lỗ tai lão tử nghe được cũng phải mọc kén rồi. Ngươi gặp người nào cũng nói cho họ một bí mật, đến bây giờ cái bí mật đó người qua đường ai cũng đều biết hết rồi.

Lý Vũ Hanh sờ sờ râu mép, chớp mắt nói:

- Còn chưa có tới mười lần, mới có bảy lần.

Dứt lời gã cười ha hả nói:

- Địch Thanh, ngươi biết Đại Tướng Quốc Tự xảy ra chuyện gì không?

Tim Địch Thanh nảy lên, nhớ tới lời Diệp Tri Thu dặn dò nên lắc đầu nói:

- Không biết.

Lý Vũ Hanh miêu tả như thân mình ở trong đó:

- Nghe nói ngày hôm qua, lúc nửa đêm, bầu trời trên Thiên Vương điện mây đen bao phủ, che khuất trăng sáng, trên không trung đột nhiên đánh ra một tia sét, đánh thủng nóc Thiên Vương điện, sau đó đánh vào trên tượng phật Di Lặc. Không chỉ như thế... tượng phật Di Lặc còn bị đánh vỡ thành bốn năm mảnh, uy lực còn lại phá hủy luôn tượng Tăng Trưởng Thiên Vương kia. Việc này người khác vốn không biết, nhưng ta có một người quen làm tạp dịch ở trong Đại Tướng Quốc Tự, ngày hôm nay ở trong chùa thấy có người tu bổ đỉnh điện Thiên Vương, có thể thấy được tin đồn quá nửa là thật.

Địch Thanh thầm buồn cười nhưng không nói toạc ra, chỉ gật đầu nói:

- Đây quả đúng là một chuyện kỳ dị, cũng chỉ có người tài giỏi như ngươi mới có thể... biết.

Lý Vũ Hanh đắc ý huênh hoang:

- Ai nói không phải?

Còn định nói thêm cái gì thì Triệu Luật đi tới nói:

- Nhiều chuyện quá, không muốn làm việc nữa sao?

Ba người Địch Thanh đứng lên, hô to:

- Triệu Quân sử.

Triệu Luật chính là thuộc hạ của Quách Tuân, thường ngày Quách Tuân vắng mặt thì Triệu Luật phụ trách điều động nhân lực của Kiêu Vũ quân.

Triệu Luật sầm mặt nói:

- Đừng có huyên thuyên nữa, cẩn thận họa từ cái miệng mà ra. Trương Ngọc, Địch Thanh, Lý Vũ Hanh, hôm nay ba người các ngươi đi tuần tra Tây Hoa môn đến đường cái lân cận Tây Giác lâu, chú ý những người lạ, không được chậm trễ.

Ba người tuân lệnh, biết rõ mỗi lần sau khi kinh thành xảy ra điều khác thường, đều phải theo thường lệ tăng cường nhân thủ theo dõi tình hình. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự xuất hiện sự việc khác thường, chỉ sợ đại nội kinh thành, trong thành, ngoài thành sớm đã đông nghịt cấm quân.

Triệu Luật thấy Địch Thanh đi ra ngoài, đột nhiên gọi hắn lại nói:

- Địch Thanh, ngươi chờ một chút.

Thấy Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đi xa rồi, Triệu Luật lúc này mới nói:

- Lần này tuần tra là làm việc theo thông lệ mà thôi, xảy ra chuyện thì chỉ cần báo hiệu là được rồi, không cần phải ra tay.

Y cũng không nói nhiều, xoay người rời đi. Địch Thanh cười khổ trong lòng, thầm nghĩ điều này hơn phân nửa là lời quan tâm của Quách đại ca. Bản thân mình mặc dù muốn thể hiện, nhưng ở trong mắt người khác thì mình cũng chẳng khác gì phế vật.

Ra khỏi cấm quân doanh, Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đợi sẵn, cùng hỏi:

- Địch Thanh, Triệu Quân Sử dặn dò gì thế?

Địch Thanh thản nhiên nói:

- Hắn kể ngày hôm qua có một người ăn nói bậy bạ huyên thuyên bị Thiên Lôi ân cần thăm hỏi, mong rằng chúng ta nói năng cẩn thận.

Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh cười ha hả, biết rõ Địch Thanh nói giỡn, ôm lấy bả vai Địch Thanh, cùng nhau đi về phía đại nội Tây Hoa môn. Tuy rằng Địch Thanh võ công không tốt, không có cách nào dùng lực được, nhưng tính cách ngay thẳng phóng khoáng, làm việc trượng nghĩa, nên hai người cũng không coi thường hắn.

Ba người theo đường cái đi tới Tây Giác lâu, chỉ thấy dọc đường sầm uất, bọn họ phụ trách an toàn đoạn đường này cả một thời gian dài, người bán hàng rong hai bên đường đã sớm quen thuộc. Ven đường có một phụ nữ nhiệt tình bắt chuyện:

- Ba vị quan nhân, có một mẻ bánh bao mới ra lò, có muốn tới thử vài cái không?

Dân chúng kinh thành đều gọi người đương sai và nha dịch đều là quan nhân, phụ nữ này họ Vương, bày quầy bán bánh trên phố đã lâu, bánh bao bán ở con đường này rất có danh tiếng.

Địch Thanh đưa tới mười hai văn tiền, cầm lấy sáu cái bánh bao, cười nói:

- Vương đại tẩu, gần đây ở đây có người nào khả nghi không?

- Có đó.

Vương đại tẩu nhận lấy tiền, cười nói:

- Ngài rất khả nghi đó, lớn như vậy rồi mà ngay cả một người vợ cũng không có, có muốn đại tẩu giới thiệu cho ngài một người khuê nữ không?

Người dân bày quầy hàng xung quanh đều cười thiện chí. Địch Thanh có chút xấu hổ, cười nói:

- Đại tẩu đừng nói đùa mà.

Nói xong, hắn lôi kéo hai người Trương Ngọc nhanh như chớp chạy về phía bắc, Trương Ngọc bên cạnh nói:

- Địch Thanh, ngươi không phải là kẻ trộm, chạy làm gì? Nhắc tới mới thấy cuộc đời thực sự không công bằng, chức quan ta cao hơn ngươi, đẹp trai hơn ngươi, với lại còn thông minh hơn ngươi, vì sao người ta bao giờ cũng giới thiệu khuê nữ cho ngươi mà không giới thiệu cho ta?

Lý Vũ Hanh nói:

- Nhà Vương đại tẩu có con ngựa cái chưa gả đi, ngươi suy nghĩ thử xem?

Gã nhắm gương mặt Trương Ngọc mà nói.

Trương Ngọc đá quá một cái, cười mắng:

- Đồ chết tiệt, ngươi lo cho bản thân mình đi. Ta nghe nói gần đây có sư tử Thổ Phiên tìm chồng, rất xứng với ngươi, bây giờ qua đó cầu hôn vẫn còn kịp đó.

Hai người cùng phá lên cười nắc nẻ.

Địch Thanh cụt hứng nói:

- Làm việc đi.

Không biết vì sao hắn lại nghĩ đến cô gái áo trắng ôn hòa nhã nhặn kia, khó tránh khỏi cảm thấy rầu rĩ.

Ba người đi tới gần Tây Hoa môn, tìm đại một bậc thang ngồi xuống, nhìn chằm chằm Tây Hoa môn đến ngẩn ngơ.

Qua khỏi Tây Hoa môn chính là hoàng cung đại nội, là nơi trọng thần triều đình làm việc và cũng là chỗ ở của hoàng đế, hoàng hậu. Loại người như bọn họ, mặc dù ở kinh thành đã nhiều năm, nhưng ngay cả mặt mũi hoàng đế cũng chưa từng thấy qua lần nào.

Lý Vũ Hanh nói:

- Địch Thanh, ta nói cho ngươi một bí mật, nhưng ngươi đừng nói cho người khác.

Địch Thanh uể oải nói:

- Có phải là Đông Hoa môn sinh ra nhiều Trạng Nguyên, Tây Hoa môn sinh ra nhiều mỹ nữ hay không?

Lý Vũ Hanh làm ra vẻ rất ngạc nhiên nói:

- Hóa ra ngươi sớm đã biết rồi.

Địch Thanh lầm bầm:

- Ngươi nói liên tục mấy năm nay, cho dù là người điếc, hơn phân nửa cũng đều biết hết rồi.

Mỗi lần mở khoa cử, xong lượt thi Đình thì tên của ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều được xướng lên từ phía Đông Hoa môn, nổi danh thiên hạ. Đông chủ dương, Tây chủ âm, tương tự thì Tây Hoa môn lại là nơi hoàng cung nội quyến thường lui tới. Nếu như phi tần có địa vị qua đời, quan tài chắc chắn là từ Tây Hoa môn mà ra, phương hiển tôn quý. Hai cổng Đông Hoa, Tây Hoa, bọn người Địch Thanh thì cả đời cũng khó mà được đi vào. Mỗi lần khi Lý Vũ Hanh đến nơi đây làm đương sai đều không nhịn được mà đem cái bí mật kia nói ra một lần.

Lúc này, có một cỗ xe ngựa từ cuối đường chạy nhanh về phía Tây Hoa môn, xe ngựa này mành che làm từ châu ngọc, dây cương khảm ngọc, yên ngựa chạm trổ hoa văn, quả thực là lộng lẫy khác thường. Trương Ngọc đột nhiên thấp giọng nói:

- Thực ra Tây Hoa môn không chỉ xuất ra mỹ nữ, mà còn xuất ra một thứ đồ.

Lý Vũ Hanh khó hiểu nói:

- Là thứ đồ gì?

Trương Ngọc trào phúng nói:

- Còn xuất ra thái giám chết bầm.

*****

Lý Vũ Hanh bật cười, nhỏ giọng nói:

- Thái giám cũng không phải là thứ gì.

Địch Thanh bên cạnh nói:

- Các ngươi không sợ bị người khác nghe thấy sao? Tên thái giám này nếu như biết được các ngươi bàn tán, nói cho thái hậu nghe, truy ra gốc rễ, nói không chừng các ngươi bị tịch biên gia sản, chém đầu cả nhà đấy.

Trương Ngọc lạnh lùng nói:

- Ta cái gì cũng sợ, chỉ không sợ bị tịch biên gia sản chém đầu cả nhà thôi. Cả nhà ta cũng chỉ có một người, cả nhà tịch thu tài sản cũng chỉ một cái đầu. Tên thái giám chết bầm này, mỗi lần nhìn thấy xe của hắn là ta đều muốn chửi một trận.

Lý Vũ Hanh than thở:

- Nhưng tên thái giám chết bầm này chẳng những không bị ngươi chửi chết mà hiện giờ còn trở thành người thân tín bậc nhất bên cạnh thái hậu. Hô mưa gọi gió, sống vô cùng tốt. Đáng tiếc... đường đường là Xu Mật sứ (1) Tào Lợi Dụng cũng đấu không lại tên thái giám này, lại bị hắn lập mưu hãm hại đến chết.

Hóa ra người ngồi bên trong xe ngựa xa hoa kia chính là đệ nhất thái giám trong cung La Sùng Huân.

Đại Tống tuy có tổ tông gia pháp, thái giám bên ngoại không được chuyên chính nhưng bây giờ hoàng đế vẫn không đích thân xử lý quốc sự một mình mà muốn thái hậu giúp đỡ. La Sùng Huân này mặc dù không có năng lực gì nhưng rất được thái hậu tán thưởng, ỷ vào uy nghiêm của thái hậu nên rất có quyền thế. Làm thái giám thì không có dục vọng gì khác ngoài trừ tiền hay quyền lực. Nhiều thái giám trong cung sẽ tranh thủ kiếm cho người thân của mình một chức quan, nhưng Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng tính tình cương trực ghét dua nịnh, nhiều lần cự tuyệt thỉnh cầu trong cung, mới khiến cho La Sùng Huân ghi hận trong lòng. Cuối cùng đến một ngày, y vin được cớ cháu trai Tào Lợi Dụng phạm sai lầm, bẩm lên thái hậu, thái hậu thấy thế giận dữ, trừng phạt nghiêm khắc Tào Lợi Dụng. Đường đường là Xu Mật sứ, người trong nhị phủ, mà lại bị cách chức đuổi ra khỏi kinh thành.

La Sùng Huân vẫn không chịu buông tha Tào Lợi Dụng, lại tìm người bịa đặt tội danh cho Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng còn đang trên đường cách chức thì lại bị đày tới Phòng Châu, người phụ trách áp giải Tào Lợi Dụng trước đây chính là thái giám Dương Hoài Mẫn, mà ai cũng đều biết rằng Dương Hoài Mẫn và La Sùng Huân vốn là cá mè một lứa. Tào Lợi Dụng bị hoạn quan này hãm hại, cuối cùng chết thảm trên đường vào đầu xuân.

Hòa ước Thiền Uyên năm đó, duy trì mấy chục năm bình an cho Đại Tống, mà người không màng đến sinh tử khi đó, không chút do dự đi sứ Khiết Đan chính là Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng thân ở hang hùm, nhưng lẫm liệt không sợ hãi, tấc đất cũng không nhường, tuy rằng cuối cùng vẫn phải dâng vàng cầu hòa nhưng ở trong mắt người dân kinh thành, người này quả thật là đại công thần, bởi vậy người trong kinh thành cực kỳ căm ghét La Sùng Huân và Dương Hoài Mẫn, Trương Ngọc cũng không ngoại lệ.

Lý Vũ Hanh bùi ngùi nói:

- Đáng tiếc là thái hậu không phân biệt được đúng sai, trước đây không triệu hồi Khấu lão về chủ trì triều chính, đến bây giờ lại để hoạn quan hãm hại trung thần, triều cương không vượng rồi.

Khấu lão mà Lý Vũ Hanh nói chính là Khấu Chuẩn, người này ngay thẳng nổi tiếng thiên hạ, nhưng mà sau khi Lưu thái hậu nắm quyền thì trước sau không cần Khấu Chuẩn. Khấu Chuẩn đã qua đời mấy năm làm cho người trong thiên hạ phải thở dài than thở.

Trương Ngọc cười lạnh nói:

- Ngươi cho là thái hậu thực sự hồ đồ sao? Vậy thì ngươi sai hoàn toàn rồi!

Lý Vũ Hanh ngẩn ra, hỏi:

- Bà ta trọng dụng hoạn quan, bức tử trọng thần, không thèm dùng đến người trung thành và tận tâm như Khấu lão, chẳng lẽ không phải mắt mù tai điếc sao?

Địch Thanh thấy hai người càng nói càng không kiêng nể gì cả, vội vàng nói lảng đi:

- Ăn bánh bao đi, ăn bánh bao đi, ồ, có hai người kia hình như rất lạ mặt?

Hắn vì muốn chuyển chú ý của hai người Trương Ngọc nên đưa tay chỉ về phía trước, chẳng ngờ quả nhiên có hai người cử chỉ hơi khác lạ. Người thường nhìn thấy xe ngựa của La Sùng Huân đi ngang qua thì hơn phân nửa sẽ lùi về bên đường, nhưng hai người này không chỉ lùi đến ven đường mà còn quay mặt đi nhìn vào vách tường.

Chờ sau khi La Sùng Huân đi qua, hai người này thỉnh thoảng lại lén lút nhìn xung quanh cỗ xe kia.

Trương Ngọc bỗng nhiên đứng lên nói:

- Đúng là khả nghi, đi tới hỏi xem.

Gã không có để ý hai người kia từ đại nội đi ra, hay là muốn đi vào đại nội, nhưng mà có chức trách trong người thì vẫn phải tra hỏi.

Ba người đi về phía hai người đó, thấy trong đó có một người vóc dáng trung bình, tuổi tác chưa cao, trên mặt hình như có dính tro bụi nhưng đôi tay cực kỳ trắng trẻo mềm mại. Người còn lại có khuôn mặt béo trắng, lông mày đậm, không có ria mép. Thấy ba cấm quân đi tới, sắc mặt người mập mặt trắng khẽ biến, vừa muốn nói cái gì nhưng lại bị người thanh niên chặn lại. Người thanh niên muốn đi qua bên cạnh, Trương Ngọc ngăn ở trước hai người, hét lớn:

- Lấm la lấm lét làm cái gì đó? Tên họ, quê quán, ở đâu? Thân thích là người phương nào? Mau thành thật khai báo!

- Lớn mật. Người mập trắng quát to, giọng nói chói tai phẫn nộ.

Người thanh niên vội vàng nói với người mập trắng:

- Đừng để lộ ra. Thật kỳ cục.

Y nói rất kỳ quái làm cho bọn người Trương Ngọc như rơi vào trong mây mù. Trong lòng Địch Thanh hơi giật mình, thầm nghĩ giọng nói người này làm sao mà nghe quen quen thế.

Trương Ngọc nói:

- Còn không lên tiếng? Các ngươi làm kẻ trộm ư, sao mà cẩn thận như vậy? Mau mau khai ra họ tên.

Trong mắt người thanh niên hiện lên vẻ cổ quái, nói:

- Ta muốn đi Đại Tướng Quốc Tự cầu phật, các ngươi đừng có nhiều chuyện.

Trương Ngọc vừa bực mình vừa nực cười, nói:

- Ngươi cầu phật giỏi lắm? Con mẹ nó, ta hỏi ngươi tên họ, ngươi nói cái con khỉ gì vậy?

Người thanh niên nghe lời tục tĩu thốt ra từ miệng Trương Ngọc, con mắt trừng lên, đầy phẫn nộ uy nghiêm.

Địch Thanh nghe được hai chữ cầu phật, trong lòng khẽ động, nhớ tới tối hôm qua ở Đại Tướng Quốc Tự hình như có nghe qua giọng nói này. Đây chẳng phải là người đã cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật sao? Cúi nhìn xuống phía dưới, thấy dưới chân hắn ta có mang một đôi giày, mặc dù đã thay đổi kiểu dáng, nhưng chắc chắn là do Ngũ Hồ Xuân may. Đinh ninh ý nghĩ trong đầu, hắn liền lôi Trương Ngọc sang một bên nói:

-Hai người này không có gì khả nghi đâu, thả cho bọn họ đi đi.

Địch Thanh thầm nghĩ: Người có thể cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật thì không phải là kẻ xấu, nếu như là người cao quý thì không cần phải... mạo phạm.

Trương Ngọc thấy Địch Thanh nháy mắt với mình, ho khan một tiếng nói:

- Vậy các ngươi đi đi. Gần đây Đại Tướng Quốc Tự tạm thời không tiếp khách lạ, các ngươi cũng không nên đi tới đó.

Người thanh niên mỉm cười nói:

- Cám ơn đã nhắc nhở.

Y nhìn Địch Thanh một cái, gật đầu rồi bước nhanh đi. Người trung niên mập mạp kia vội vàng đi theo sát, cái mông lắc qua lắc lại giống như một con vịt.

Trương Ngọc chờ hai người kia đi rồi mới hỏi Địch Thanh:

- Ngươi biết bọn họ sao?

Địch Thanh lắc đầu nói:

- Mặc dù không nhận ra bọn họ nhưng dù sao ngươi cũng làm cấm quân đã nhiều năm, nhìn đôi giầy kia cũng phải bằng bổng lộc một năm của ngươi. Người này không phú thì cũng quý, ngươi làm ầm ĩ với hắn thì được gì chứ?

Trương Ngọc cười hắc hắc:

- Chính vì ta thấy hắn phú quý cho nên mới mượn cớ chặn hắn lại. Đương sai chúng ta làm hết phận sự, có gì sai đâu?

Địch Thanh lắc đầu, ngồi xổm xuống gặm cái bánh bao đã nguội, không nhịn được liếc mắt nhìn về hướng người thanh niên rời đi, lại nghĩ tới sự việc đêm qua, nhớ tới Đa Văn Thiên Vương nên lại nghĩ tới Ngũ Long, không kìm lòng nổi mà sờ soạng trước ngực, quả cầu đen cứng rắn kia vẫn còn ở đây.

Một ngày vô sự, Địch Thanh báo cáo kết quả công tác xong xuôi, dùng bữa cơm tối xong, trực tiếp trở lại phòng mình, móc quả cầu đen đó ra, lật qua lật lại mà kiểm tra hết nửa ngày cũng không thu hoạch được gì. Cuối cùng, hắn nảy sinh ra ý định ác độc là lấy cái búa sắt đập thử xem, nhưng chỉ nghe được quả cầu đen truyền ngược lại âm thanh không có ý nghĩa, đành thờ dài để hắc cầu lại trên bàn, nhìn chằm chằm đến nửa đêm.

Quả cầu đen vẫn là quả cầu đen, không biến thành lụa đỏ mà cũng không biến thành trứng vàng.

Địch Thanh nhìn chòng chọc đến nỗi hai con ngươi cay cay, thầm nghĩ chẳng lẽ sáng nay thực sự là nằm mơ tỉnh giấc? Đã đến đêm khuya, Địch Thanh hết sức mệt mỏi bèn dựa vào vách tường nặng nề thiếp đi, nhưng mà vẫn không dám ngủ, trở mình mà tỉnh lại mấy lần.

Mỗi lần Địch Thanh tỉnh lại đều liếc mắt nhìn về phía quả cầu đen, thấy nó vẫn thâm trầm trong bóng đêm, yên tĩnh không kể xiết. Có một lần tỉnh lại, đột nhiên hắn bật cười, thầm nghĩ mình thực sự cho rằng nó là vật sống hay sao? Chẳng qua nó chỉ là là ảo giác, mình lại tưởng là thật mà thôi. Vừa nghĩ tới đây, Địch Thanh thả lỏng tâm tư, ngủ thiếp đi lần nữa, hắn ngủ thẳng đến khi gà trống gáy ba tiếng, mặt trời đỏ đã mọc lên ở hướng đông.

Bên tai nghe thấy tiếng gáy, Địch Thanh thầm nghĩ, thì ra trời đã sáng. Hắn còn chưa kịp mở mắt thì thân hình đột nhiên rung lên, bởi vì dù cho không mở mắt thì trước mắt hắn cũng là từng luồng sáng màu đỏ không bình thường.

Tình cảnh này cũng giống như tối hôm qua vậy!

Địch Thanh kìm nén sự chấn động trong lòng, chậm rãi mở hai mắt ra, khoảnh khắc lập tức kinh hãi khó nói nên lời. Ánh sáng mặt trời từ màn cửa sổ bằng lụa mỏng bắn đến, màu vàng rực rỡ lóa mắt, nhưng càng lóa mắt hơn lại là một dải lụa đỏ trước mắt. Dải lụa đỏ này cực kỳ lộng lẫy, màu sắc rực rỡ tươi đẹp, từ bên trái tường kéo dài tới tận bên phải tường, phấp phới chuyển động. Mà dải lụa đỏ này lại lấy quả cầu đen làm gốc. Loại hiện tượng cực kỳ quái dị này, giống như là quả cầu đen nhả tơ bó thành dải lụa rộng lớn.

(1) Xu Mật sứ: quan hàm Trung Quốc cổ đại, chức cao quyền trọng, nhã xưng là Thái úy, thống soái quân đội cả nước, trưởng quan của Xu Mật Viện. Xu Mật Viện cùng Trung Thư Tỉnh tịnh xưng là "Lưỡng phủ".

Crypto.com Exchange

Hồi (1-119)


<