Vay nóng Tinvay

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 29

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 29: Anh Hùng Và Giai Nhân
4.33
(3 lượt)


Hồi (1-61)

Siêu sale Shopee

Trung vũ đại vương tiếp:

– Người thứ ba trong Thiên trường ngũ ưng là Cao Mang. Xuất thân là một tiểu sa di, chăn trâu cho chùa. Được xung vào đội Ngưu binh, quân hàm Lượng trưởng chỉ huy 20 Ngưu binh. Sau trận Bình lệ nguyên thăng lên Đô trưởng. Dự trận Phù lỗ thăng lên Vệ úy. Lập đại công trận Đông bộ đầu thăng lên Đô thống. Phó thống lĩnh Ngưu binh tước Nam. Thay Dã Tượng thống lĩnh Ngưu binh dự trận Chiêu dương, Văn sơn, Khâu Bắc được thăng Chiêu võ thượng tướng quân, Chiêu dương Tử. Được cử sang Hồi cương, giúp Thái tử hồi khởi binh chống Mông cổ. Hiện Hồi cương đã chiếm lại được nửa lãnh thổ. Gặp tiểu thư Kha Li Đa, ái nữ của đạo sư Sa Đat Hat San. Trai tài, gái sắc gặp nhau, cảm nhau là sự thường. Đạo sư Hát San bằng lòng gả Kha Li Đa cho Cao Mang. Về phần Cao Mang, tuy đã vào chốn Không môn, nhưng tu có hằng vạn phép khác nhau. Tu dăm ba bữa, tu mấy tháng, tu mấy năm cho tâm trong sáng, rồi trở về tục là lẽ thường. Hôm nay già này đứng ra làm lễ thành hôn cho hai trẻ Cao Mang, Kha Li Đa.

Cao Mang, cùng Kha Li Đa được 10 thiếu nữ theo đạo Hồi phò từ cửa vào đại điện hành lễ, rồi ngồi trên ghế cạnh Yết Kiêu, Chân Phương.

Thái sư Thủ Độ tiếp:

– Người đứng thứ tư trong Thiên trường Ngũ ưng là Đại Hành. Đại Hành là một hiếu tử hiếm có. Được phát lộc Phật, tuy đói, nhưng nhịn ăn mang về cho mẹ, trên đường về nhà ngất xỉu vì đói. Được già này tuyển làm gia tướng. Dần dần nhờ tài trị mã, có chiến công được thăng lên hàm Đô thống, thống lĩnh đội kỵ mã Long biên. Tước Côi sơn Nam. Dự trận diệt thổ phỉ Thân Long Vân. Theo sứ đoàn hộ tống Tô lịch thất liên sang Hoa lâm, lập được nhiều công, thăng lên Trấn viễn thượng tướng quân, tước Côi sơn Tử. Hiện được Mông cổ tuyển dụng phong hàm Phi mã đại tướng quân. Thống lĩnh cấm quân Yên kinh. Khi phải theo sứ đoàn sang Mông cổ, bịn rịn vì có mẹ già cô độc. May mắn thay có cô bé 13 tuổi, tên Võ Cẩm Nhãn, bán bánh tôm bên bờ Hồ Tây tình nguyện nuôi mẹ già cho. Suốt thời gian qua, mỗi tháng một lần, lão phu sai quan Trưởng sử thăm hỏi, thì mẹ của Cao Mang đều khen Cẩm Nhãn phụng dưỡng cơm, nước hiền thục như một dâu thảo. Nay Cẩm Nhãn đã 16 tuổi, hoa trổ sắc xinh đẹp, dịu dàng. Hưng Ninh vương là sư phụ của Cao Mang, khuyên Cao Mang cưới Cẩm Nhãn làm vợ. Già này đứng ra chủ hôn cho đôi trai gái trung hiếu vẹn toànï.

Nhạc cử bài Đại hỷ. Cao Mang, Cẩm Nhãn từ ngoài điện, năm cặp nam nữ đi hai bên dẫn vào. Mọi người đều dồn mắt nhìn Cẩm Nhãn. Đúng như Thái sư Thủ Độ nói: Cẩm Nhãn tuổi còn quá trẻ, hoa mới trổ sắc, nét mặt tươi hồng của cô gái quê. Lưng ong, chân dài, ngực nở.

Thúy Hồng nói sẽ vào tai Vương Chân Phương:

– Cẩm Nhãn đẹp thực, kém gì em.

Kha Li Đa khen nức nở:

– Da Cẩm Nhãn trắng mịn, mũi cao, mắt phượng. Không ngờ anh chàng Đại Hành lại có vợ đẹp như vậy.

Thái sư Thủ Độ tiếp:

– Bốn cặp trai gái hướng bàn thờ lễ Quốc tổ, Quốc mẫu, liệt tổ Đông a tám lậy.

Lễ tất.

Thủ Độ hô:

– Được rồi. Bây giờ hướng Thượng hoàng lạy bốn lạy, tạ ơn quang lâm tác thành. Được rồi.

Thượng hoàng ban chỉ:

– Các con hướng Trung vũ đại vương là trưởng tộc, hành lễ. Vợ chồng hướng vào nhau lậy 3 lậy, gọi là phu thê giao bái.

Thái sư Thủ Độ hài lòng:

– Bây giờ các con là vợ chồng rồi, vợ chồng đối với nhau trong là tình, ngoài khuyến khích, giúp đỡ nhau nhau trung với nước, hiếu với dân.

Tiếp theo, các vương hầu, tặng quà cho bốn cặp vợ chồng.

Từ đầu đến giờ, Thiệu Long hoàng đế ngồi im. Bây giờ nhà vua mới lên tiếng hỏi:

– Địa Lô đâu?

Tổng Thái giám Đại Lực đáp:

– Tâu, Văn Bắc thượng tướng quân vì có đại tang nên không thể đến dự tiệc cưới. (1)

Nguyên Địa Lô xuất thân là quan Trưởng sử phủ Thái tư Hoảng. Hai người ngang tuổi nhau, Địa Lô lại nhiều tài, nên giữa chúa tướng và thuộc hạ trở thành tương đắc. Ba năm trước, vì quốc sự, Thái tử phải cho Địa Lô lên đường theo sứ đoàn. Khi lên ngôi, nhà vua vẫn tưởng nhớ tới người thuộc hạ tài ba mà tính tình lại tinh, minh, mẫn, cán. Nay không thấy thuộc hạ cũ, nhà vua lên tiếng hỏi.

Nhà vua kinh ngạc:

– Song thân Địa Lô từ trần từ lâu rồi. Vậy đại tang ai? Sư phụ chăng?

Vương phi Ý Ninh giải thích:

– Nguyên Địa Lô có thề non, hẹn biển đính ước với Thần võ, Trung liệt, Trấn quốc, Linh anh công chúa Lý Như Lan. Công chúa Như Lan mới hoăng. Địa Lô coi Như Lan như vợ, nên đã làm lễ phát tang mấy hôm trước.

Nhà vua than:

– Địa Lô thực là người đa tài, đa năng, trời lại cho thân hình mười phần tươi đẹp, thì gặp gian truân trên tình trường cũng là sự thường. Trai không vợ như nhà không cột. Mong Thái sư tuyển cho Địa Lô một giai nhân khác.

Trung vũ đại vương Thủ Độ đã biết chi tiết mối tình của Địa Lô với Như Lan. Vương chợt nhớ: mối tình này hơi giống mối tình của vương với Linh Từ quốc mẫu. Hồi còn niên thiếu vương cùng người chị họ Trần Kim Dung, từng tư tình đính ước (xem Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông). S au Kim Dung bị ép gả cho thái tử Sảm, rồi thái tử trở thành vua Lý Huệ Tông. Dù bà Kim Dung đã có hai con với nhà vua, một là vua Lý Chiêu Hoàng, hai là Thuận Thiên công chúa, gả cho An sinh vương Liễu. Mặc dù ông là một đại quan, không thiếu gì những mỹ nhân xinh đẹp sẵn sàng dâng hiến, trong vương phủ lúc nào cũng có hằng chục cung nga, tỳ nữ xinh đẹp. Nhưng ông vẫn trung thành với Kim Dung. Khi vua Lý Huệ tông băng, ông với Kim Dung tái hồi. Vua Trần Thái tông thấy bà Kim Dung đã làm hoàng hậu rồi thái hậu, không thể để bà làm vương phi Trung vũ đại vương. Nhà vua mới ban chế tôn bà làm Linh Từ quốc mẫu. Suốt cuộc đời, Thủ Độ chỉ có mình bà Kim Dung, không nạp bất cứ thứ phi, thứ thiếp nào.

Vương lên đài nói:

– Địa Lô là đấng tài hoa nhất Đại Việt. Y lại là một thứ nòi tình hiếm có, nên không tới dự lễ cưới này. Thế nhưng hôm nay là ngày đầu tiên trình bày một điệu múa Trăm Hoa mà y không có mặt thực đáng tiếc.

Vương chỉ vào Chiêu Minh vương, Chiêu Văn vương:

– Hôm nay là ngày triều đình làm lễ cưới cho bốn đại tướng có nhiều huân công với tắc. Từ ngày bản triều tiếp nối chính thống, ngoài chống ngoại xâm, trong lập nền nội trị, an dân, khuếch trương học phong, khuyến khích nghệ thuật. Đặc biệt hai vương Chiêu Minh, Chiêu Văn đã sáng tạo ra điệu múa Trăm Hoa. Nào! Xin mời nhị vương.

Chiêu Minh vương Quang Khải, Chiêu Văn vương Nhật Duật bước lên đài. Chiêu Minh vương hướng Thượng hoàng, Tuyên thái phi Mai Đông Hoa hành lễ:

– Tâu phụ hoàng, tâu Thái phi! Từ khi Thái phi nhập cung, ngọn lửa văn học, ca nhạc bùng lên toàn quốc. Thực đúng là:

Bách hoa tề phóng,

Bách gia tranh minh.

(trăm hoa đua nở,

trăm nhà đua tiếng).

Từ kinh thành Thăng long cho tới các trấn, các lộ, các phủ, lập ra không biết bao nhiêu phường (ngày nay là trường), không biết bao nhiêu quán văn. Không ai dám coi thường, khinh khiến ca nhi nữa. Tuy vậy phải đợi 21 năm sau, trong một dịp đặc biệt, Vũ Uy vương, vương phi Ý Ninh gặp năm thiếu nữ của phường Đông hoa. Vương huynh sớm nhận ra ích lợi của âm nhạc trong việc bảo quốc, thu nhận năm thiếu nữ vào sứ đoàn. Vương tâu xin cho các ca nhi lĩnh hàm Vệ úy, cho cha mẹ được hưởng hàm, được cấp ruộng công điền. Tin này làm rúng động toàn quốc. Nhà nhà có con gái xinh đẹp đều cho đến các phường học ca, học múa. Những thiếu nữ tốt nghiệp các phường ra đều được yêu chuộng, được công tử con nhà danh gia cầu hôn. Rồi khi Vũ Uy vương dùng Tô lịch thất tiên, Đông hoa vào việc ngoại giao thành công, 12 giai nhân được phong tước quận chúa, công chúa thì luồng gió ca nhạc bùng lên như mây trời. Tuyên Minh thái hoàng thái hậu, Linh Từ quốc mẫu, Tuyên thái phi cùng đi khắp các phường trên toàn quốc, tuyển 50 thiếu nữ sắc nước hương trời, đem về dạy dỗ, rồi chia thành 5 đội, mỗi đội 10 người. Quốc mẫu đặt tên cho các đội là đội Kim, đội Ngọc, đội Ngân, đội Ngà, và đội Thúy. Quốc mẫu giữ đội Kim. Tuyên thái phi giữ đội Ngọc. Thần nhi giữ đội Ngân. Chiêu Văn vương giữ đội Ngà. Chiêu Quốc vương giữ đội Thúy.

Vương chỉ vào Chiêu Văn vương:

– Hằng ngày thần nhi với chú Chiêu Văn nghe đội Ngân, đội Ngà ca các điệu ca Trung nguyên, múa các điệu múa Trung nguyên. Mà các điệu này có từ đời Xuân thu chiến quốc như Ly tao của Khuất Nguyên, Dương xuân bạch tuyết của Tống ngọc, rồi những tác phẩm của Chiêu quân, và gần đây là của Dương quý phi. Đại Việt ta là nước văn hiến, có tiếng nói, phong hóa riêng biệt, gần đây có chữ Nôm. Anh em thần bàn nhau: tại sao ta cứ phải vay mượn của người? Vì vậy anh em đã kết hợp hết các điệu ca, điệu múa cũ của ta có từ thời Lĩnh Nam (vua Trưng), thời Đinh, thời Lê, thời Lý bao gồm các điệu Ru em, hát Lý, hát Nghêu, hát Quan họ, hát Xẩm, đĩ chí hát Chầu văn, hát Trống quân, hát Nói (Ca trù, hay Hát Ả Đào) rồi tạo ra những giai điệu mới.

Vương ngừng lại cho cử tọa theo kịp.

Nhân Huệ vương Trần Khành Dư hỏi:

– Suốt mấy năm qua, trong dân gian, đi đâu cũng nghe hát Xẩm. Thế hát Xẩm có từ bao giờ? Ai là người sáng tạo ra?

Chiêu Văn vương trả lời:

– Điệu hát Xẩm dường như có trước thời Lĩnh Nam. Bởi trong sử có ghi: hồi còn thơ ấu, Bắc bình vương Đào Kỳ cùng sư tỷ là Hoàng Thiều Hoa qua sông Hồng, thì Long biên công Nguyễn Tam Trinh giả làm người lái đò đã hát Xẩm cho hai vị nghe. Lại khi Bắc bình vương dạo chơi cố đô Cổ loa, khi qua sông, gặp Chu Thổ Quan cũng hát Xẩm cho nghe. Từ thời Lĩnh Nam đến giờ trải trên ngàn năm, thuật hát Xẩm đã biến đổi đi phong phú vô cùng. Hơn hai chục năm trước, Tuyên thái phi dùng điệu hát Xẩm mà được Thượng hoàng sủng ái. Rỗi gần đây, năm nàng Đông hoa dùng thuật hát Xẩm được Vũ Uy vương tuyển theo sứ đoàn mà rồng mây gặp hội. Vì vậy khắp dân gian đều học điệu hát này. Kết lại hát Xẩm không rõ ai là người sáng tạo ra, thời gian sáng tạo trước khi vua Trưng khởi binh. Nhưng gần đây nhờ Vũ Uy vương cùng Tô lịch thất liên, Đông hoa ngũ tuyệt đặt thành hệ thống, và làm cho quần chúng đều hưởng ứng (2).

Chiêu Minh vương tiếp:

– Điệu múa Trăm Hoa mà thần nhi với hai chú Chiêu Văn, Chiêu Quốc sáng tạo để ca tụng cảnh đất nước thái hòa, âu ca sau khi đuổi giặc Mông cổ. Điệu múa bao gồm chín màn.

– Màn thứ nhất mang tên Khai hội hay giáo đầu. Mục đích giới thiệu chủ đích của vũ điệu Trăm Hoa. Như hôm nay chủ đích mừng đám cưới của bốn anh hùng.

– Màn thứ nhì mang tên Phong điều, vũ thuận. Ca tụng đức của triều đình, cảm tới trời nên mưa thuận gió hòa.

– Màn thứ ba mang tên Bình minh trên đồng lúa chín. Ca tụng dân chúng chăm chỉ chồng cấy, trúng mùa liên tiếp mấy năm qua.

– Màn thứ tư mang tên: Đêm trăng đập lúa.

– Màn thứ năm mang tên Mục đồng hoan ca.

– Màn thứ sáu sẽ có tên tùy mục đích. Như giỗ tổ Hùng vương thì mang tên Tế quốc tổ. Như giỗ vua Trưng thì mang tên Lĩnh Nam. Còn hôm nay để mừng cho bốn cặp anh hùng, liệt nữ thành hôn. Mà bốn anh hùng là năm người kết bạn như Đào Viện kết nghĩa của Tam kiệt đời Tam quốc: Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi.

– Màn thứ bẩy mang tên Bốn mùa bình an. Có bốn bài khác nhau, tùy theo mùa lúc trình diễn. Như hôm nay là mùa Xuân thì trình diễn bài mùa Xuân vạn hoa nở.

– Màn thứ tám mang tên Tạ ơn tiên tổ. Màn này để tạ ơn Liệt tổ Đại Việt, phù hộ cho con cháu được hưởng cảnh thái bình.

– Màn thứ chín mang tên Hồi cung, là màn cuối, ca nhi, vũ công kính chào thính khán giả.

Nhân Huệ vương Khánh Dư góp lời:

– Thì ra thế. Trong suốt ba tháng qua, đến quán văn hay phường nào cũng nghe nói đang luyện cho ca nhi múa, hát điệu Trăm Hoa, nhưng họ nói chưa thể trình diễn. Hỏi tại sao vậy? Họ đáp chưa được phép.

Chiêu Văn vương đáp:

– Sau khi soạn ca khúc chế điệu múa, chúng tôi luyện cho 5 đội Kim, Ngọc, Ngà, Ngân, Thúy thành thạo rồi triệu hồi các phường trưởng, quán trưởng tới dạy cho họ. Lại dặn rằng: phải đợi khi nào chúng tôi cho trình diễn dâng Thượng hoàng rồi, thì họ mới được trình diễn cho dân chúng xem. Bây giờ tôi cho trình diễn tại đây, thì ngay chiều nay, các phường, các quán đồng loạt ra mắt dân chúng.

Nói dứt vương dơ tay vẫy. Lê Lựu là Nhạc quan phủ Chiêu Văn bước đến ngồi bên cái trống cái, hai tay cầm hai cái dùi sơn son thiếp vàng, múa tròn trước ngực rồi đánh ba tiếng. Đội nhạc hoàng cung hơn trăm nhạc công cùng tấu nhạc. Bốn bức màn trên sân khấu kéo lên cao, trên sân khấu, đội nhạc phủ Chiêu Văn đứng quay lưng vào nhau thành vòng tròn. Mười nàng mặc quần gấm mầu xanh lợt, áo mầu xanh sẫm, dây lưng hai lớp mầu đỏ, vàng. Khăn trên đầu cũng mầu xanh. Dầy mầu hồng lợt. Quần, áo, khăn, dầy đều thêu kim tuyến lóng lánh. Trên vai mỗi nàng đều có thanh gỗ. Hai đầu thanh gỗ là hai cái đèn hình hoa sen hồng.

Chiêu Văn vương hướng Thượng hoàng nói:

– Tâu Phụ hoàng đây là màn thứ nhất, khai hội, còn gọi là giáo đầu. Mười ca nhi trong đội Ngà đang đứng trên đài.

Lê Lựu cầm dùi đánh ba tiếng trống, các nàng Ngà cùng khom gối chắp tay vái khán giả rồi bước về trước ba bước, rồi lùi trở lại, cùng cất tiếng hát theo điệu hát Xẩm. Lời ca ngụ ý:

“Hôm nay là ngày lành, Thánh hoàng giá lâm, mừng cho anh hùng, giai nhân thành đôi giai ngẫu. Anh hùng từng xông pha vào muôn vàn mũi tên Mông cổ, quyết chiến đuổi giặc. Anh hùng xứng đáng được Xã tắc lao tưởng, được thành hôn với những giai nhân xinh đẹp như tiên. Chúc anh hùng, giai nhân trọn đời sắt cầm hòa hợp”. 

Lê Lựu đánh ba tiếng trống, mười ca nhi đội Thúy từ bốn góc đài cùng cất tiếng hát hòa với ca nhi đội Ngà. Ca nhi đội Thúy mặc quần gấm mầu tím nhạt, áo lụa, khăn, dầy mầu tím sẫm, dây lưng mầu vàng, trắng quấn lấy nhau. Đèn trên lưng hình hoa sen trắng. Lên tới giữa đài, đội Thúy từng người xen vào với đội Ngà. Họ cùng ca lại điệp khúc trên một lần nữa.

Chiêu Văn vương hướng Thượng hoàng:

– Tâu phụ hoàng hết màn thứ nhất. Bây giờ tới màn thứ nhì, sẽ do cả năm đội Kim, Ngọc, Ngân, Ngà, Thúy cùng trình bầy. (3)

Cứ như vậy, khán giả say mê theo dõi 9 màn, thời gian dài hơn 2 giờ trôi thực nhanh. Bởi vì: một là 50 ca nhi đều thuộc loại sắc nước hương trời. Hai là giọng ca thanh thoát, mượt mà, ngọt ngào. Ba là lời ca nói lên cảnh thanh bình, thịnh trị, nhất là ca tụng tình huynh đệ gắn bó của Thiên trường ngũ ưng trong đời sống bình nhật, trong việc xả thân giữ nước.

Nghe, xem hết chín màn, Thượng hoàng ban chỉ:

– Đây là tâm, là huyết của Khải nhi, Duật nhi. Dòng họ Đông A trị vì đất nước lấy dân làm gốc. Ngay chiều nay, các con hãy đem cả năm đội ra chợ Tây nhai trình diễn cho dân chúng xem. Ngày mai trình diễn ở Văn miếu, tiếp theo trình diễn ở cả năm cửa thành.

Tiệc bắt đầu.

Thiên Cảm hoàng hậu là chúa Hoàng thành, đứng chủ tiệc hôm nay. Hậu thân dẫn bốn cặp vợ chồng mới cưới đi khắp các bàn mời cử tọa. Khi tới bốn bàn dành cho phủ Hưng Ninh vương gồm vương, vương phi, hai thứ phi và các quận chúa, thế tử. Trong bốn bàn có một bàn cỗ chay dành cho vương. Thế nhưng hậu kinh ngạc khi thấy vương gắp cả thịt cá, cả món chay mà ăn. Hậu hỏi:

– Anh tu Thiền mà ăn thịt, ăn cá thì sao thành Phật được?

Mọi người lắng tai nghe xem vương trả lời sao.

Vương cười thản nhiên:

– Phật là Phật! Anh là anh; anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh! Hậu chẳng nghe cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù! Giải thoát là giải thoát đó sao?

Tiệc tàn, Hoàng hậu cho bốn cỗ xe song mã đưa bốn cặp vợ chồng về nhà riêng. Động phòng.

Dã Tượng dặn Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành:

– Sáng mai, các em hội tại chùa Chiêu thiền (còn gọi là chùa Láng), chúng ta cùng thăm Địa Lô.

Còn chư vương, hầu theo chỉ dụ của Thượng hoàng, thay y phục, tản ra khắp Thăng long xem các phường, các quán văn diễn ca điệu múa Trăm Hoa.

Sáng sớm hôm sau, Dã Tượng cùng Thúy Hồng đi trên chiếc xe tứ mã tới chùa Chiêu thiền cũng đúng lúc ba cặp Yết Kiêu Chân Phương; Cao Mang Kha Li Đa; Đại Hành Cẩm Nhãn tới nơi.

Kha Li Đa hỏi Thúy Hồng:

– Bọn em đều đi xe song mã, duy anh chị thì đi xe tứ mã. Chắc để chở gì đây?

Thúy Hồng trêu:

– Để chở mấy con lợn quay mang đến nhà Địa Lô cúng Như Lan, rồi mời Kha Li Đa xơi.

Kha Li Đa trêu lại Thúy Hồng:

– Người Cao ly nuôi chó như mình nuôi gà để ăn thịt. Lát nữa mình mua mấy con chó thui mang đi cúng Như Lan, làm rựa mận cho ni sư Thúy Hồng thưởng thức.

Nghe Thúy Hồng đem lợn ra trêu Kha Ki Đa, vì Kha Ki Đa theo đạo Hồi, kiêng thịt lợn. Ngược lại Kha Li Đa đem thịt chó trêu Thúy Hồng, vì Thúy Hồng là Phật tử thuần thành, kiêng ăn thịt chó; Dã Tượng vốn là người nghiêm nghị, Bá sợ rằng lát nữa tới nhà Địa Lô, vợ với em dâu đùa nhau sẽ làm Địa Lô đau lòng. Bá nói:

– Nhà Địa Lô ở bên Gia lâm. Nếu chúng ta đi một lúc bốn xe thì qua sông lâu lắm; do thế anh mới dùng xe tứ mã. Vậy các em gửi xe tại chùa, chúng ta cùng đi chung một xe.

Khi xe tới bến Bắc Ngạn, Thúy Hồng chỉ vào quán văn Thiên thư:

– Kia là quán văn Thiên thư. Chúng ta ai cũng có quyền vào. Duy ông chồng voi đồng quê của em thì không! Vì vào đó ruột voi sẽ đứt ra tùng khúc một vì tiếc nàng. Hỡi ơi! Nàng ở đâu rồi!

Kha Li Đa không biết truyện Thanh Nga tuyển phu tại quán này ba năm trước, rồi Dã Tượng trúng cách, nên ngạc nhiên:

– Chị ơi! Sao vậy?

Thúy Hồng cầm cây nhị kéo, rồi cất tiếng hát theo điệu Xẩm:

Xưa kia nói nói, thề thề!

Bây giờ bẻ khóa trao chìa cho ai?
Bây giờ nàng đã nghe ai,
Gặp anh ghé nón, chạm vai chẳng chào?
Bây giờ nàng ở phương nào,
Anh về chốn cũ, biết bao đau lòng.

Bị vợ trêu, Dã Tượng im lặng, trong tâm tưởng hiện ra những hình ảnh đầu tiên gặp Thanh Nga tại quá văn Thiên thư. Nay nàng ở đâu? Liệu có hạnh phúc không? Tuy đã có vợ, vợ là đấng tài hoa, sắc nước hương trời, nhưng trong tâm bá cũng đau nháy một cái. Cao Mang thấy Thúy Hồng trêu chồng, nhưng không biết đến tâm sự của chồng: vẫn còn thương nhớ Thanh Nga. Tử từng là tiểu sa di, nên hiểu rõ người anh cả. Tử chỉnh bà chị dâu:

– Thanh Nga đâu có bỏ anh Dã Tượng? Nhà Phật dạy chúng ta: tất cả đều vô thường. Mới hôm nào Công chúa Như Lan còn là một thiếu nữ tươi như hoa, bác học đa năng, võ công tuyệt đỉnh, mà bây giờ hồn ởû đâu? Xác ở đâu? Tất cả đều là vô thường. Cái thân chúng ta đều là thân xác vô thường cả. Rồi đây, chúng ta cũng trước sau đều phải về với cát bụi. Thanh Nga tuyển phu, anh Dã Tượng trúng cách, mà có bao giờ anh ấy chú ý đến cô nàng đâu? Cái hồi chị với anh Dã Tượng đóng vai vợ chồng sang Tống, thì nhân duyên chị là vợ anh ấy đã manh nha. Như ông Thủ Độ nói: đường xa diệu vợi, trai thì hùng vĩ, gái thì đẹp như hoa nở, dọc đường ắt đã thành hảo sự rồi. Nhưng sự thực đêm qua anh chị mới thành hảo sự. Bây giờ chị là vợ của anh ấy, thì nhắc truyện cũ làm gì? Ghen ư? Ích gì nữa mà ghen? Để yên cho Thanh Nga làm nhiệm vụ Tây Thi.

Lời nói của Cao Mang tuy giản dị, nhưng cũng kéo Dã Tượng ra khỏi cái u uất. Còn Thúy Hồng cảm thấy mình thực vô duyên, đã gây ra khẩu nghiệp, giữa ngày tân hôn nồng thắm. Trong lòng nàng sám hối.

Xe đi khoảng nửa giờ thì rẽ vào ngôi làng của Địa Lô. Vừa tới cổng làng, Cẩm Nhãn nói với hoàng nam gác cổng:

– Anh vào báo với Đại tư rằng có Tả thiên ngưu vệ đại tướng quân, Khâu Bắc bá muốn vào làng thăm Văn Bắc thượng tướng quân, Văn sơn tử.

Nghe báo danh, hoàng nam cúi rạp người xuống hành lễ, rồi cầm dùi đánh vào mõ ba tiếng. Khoảng nhai dập miếng trầu, Đại tư, Câu đương khăn áo chỉnh tề ra chào. Cẩm Nhãn chỉ từng người giới thiệu. Đại tư nói:

– Mấy hôm trước Văn Bắc thượng tướng quân trở về thăm quê. Cả xã chúng tôi cùng tới mừng. Khi đi thì tướng quân chỉ là Đô thống thôi. Sau ba năm lo quốc sự tướng quân được phong hàm Văn Bắc thượng tướng quân, Văn sơn tử, thực hân hạnh cho làng chúng tôi. Nhưng tướng quân lại vô cùng buồn rầu vì phu nhân qua đời. Tướng quân nhờ chúng tôi mời sư cụ làm chay cho phu nhân. Hiện sư cụ cùng các sư ông đang tụng kinh tại nhà của tướng quân.

Đại tư, Câu đương đi trước dẫn đường. Khu nhà của Địa Lô khá đồ sộ khang trang. Ngôi nhà chính mái lợp ngói đỏ, tường bằng đá xanh, có 5 gian. Trái bằng gạch, trong vườn trồng rất nhiều hoa. Phía sau còn hai căn nữa. Trước nhà dựng một cái rạp. Trong rạp có bàn thờ Phật, cạnh bàn thờ Phật là bàn thờ Như Lan, một tấm hình Như Lan vẽ trên lụa sống động như người sống.

Trong nhà rạp, khá đông người. Hầu hết là người trong xã, do Đại tư gọi đến giúp việc cho Địa Lô. Trước bàn thờ Phật, một vị sư cao niên ngồi bên cái mõ. Phía sau bốn nhà sư trẻ hơn. Tất cả đang tụng kinh. Cao Mang nhận ra các sư đang tụng kinh A Di Đà, giọng trầm, đều đều. Khi kinh A Di Đà hết thì chư tăng lại tụng kinh Bát Nhã rồi ngừng.

Địa Lô chạy ra đón khách:

– Em xin đa tạ bốn anh, bốn chị đã đến thăm em.

Thúy Hồng cầm cây nhị đến trước bàn thờ Như Lan kéo thành những âm thanh thê lương, rồi cất tiếng ca não nùng:

Cái tình là cái chi chi?

Thương nhau, thương cả đường đi lối về.
Chim khuyên đậu núi non kề,
Khóc thương, thương khóc gửi về cõi âm.
Đêm đêm anh ngắm sông Ngân,
Đau lòng xót ruột ướt khăn, lệ nhòa.
Nếu như khoảng cách không xa,
Hồn cho anh biết, anh về thắp hương.
Nàng nghe tiếng khóc tỏ tường,
Thì nàng trở lại lấy vàng mà tiêu.

Thúy Hồng kinh ngạc, vì khi nàng vừa kéo nhị, thì có một cô bé xinh xinh, tươi như hoa, đánh trống mảnh hòa theo. Tiếng hát của Thúy Hồng làm bao nhiêu người có mặt đều nhỏ lệ. Trời tối dần, chư tăng cũng như người trong làng cáo biệt ra về. Dã Tượng hô các em tiễn chư tăng. Trong nhà rạp chỉ còn lại một thiếu nữ, tuổi khoảng 13-14, tóc dài, óng mượt. Địa Lô giới thiệu:

– Đây là bé Ngọc Hồng. Người hàng xóm của em. Chính em là thầy khai tâm dậy cho bé hồi mười năm trước. Khi em đi vắng thì cha mẹ với Ngọc Hồng trông coi nhà cho em.

Chỉ thoáng nhìn Ngọc Hồng, với kinh nghiệm của người từng trải buôn bán trong giới bình dân, Cẩm Nhãn thấy dường như giữa cô bé với Địa Lô có một cái gì khác khác ngoài tình thầy trò. Nàng mở to mắt nhìn Ngọc Hồng từ đầu đến chân, rồi nghĩ thầm:

– Cái anh Địa Lô này thực vô tình như anh Đại Hành. Hồi hồi trước mình tuy mới 13 tuổi, nhưng đã yêu anh ấy, mà bây giờ sau ba năm, phải chờ Thái sư Thủ Độ nói toẹt ra, anh ấy mới biết tình yêu của mình. Cứ như đôi mắt của cô bé này, thì cô ấy cũng yêu Địa Lô, mà Địa Lô không biết. Mình phải can thiệp mới được.

Nàng hỏi Ngọc Hồng:

– Thầy Địa Lô nhiều tài quá. Không biết thầy dậy em những gì?

Ngọc Hồng mở đôi mắt đen như hạt nhãn long lanh nhìn Địa Lô:

– Thưa chị, thầy Lô dạy chữ cho em, thầy dạy em hát, dạy em đánh đàn.

– Em bắt đầu học thầy Lô lúc mấy tuổi?

– Dạ 6 tuổi. Đến năm em 10 tuổi thì thầy đi sứ, em lại học chữ với thầy Năng trong làng. Còn đàn hát thì em vẫn tự luyện.

– Ban nãy em đánh trtống mảnh hay quá. Em thử hát một bài cho chị nghe nào!

Ngọc Hồng chỉ Thúy Hồng:

– Em xin hát lại bài Công chúa Thúy Hồng đã hát, nhưng đổi lời đi một chút cho hợp truyện tình của thầy với cô Như Lan. Cứ như thầy Lô thuật, thì bọn Thị vệ Mông cổ trở về báo rằng chúng đã giết được cô. Em cho rằng chúng không giết được cô, mà cô đã chạy thoát. Nếu quả chúng giết được cô, chúng đã đem đầu cô về tấu trình. Em tin cô vẫn còn sống. Biết đâu cô chẳng về nước tìm thầy?

Nói rồi cô bé đến ngồi trước cây đàn bầu, mắt mơ màng nhìn lên bàn thờ, tay cô bật mấy cái, tiếng đàn buồn man mác kéo dài. Thúy Hồng cầm cây nhị kéo, hòa âm với tiếng đàn bầu. Cô bé cất tiếng hát:

Thương em, lệ nhỏ đôi hàng,

Công anh dan díu với nàng bấy lâu.
Bây giờ nàng lấy chồng đâu?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng.
Năm trăm anh hóa cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Xưa kia nói nói thề thề,
Bây giờ bẻ khóa trao chìa cho ai?
Bây giờ nàng đã nghe ai?
Gặp anh ghé nón chạm vai chẳng chào?

Mọi người đều kinh ngạc, vì giọng cô bé mượt mà, mấy âm phải lên cao, cô vượt ra dễ dàng. Thúy Hồng khen:

– Giọng em tốt thực. Em lại thông minh, từ bài hát của chị, em biến đổi đi đúng với truyện tình của ông thầy Lô.

– Đa tạ cô đã quá khen em. Em xin hát tiếp:

Khóc em, lệ nhỏ đôi hàng,

Công anh dan díu với nàng bấy lâu.
Bây giờ hồn ở nơi nao?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng.
Năm trăm anh hóa cho nàng,
Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
Chim khuyên đậu núi non kề,
Nàng mà còn sống, nàng về thì thôi!
Hay là khuất núi đi rồi,
Nàng cho anh biết, anh về thắp hương.
Nàng nghe tiếng khấn tỏ tường,
Thì nàng trở lại lấy vàng mà tiêu.

Mọi người mơ mơ màng màng theo tiếng hát não nuột của cô bé. Còn Địa Lô thì nước mắt đầm đìa. Bỗng Cẩm Nhãn chỉ lên bàn thờ Như Lan:

– Các anh, chị có thấy gì khác không?

–!?!?!?

– Con gà trống luộc trên cái đĩa đi đâu mất rồi? Bốn phẩm oản cũng không còn trong đĩa nữa.

Địa Lô kinh hoảng:

– Không lẽ cáo, hay mèo tha đi chăng?

Cô bé Ngọc Hồng xua tay:

– Thưa thầy! Nhà này không nuôi mèo. Hàng xóm cũng không nuôi mèo. Trong làng này làm gì có cáo?

Dã Tượng quan sát bàn thờ rồi lắc đầu:

– Nếu cáo hay mèo tha con gà này thì phải có vết chân trên bàn thờ chứ? Cáo chỉ có thể tha con gà, chứ đâu tha cả bốn phẩm oản. Nhất định là người rồi. Còn như người thì chúng ta 10 đứa tại đây phải thấy chứ?

Yết Kiêu chạy vòng quanh bàn thờ, hít hít, thở thở rồi lắc đầu kinh hoảng:

– Nếu người thì phải là một đại cao thủ, mới hành động mau như vậy! Người này là phụ nữ, vì thoang thoảng có hương thơm nước hoa Trung nguyên giống như Chân Phương. Dường như người này muốn trêu ghẹo Lô đệ đây. Chúng ta cứ chờ, họ sẽ xuất hiện. Hay là hồn ma Như Lan?

Cẩm Nhãn có hơi sợ, nép vào sau chồng:

– Đúng rồi, hồn chị Như Lan hiện về ăn gà, ăn oản!

Thường ngày Kha Li Đa hay trêu Địa Lô. Nhưng hôm nay thấy Địa Lô buồn quá, khóc sưng mắt thì cô gái Hồi lại an ủi:

– Người chết không sống lại được. Chị Như Lan chết đi, theo đạo Phật thì sau 49 ngày sẽ đầu thai. Anh Địa Lô cứ chờ 13 năm sau, chị Như Lan thành một thiếu nữ, lại tái hợp với anh. Bây giờ anh 23 tuổi, 13 năm sau anh mới 36 tuổi, chị Như Lan là cô gái 13 tuổi, đẹp đôi chán.

Ngọc Hồng xin lỗi:

– Xin quý khách ngồi chơi. Em xin xuống bếp làm cơm mời khách.

Trong bốn nàng dâu mới thì Cẩm Nhãn còn trẻ nhất, lại xuất thân từ người bán rong, nên nàng có đủ cái khôn khéo của giới bình dân. Muốn tò mò vào truyện Địa Lô với cô bé Ngọc Hồng, nàng cũng đứng dậy:

– Để chị giúp em một tay.

Xuống tới bếp, Cẩm Nhãn hỏi Ngọc Hồng:

– Chị hỏi thực em câu này nhé: em với thầy Lô ra sao?

– Em là học trò của thầy.

– Điều này chị biết. Nhưng… hình như giữa hai thầy trò có cái gì là lạ.

– Em không hiểu câu hỏi của chị.

– Khi xa thầy, em có nhớ không?

– Có chứ, nhớ lắm. Nhiều khi nhớ quá em khóc.

– Em có biết truyện thầy được thân vương A Lan Đáp Nhi gả Vương Chân Phương cho không?

– Em biết, nhưng sau đó chị Chân Phương bị nạn, anh Yết Kiêu cứu chị ấy. Rồi chị ấy thành vợ anh Yết Kiêu. Nghe truyện này em hú hồn, hú vía! Một tẹo nữa thì mất thầy Lô!

– Ví thử ngày mai Thái sư Thủ Độ gả một cô công chúa hay quận chúa cho thầy Lô thì em có vui không?

Mặt Ngọc Hồng tái xanh:

– Không có đâu!

– Tại sao không? Trừ khi thầy Lô có một cô nào thì ông Thủ Độ sẽ cho cưới cô đó. Chị nghĩ em nên là vợ thầy Lô thì tốt. Em có yêu thầy không?

Ngọc Hồng ngây người ra một lúc rồi cúi đầu xuống:

– Có! Em yêu thầy. Nhưng thầy không hề biết đến em.

– Tại sao em không nói với thầy?

– Em không dám nói! Ai lại nói ra, xấu hổ chết.

Cẩm Nhãn dọa:

– Em mà không nói, lỡ ngày mai Thái sư Thủ Độ cưới vợ cho thầy, thì hỏng bét.

– Nếu như vậy thì em sẽ nhảy xuống sông mà chết.

– Chết em không sợ, thì sao em sợ nói thực lòng mình với thầy?

– Khó quá!Hay chị nói giúp em đi.

– Liệu bố mẹ em có bằng lòng cho em làm vợ thầy Lô không?

– Mẹ em thường đi lễ ở đền thờ Phù Đổng Thiên vương, cầu xin ngài phù hộ cho em lấy được thầy.

– Ví thử cô Như Lan còn sống. Cô ấy về đây tìm thầy Lô thì em tính sao?

– Em biết cô ấy còn sống sẽ không bao giờ về tìm thầy Lô đâu. Cô ấy tước phong công chúa, lại là con của tước vương, đã có chồng rồi. Chồng do cha mẹ gả, thì dù chồng chết cũng phải thủ tiết cả đời. Đây chồng cô ấy là Thái tử vẫn còn sống thì đời nào cô ấy dám bỏ chồng để lấy thầy Lô. Ví dù cô ấy có về, thì đời nào thầy Lô là trai tân mà lại lấy gái nạ giòng?

– Em không thấy thầy Lô thương tiếc cô Như Lan sao?

– Em biết, thương thì cứ thương, tiếc thì cứ tiếc; nhưng lấy vợ thừa thì không! Thiên hạ chê cười. Aáy là không kể luật pháp sẽ trị tội cướp vợ người.

– Tại sao em đoán ra được rằng cô Như Lan chưa chết? Em lại biết thầy Lô lấy cô Lan là phạm luật?

– Khi thầy Lô về làng, bạn hữu cũ, họ hàng xúm vào thăm hỏi. Thầy thuật lại mọi việc. Bạn thầy thường đem truyện thầy ra bàn với bố mẹ em, em nghe được.

Hai người sửa soạn một lúc thì đã có bữa cơm thịnh soạn: tiết canh ngan (vịt Xiêm), cá trê chiên chấm nước mắm gừng, canh rau đay nấu cua đồng, cá bống mít kho.

Ngọc Hồng chỉ món cá trê chiên:

– Món này chị Cẩm Nhãn làm đấy. Em không biết làm đâu! Còn món thịt lợn quay cúng cô Như Lan thơm giòn lắm. Nhưng chị Cẩm Nhãn nói chị Kha Li Đa thờ đức A La thì không được ăn thịt lợn, nên em không dám dọn lên.

Cẩm Nhãn hỏi Địa Lô:

– Này anh! Em muốn anh trả lời cho em một câu thực tình. Anh có hứa không?

–!?!?!? Chị Cẩm Nhãn là vợ anh Đại Hành thì là chị dâu Lô! Chị muốn hỏi gì?

– Ví thử Như Lan chưa chết, mà chị ấy tìm về đây thì Lô có cưới làm vợ không? Tôi nghĩ lý luận của cô bé Ngọc Hồng đáng tin cậy. Không chừng Như Lan ẩn đâu đó, rồi tìm đường về Đại Việt mong tái hồi với anh thì anh quyết định thế nào?

Địa Lô im lặng suy nghĩ. Yết Kiêu xua tay, Tử nói lạnh như băng:

– Như Lan chết thì chúng ta để tang, cầu siêu, coi như vợ Lô đệ thì được. Nếu như nàng còn sống thì những gì sẽ xẩy ra? Nàng là con Kiến bình vương, là Thái tử phi. Thái tử vẫn còn đó. Như Lan vẫn là vợ ông ta. Kiến bình vương cũng như các con đang là đại thần Cao ly. Nếu nàng về Đại Việt thì triều đình Đại Việt phải đưa nàng sang Cao ly. Muôn ngàn lần Lô đệ không thể tái hồi với nàng. Nếu Lô đệ lấy nàng làm vợ theo luật Đại Việt sẽ bị chém ngang lưng. Còn như nàng không về Cao ly thì Kiến bình vương sẽ gặp rắc rối với triều đình bên đó.

Trong Thiên trường ngũ ưng thì Yết Kiêu là người cương nghị nhất. Truyện gì tử cũng quyết định mau chóng. Tử nhấn mạnh:

– Để giải quyết vấn đề, anh đề nghị Lô cưới vợ ngay, thì không còn gì đáng lo nữa. Hôm qua, trong 50 cô ca nhi, anh thấy cô nào cũng xinh đẹp, mềm mại. Lô đệ thích cô nào anh sẽ tâu lên đức vua gả cho Lô đệ. Lô đệ đừng quên rằng Lô đệ từng là quan phủ Thái tử. Giữa Lô đệ với chúa tướng làm việc với nhau hợp tính vô cùng. Hôm qua trước cử tọa đông đảo, nhà vua hỏi thăm Lô đệ với tất cả thương nhớ.

Thúy Hồng liếc nhìn Ngọc Hồng, nghĩ thầm:

– Mình phải trêu cô bé này để cô lộ mối ẩn tình ra mới được!

Nghĩ vậy nàng đề nghị:

– Hôm rồi, tại phủ Vũ Uy, em thấy có mười con bé ca nhi, đẹp óng mượt, mà đàn hát không thua gì bọn em. Em chú ý thấy con bé Ngọc Đức đẹp nhất. Đẹp hơn tất cả bẩy bà Tô lịch đã đành, dĩ nhiên hơn cả bọn em. Em sẽ nói với Vũ Uy vương phi gả Ngọc Đức cho Lôâ!

Kha Li Đa phụ họa:

– Ái chà, 10 cô đó đẹp, tươi như hoa nở. Phải đấy, lát nữa mình nói với vương phi Ý Ninh. Ngày mai ta làm lễ cưới liền, rồi còn lên đường Bắc viện.

Thấy mặt Ngọc Hồng tái xanh, Chân Phương tấn công tiếp:

– Trước đây Lô từng là quan Trưởng sử phủ Thái tử. Bây giờ Thái tử lên ngôi vua. Dường như hôm qua nhà vua đã quyết định gả Ngọc Đức cho Lô. Nghe đâu Hoàng hậu đã chuẩn bị mấy hôm nữa thì cưới. Phen nay Lô có cô vợ đẹp tuyệt thế, lại đàn, hát, múa giỏi. Lô đệ mất Như Lan cũng giống như Tái ông mất ngựa vậy!

Ngọc Hồng kinh hãi:

– Thực hả chị? Tái ông mất ngựa là truyện gì vậy?

– Đây là truyện cổ, ngụ ý nói: khi gặp điều không may, thì chưa chắc là xấu. Ngược lại khi gặp may thì chưa chắc là tốt. Truyện kể:

Có một ông họ Tái, nhà ở ven rừng. Một con ngựa của ông bỏ đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông đáp: mất ngựa chưa hẳn là việc không may. Mấy hôm sau con ngựa của ông trở về, dẫn theo một con ngựa rừng. Hàng xóm kéo đến mừng. Ông đáp: được ngựa chưa hẳn là điều may. Ít lâu sau, con trai ông cỡi ngựa rừng bị ngã gẫy chân. Hàng xóm kéo đến chia buồn. Ông đáp: con ngã gẫy chân chưa hẳn là diều không may. Năm sau, có giặc vua ra lệnh bắt trai tráng đi lính. Con trai ông bị gẫy chân, nên được miễn dịch”. 

Chân Phương tiếp:

– Lô mất Như Lan, mà Như Lan đã bỏ Lô đi lấy chồng. Bây giờ được gả Ngọc Đức đẹp hơn, tài hoa hơn! Mừng cho Lô.

Cẩm Nhẫn thấy Ngọc Hồng run run, nàng tiếp:

– Chị cũng mừng cho Ngọc Hồng có sư mẫu xinh đẹp, sẽ dậy Ngọc Hồng đàn hát.

Ngọc Hồng òa lên khóc, rồi ôm mặt chạy xuống bếp.

Cẩm Nhãn chạy theo, kéo Ngọc Hồng lên:

– Chị chỉ nghe tin đồn thế thôi, chứ sự thực thì phải hỏi lại. Hôm qua anh Dã Tượng có nghe truyện này mà!

Dã Tượng biết Cẩm Nhạn trêu Ngọc Hồng, bá xua tay:

– Vụ ấy có thể thực, mà cũng có thể hư. Nếu như Lô đệ muốn thì dĩ nhiên là thực. Còn Lô đệ không muốn thì không có việc gì xẩy ra đâu.

Bị Thúy Hồng rồi Cẩm Nhãn tấn công, Địa Lô tìm cách thoái thác:

– Mấy cô đó đẹp thì đẹp thực, nhưng còn con nít thì nước non gì mà cưới làm vợ. Cưới về rồi phải mượn vú nuôi sữa à!

Võ Cẩm Nhãn hứ một tiếng:

– Lô nói vậy không đúng đạo lý tý nào cả. Tôi là vợ anh Đại Hành, thì là chị dâu Lô. Các cô đó còn lớn tuổi hơn tôi. Mà tôi lấy chồng được, tại sao mấy cô ấy không lấy chồng được? Lô bảo các cô ấy nước non gì, thì có khác gì bảo tôi là trẻ ranh ư?

Nàng chỉ Đại Hành:

– Nếu kể từ lúc gặp anh Đại Hành, tôi về làm dâu, thì mới 13 tuổi. Tục ngữ nói: nữ thập tam, nam thập lục. Các anh cứ mải lo việc việc này, việc kia, rồi xua bỏ những mối tình của thiếu nữ ngây thơ.

Địa Lô mỉm cười:

– Phải chi tôi cũng gặp một kiều nữ yêu mình từ thủa còn thơ như chị yêu anh Đại Hành thì tôi cưới làm vợ ngay.

Cẩm Nhãn reo lên:

– Quân tử nhất ngôn nghe! Tôi biết có người con gái xinh như mộng, đã yêu thương Lô từ khi mới 10 tuổi, mà Lô không bao giờ ngó tới.

Địa Lô cãi bướng:

– Lô đâu có đào hoa như anh Đại Hành. Lô đâu có diễm phúc đó?

Cẩm Nhãn chỉ vào Ngọc Hồng:

– Đây! Người con gái đó đây! Đóa hoa này tuy chưa trổ sắc, nhưng cũng đã thấy nét mặn mà hiện ra rồi.

Bị bất ngờ, Ngọc Hồng xấu hổ quá, nàng núp sau lưng Vương Chân Phương. Chân Phương nắm lấy vai cô bé kéo ra:

– Này Ngọc Hồng! Thầy Lô đang chê Ngọc Hồng là con nít, mà Ngọc Hồng trốn e thầy Lô sẽ lấy ca nhi Ngọc Đức xinh đẹp thì hỏng bét. Nào! Ngửa mặt lên đi, phu nhân của Văn Bắc thượng tướng quân, Văn sơn tử mà lại nhút nhát như vậy sao?

Kha Li Đa vốn thích trêu Địa Lô, bây giờ nàng được dịp:

– Chú năm đẹp trai, tài hoa bậc nhất Đại Việt có khác. Được một thiếu nữ yêu từ thủa mười tuổi. Bây giờ Lô tính sao đây! Coi chừng lừng khừng lại mất như mất Như Lan, Chân Phương bây giờ!

Địa Lô còn đang choáng váng thì Dã Tượng đã nói:

– Chú năm! Nghe anh khuyên này. Tất cả mọi người đều lo cho chú. Các anh chị đều quan tâm tới hạnh phúc của chú. Chú gật đầu đi. Chú nên biết, trước khi đi sứ, chú là quan Trưởng sử của phủ Thái tử. Bây giờ Thái tử lên ngôi vua, anh sẽ tâu xin đức vua đứng ra cưới vợ cho chú.

Thúy Hồng thấy bây giờ mình là nàng dâu cả của Ngũ ưng. Mình cũng có bổn phận trong vụ này:

– Ngọc Hồng là đóa hoa thôn dã, chân thực như Cẩm Nhãn. Ngọc Hồng yêu chú khi hoa mới kết nụ. Bây giờ tuy hoa chưa trổ sắc, nhưng đã hiện ra vẻ mặn mà rồi. Chú không cưới Ngọc Hồng thì thực là uổng phí cả mối tình chân chất. Chú quyết định đi chứ?

Địa Lô liếc mắt nhìn Ngọc Hồng: Ngọc Hồng xấu hổ, lại ẩn sau lưng Kha Li Đa. Khi Li Đa đẩy nàng ra phía trước:

– Này Hồng! Em mười ba tuổi rồi, sắp làm đại phu nhân mà lại trốn thế này à? Hãy đứng ra cho mọi người nhìn tý nào?

Bất đắc dĩ Ngọc Hồng phải đứng ra giữa nhà. Chân Phương khen:

– Hoa tuy chưa trổ sắc, nhưng hứa hẹn xinh đẹp lắm đây.

Yết Kiêu biết rõ ông em tài hoa của mình còn ngập ngừng, Tử quyết định:

– Chú năm! Aên xong các anh, các chị về Thăng long. Chúng ta chỉ còn vài ngày nữa thì lên đường rồi. Nam nhi đại trượng phu, phải quyết định mau chóng. Anh sẽ tâu với đức vua về Ngọc Hồng. Ngày mai sẽ có sứ giả tới ban lễ vật của triều đình cho Lô đệ với Ngọc Hồng, phong tước phu nhân cho Hồng. Hồng trở thành vợ Lô đệ. Đám cưới sẽ tổ chức ngay. Tuổi Hồng tuy trẻ, nhưng kiến thức rất rộng, làm đại phu nhân không bỡ ngỡ đâu!

Dã Tượng nhìn các em một lượt:

– Kỳ này lên đường thì chị Thúy Hồng sẽ theo trong quân giúp anh. Chân Phương cũng phải theo nhị đệ, để cố vấn cho nhị đệ khi ta mang quân Bắc viện. Tam đệ cùng Kha Li Đa sẽ về Hồi cương giúp Thái tử phục quốc. Tứ đệ không thể mang Cẩm Nhãn theo, vì Cẩm Nhãn phải phụng dưỡng bá mẫu. Tuy nhiên tứ đệ nên đem bá mẫu, Cẩm Nhãn về ấp phong Côi sơn sống. Còn ngũ đệ thì ấp phong là châu Văn sơn, ngũ đệ phải mang Ngọc Hồng lên Văn sơn làm nhiệm vụ phu nhân khi ngũ đệ vắng nhà.

Bá hỏi Ngọc Hồng:

– Chỉ mấy ngày nữa, em phải lĩnh nhiệm vụ phu nhân của Văn Bắc thượng tướng quân, Văn sơn tử. Làm phu nhân của Văn Bắc thượng tướng quân không khó, vì ngũ đệ không có quân trực thuộc. Tuy nhiên làm phu nhân Văn sơn tử rất khó, vì Lô đệ được ăn lộc cả châu Văn sơn. Lô đệ đi vắng, em thay ngũ đệ cai quản hết: thu thuế, chi thu cho gia nhân, an ủi người già, giúp đỡ trẻ con. Nhất là tích trữ lương thảo để vận ra mặt trận.

Ngọc Hồng cười:

– Em nghĩ không khó! Em là Phật tử, làm gì em cũng học lấy cái tâm quảng đại của đức Từ phụ thì xong.

Thúy Hồng vuốt tóc Ngọc Hồng:

– Chuyến đi này, vương phi Ý Ninh mang toàn bộ đội ca nhi phủ Vũ Uy theo. Ngọc Hồng đàn ngọt, hát hay. Để chị xin với phi cho em theo quân. Chứ vợ chồng mới cưới, đêm xuân đáng giá nghìn vàng mà xa nhau thì uổng quá.

Dã Tượng dặn Ngọc Hồng:

– Trước khi lên đường thì Vũ Uy vương hội quân ở châu Văn sơn. Văn sơn là ấp phong của ngũ đệ. Em là phu nhân ngũ đệ, em phải lo chiêu đãi bộ tham mưu cùng quan khách. Hãy cố gắng điều động gia thuộc, tỳ nữ chuẩn bị tiệc cho chu đáo. Chị Thúy Hồng sẽ giúp em một tay.

Yết Kiêu tiếp:

– Em phải nhớ một điều, chúng ta gồm năm người, kết huynh đệ có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Theo tuổi tác thì anh Dã Tượng lớn nhất, thứ đến ta. Thứ ba là Cao Mang. Thứ tư là Đại Hành. Nhỏ nhất là Địa Lô. Nếu em là vợ Lô thì em là cô em dâu nhỏ nhất.

Khu mật viện châu Văn sơn được canh phòng cực cẩn mật. Một đội giáp sĩ, mỗi người dắt một con chó, tuần tiễu phía ngoài. Trên trời một đàn chim ưng bay lượn tuần phòng.

Trong sảnh đường, Vũ Uy vương ngồi trên ghế chủ soái. Bên trái là vương phi Ý Ninh. Bên phải là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Bên dưới tất cả tướng soái Phủ Tổng trấn Bắc cương, chư tướng thuộc hai hiệu binh Văn Bắc, Thiệu Hưng. Tất cả ngồi nghiêm chỉnh. Trong phòng có đến hơn 200 người mà không một tiếng động.

Ngoài ra còn có 10 người khách, đó là 5 cặp vợ chồng Hoa sơn ngũ hiệp, sứ giả của Tổng trấn Tứ xuyên Tống triều. Hai người ngồi cạnh Hoa sơn ngũ hiệp làm thông dịch là Công chúa Thúy Hồng và phu nhân của Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân, An biên tử, Trần Quốc Vỹ là Vương Chân Phương.

Vũ Uy vương đặt thanh kiếm lệnh trước mặt. Vương mở đầu:

– Chư vị tướng soái. Cái ngày mà chư vị chờ đợi đã tới. Chúng ta vừa nhận lệnh từ Khu mật viện, do Tiết chế Hưng Đạo vương ký: ngày mai chúng ta xuất quân cứu viện Tống. Trước khi xuất quân, tôi phải cho chư vị biết rõ chính nghĩa của chúng ta.

Vương ngừng lại để cử tọa suy nghĩ, rồi tiếp:

– Chính nghĩa thứ nhất: chúng ta xuất binh với chính nghĩa sáng ngời: Mông cổ là cái họa chung của thiên hạ. Vó ngựa Mông cổ đi đến đâu ngọn cỏ cũng không còn. Không nói đâu xa, thời Nguyên phong, khi vào Thăng long, chúng đốt sạch cung điện, nhà cửa. Người lớn chúng giết đã đành, đến trẻ thơ chúng cũng đốt nhà rồi ném vào. Đàn bà con gái chúng hiếp cực tàn bạo. Hiếp xong chúng chặt chân tay, cười man rợ ngồi nhìn nạn nhân đau đớn kêu khóc thảm thiết. Vật cùng tất phản, uốn quá hóa cong, nên khắp thiên hạ nổi lên chống lại chúng. Hiện Cao ly, Đại Tống, Tây tạng, Hồi cương, Đại lý liên kết với Đại Việt ta, cùng đánh Mông cổ. Đó là kế Quần lang chiến hổ.

– Chính nghĩa thứ nhì: tại sao ta không cố thủ trong nước mà phải Bắc viện? Hiện Mông cổ đang dốc toàn lực diệt Tống. Diệt Tống xong, chúng đánh ta dễ dàng. Ta viện Tống, là thà ta đánh Mông cổ trên đất Tống còn hơn ta đánh Mông cổ trên đất Việt.

– Chính nghĩa thứ ba: tại sao ta không khuất thân nhịn nhục Mông Cổ, để tránh binh đao? Ta đã nhịn nhục rồi đấy chứ! Nhịn nhục đến không còn chịu được nữa. Mông cổ luôn gửi sứ sang đòi ta phải tuân theo sáu điều kiện:

  1. Một là đích thân Hoàng đế phải vào chầu,
  2. Hai là đem trưởng nam làm con tin,
  3. Ba là kê biên dân số,
  4. Bốn là phải chịu quân dịch,
  5. Năm là phải nộp thuế, lương thảo.
  6. Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri)

Như vậy có khác gì ta bị Mông cổ cai trị? Nếu ta chịu sáu điều này thì ít lâu sau họ sẽ cử một người Mông cổ làm An Nam vương rồi đem mấy ngàn quan sang cai trị.

Vương nhấn mạnh:

– Các vị là tướng soái, vậy ngay khi rời đây các vị phải giảng giải cho binh tướng thuộc cấp hiểu rõ lý do chúng ta Bắc viện. Bây giờ tôi để Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu, quản Khu mật viện trình bày chi tiết về tình hình Mông cổ, tình hình Hồi cương, Tây tạng, Đại lý, Sơn Đông, Đại Tống.

Khai Sơn hầu Chu Mạnh Nhu đứng dậy hành lễ với cử tọa rồi nói:

– Đại hãn Mông Ca thân chinh đánh Tống đã 7 tháng. Ông ta đánh Tống bằng hai mặt: mặt Đông từ Ngạc châu tiến về Tây. Mặt Tây từ Tứ xuyên dọc theo Trường giang tới Kinh châu.

Hầu ngừng lại chỉ lên bản đồ vẽ trên tấm vải lớn:

– Mặt trận phía Đông tiến dọc sông Trường giang hướng về Tương dương, Phàn Thành. Nếu hạ đươc Tương dương, Phàn thành thì kinh đô Lâm an không thể giữ nổi. Tướng tổng chỉ huy mặt này là Thân vương Tháp Sát Nhi. Phó tướng là A Truật, Ba An. Quân Mông cổ mặt trận này là người Hán. Các thập phu, bách phu, thiên phu, vạn phu đều là người Hán do Hốt Tất Liệt đào tạo. Trong 7 tháng qua, quân Mông cổ thế như chẻ tre, chiếm 10 châu 144 thành hai bên bờ sông Trường giang, khi tới Ngạc châu thì bị chặn lại. Nguyên do một danh nhân Tống là Văn Thiên Tường hiến kế: nhà vua ban hịch cần vương, kêu gọi võ lâm, nho sĩ hãy ứng nghĩa khởi binh chống giặc. Người Hán thấy nước lâm nguy, ứng nghĩa hô hào dân chúng cùng sát cánh với triều đình giữ đất. Vì vậy trong 11 trận đánh, Mông cổ chỉ thắng có ba, bại 9. Mông Ca nổi giận, cách chức Tháp Sát Nhi, gọi Hốt Tất Liệt từ Hoa lâm thay thế. Hốt Tất Liệt hội ngộ với tướng sĩ cũ, thế lực nổi dậy, phá Tống bốn trận liền. Hiện y đang vây Ngạc châu.

– Mặt trận phía Tây, Mông Ca đi theo đường Lục bàn sơn, Đại tán quan rồi tiến vào Tứ xuyên. Mông Ca vượt sông Gia lăng, Bạch thủy chiếm Trường ninh. Khi đến Đại hoạch sơn, tướng Tống là Dương Đại Uyển đem năm vạn binh ra hàng. Tướng tổng trấn Thành đô là Đặng Văn hàng Mông cố, y còn đem quân đánh chiếm một giải phía Nam Tứ xuyên tới Vân Nam. Hiện Mông Ca đang tiến đến Kê trảo quan, uy hiếp Thạch tử sơn. Quân Tống thua liền 4 trận, mất bốn thành. Quân của mặt trận này là quân Mông Cổ, và quân trưng dụng của Tây hạ, Tây vực, rất tinh nhuệ. Tổng trấn Tứ xuyên của Tống là Vương Kiên. Vương là người đọc sách, ra cầm quân. Tướng thủ thành Điếu ngư là Nguyễn Văn Lập.

Hầu lại đem ra một trục vải nữa:

– Trên đã trình bầy tình hình Mông Cổ. Bây giờ tới tình hình ta. Trước hết là sứ quân Lý Đảm kết thân với Tống, được Tống phong cho tước vương. Lý vương kéo cao cờ nghĩa, tuyên bố cần vương, diệt Thát đát. Phía Nam Lý bắt tay được với Tống. Phía Bắc bắt tay được với Cao ly. Lý vương cùng Cao ly dàn quân uy hiếp phía Đông Mông cổ. Hốt Tất Liệt phải chia quân ra giữ mặt này.

– Phía Tây, Thái tử Hồi cương đã chiếm được hầu hết lãnh thổ Hồi, giết chết Hồi vương do Mông Ca gửi tới. Hiện quân Mông cổ đang bị phân tán, đối phó với quân Hồi.

– Phía Nam, quân Cần vương Đại lý đánh đuổi được Vân Nam vương, chiếm lại ba phần lãnh thổ.

– Quốc vương Tây tạng đã đuổi được Tây tạng vương của Mông cổ gửi tới, chiếm lại Lạc đà sơn. Hiện hai bên đang giằng co, bất phân thắng bại.

Vương phi Ý Ninh vẫy tay, mười thị nữ bưng trà nóng vào mời tất cả tướng soái cùng uống cho tỉnh táo.

Vũ Uy vương đứng dậy, vương nói thực chậm:

– Chúng ta viện Tống, đánh Mông cổ, có bao nhiêu mặt trận chúng ta có thể tham dự. Nào, chư tướng cho ý kiến.

Đại đởm Đại tướng quân Nguyễn Thiên Sanh, An xuyên hầu đề nghị:

– Hiện Mông cổ vét hết binh ở chính quốc vào mặt trận Tứ xuyên, trong nước không còn quân trừ bị. Nếu như ta dùng thủy quân vượt biển sang Sơn Đông liên hiệp với sứ quân Lý Đảm, với vua Cao ly đánh thẳng vào chính quốc. Mông Ca ở quá xa, đem quân về cứu viện ít ra phải ba đến bốn tháng, thì Hoa lâm đã bị ta chiếm. Ta bắt hết hoàng hậu, phi tần, vợ con tướng sĩ làm áp lực rồi hạ lệnh cho Mông Ca, Hốt Tất Liệt đầu hàng. Khi Mông Ca hãn rút quân khỏi Tứ xuyên, Ngạc châu Tống sẽ đem quân tái chiếm đất cũ. Các nước Hồi cương, Đại lý, Tây tạng cũng sẽ chiếm lại lãnh thổ đã mất. Đó thực là một chuyện thống khoái kim cổ.

Các tướng vỗ tay cổ võ. Chờ cho các tướng vỗ tay xong, Vũ Uy vương mỉm cười:

– An xuyên hầu là tướng Đại đởm, nên thích đánh cảm tử, đánh mạo hiểm. Bây giờ ta hãy bàn về đường tiến quân này xem sao? Có năm điều không thể, không nên.

Không thể thứ nhất là: chúng ta có hai hiệu binh Văn Bắc, Thiệu Hưng với các đoàn yểm trợ, quân số lên tới 3 vạn, thì phải dùng toàn bộ bốn hạm đội Âu cơ, Bạch đằng, Thần phù, Thăng long mới chở hết. Chúng ta không còn thủy quân phòng vệ lãnh hải. Rất nguy hiểm.

Không thể thứ nhì là đường đi quá xa,  phải lênh đênh trên biển hơn hai tháng, như vậy khi tới nơi sĩ tốt mệt mỏi thì sao còn sức chiến đấu?

Không thể thứ ba là, vì đường đi quá xa, việc tiếp tế lương thảo không thể đảm bảo . Ta lại phải dùng ba đến bốn hạm đội vào việc này.

Không thể thứ tư là người, ngựa chúng ta là người ngựa vùng nhiệt đới, bây giờ chiến đấu ở Liêu Đông, Cao ly, Mông cổ, khí hậu lạnh xé da, rách thịt thì chịu sao nổi? Ta không có y phục ngự hàn cho tướng sĩ.

Không thể thứ năm là, với hai hiệu binh, ta không đủ lực lượng chiếm Hoa lâm.

Nghe Vũ Uy vương phân tích, An xuyên hầu cúi đầu tỏ vẻ kính phục:

– Kiến thức thần quả thực nông cạn.

Vũ Uy vương tiếp:

– Bây giờ chỉ còn hai đường tiến quân. Một là ta tiếp viện mặt trận Ngạc châu. Nếu đi bằng đường bộ quá xa, ta phải đi bằng đường thủy. Điều này lại vấp vào cái không nên của đề nghị đánh vào Mông cổ. Như vậy ta chỉ có thể viện Tống vào mặt trận Tứ xuyên mà thôi. Tiến quân vào Tứ xuyên có hai đường. Một đường bằng phẳng, nhưng hơi xa là vào Đại lý, qua cửa Độ khẩu, rồi dùng thủy quân xuôi Trường giang, tới Giang an vào Thành đô. Đường này hơi xa. Còn một đường nữa gần hơn được năm ngày: ta vượt rừng tới Chiêu thông rồi theo đường thủy tới Giang an. Sau này tiếp tế lương thảo cũng dùng đường này. Vậy ta chọn đường Chiêu thông.

Vương chỉ vào Hoa sơn ngũ hiệp:

– Cách đây một năm, Vương Tổng trấn cùng Hoa sơn ngũ hiệp giúp Đại Việt ta thu hồi đất tổ mất đã hơn nghìn năm. Khu đất này do bọn thổ phỉ Thân Long Vân cai trị. Ta thành lập trấn Văn Bắc với ba châu Văn sơn, Khâu Bắc, Chiêu dương. Cũng vì vậy ta mới có hiệu binh Văn Bắc. Vương Tổng trấn gửi sứ sang xin ta Bắc viện. Thượng hoàng đã nghị với triều đình, quyết định Bắc viện.

Vương hướng vào các quan chức của trấn Văn Bắc:

– Lương thảo là huyết mạch của ba quân. Bây giờ hai hiệu binh ra đi, vấn đề tiếp vận lương thảo ra sao?

Hồi mới thu hồi ba châu, Vũ Uy vương đã bổ nhiệm một hào kiệt, từng là thuộc hạ của vương, có công trong cuộc chiến thời Nguyên Phong là Hà Bổng vào chức Tuyên vũ sứ trấn Văn Bắc kiêm châu trưởng Văn sơn. Triều đình phong cho Bổng tươc hầu. Lại bổ nhiệm Hà Đặc, Hà Chương là em Hà Bổng vào chức châu trưởng Khâu Bắc, Chiêu dương. Hà Bổng, cùng hai châu trưởng đứng dậy:

– Khải vương gia, lương thực cho hai hiệu binh thần thu mua, tích trữ có thể dùng trong một năm. Nếu trong năm phải xử dụng lương ấy, thần sẽ thu mua tiếp. Còn tiếp tế, thần có một trăm thớt voi, năm trăm trâu, ba trăm bò, và một nghìn xe.

Vương vui lòng:

– Tuyên vũ sứ thực xứng đáng là biên cương trọng thần.

Vương tiếp:

– Triều đình đã quyết định Bắc viện. Trước hết là viện lương thảo. Mấy năm nay Tứ xuyên bị nạn binh đao, mùa màng thất thu. Vựa lúa Tứ xuyên bì hàng tướng Dương Đại Uyển dâng cho Mông cổ. Trong khi đó ba năm qua, Đại Việt ta trúng mùa liên tiếp, lương thực dư thừa. Vậy lương thảo Bắc viện đã sẵn sàng chưaz?

Chiêu Quốc vương đáp:

– Hôm rồi có chỉ dụ của triều đình, tòa Tổng trấn Bắc cương xuất binh lương tồn kho chuyển sang Văn Bắc, để đem trợ Tống. Hầu hết là gạo trắng của mùa vừa qua, một phần gạo nếp, một phần là khoai, sắn khô. Không biết Hà tuyên vũ đã nhận được bao nhiêu?

– Khải vương gia, cho đến sáng nay thần đã nhận được số gạo, khoai, sắn khô đủ nuôi 10 vạn binh trong vòng một năm. Ngoài ra tôm khô, cá khô, mực khô, thịt khô nhiều vô kể. Tất cả đều là thượng phẩm. Thần đợi chỉ dụ của vương gia là lập tức cho đoàn vận tải lên đường ngay.

Đại đởm đại tướng quân Nguyễn Thiên Sanh hỏi:

– Xin Hà tuyên vũ sứ cho biết lực lượng hộ vệ lương thảo như thế nào?

– Thưa quân hầu, hộ vệ lương thảo trong lãnh thổ Đại Việt thì tiểu chức dùng Hoàng nam và thú binh. Khi sang đất Tống thì Đô đốc Giang an sẽ cung cấp. Tuy nhiên thần vẫn duy trì đội thú gồm 100 hổ, 100 báo với đội chim ưng tuần phòng.

Hoàng Hiệp đứng dậy hướng về Thăng long vái ba vái, lại hướng cử tọa vái một vái:

– Đa tạ Thượng hoàng, đa tạ Thiệu Long hoàng đế, đa tạ triều đình Đại Việt đã mở rộng kho lẫm, trợ Tống.

Vũ Uy vương tiếp:

– Ngoài viện lương, triều đình đã nghị viện binh. Từ ba năm trước, sau trận chiến thời Nguyên Phong, ta đã thành lập, huấn luyện, trang bị cho hiệu binh Thiệu Hưng. Binh tướng hiệu binh này gồm hầu hết Hoa kiều ở Đại Việt. Các Hoa kiều ở Đại Việt có tổ chức rất chặt chẽ. Họ tự nguyện đóng góp để trả lương bổng cho hiệu binh này. Về tướng lĩnh, vì phải đối phó với Mông cổ là loại binh tướng thiện chiến, chúng ta cử một số tướng sĩ Đại Việt chỉ huy song song với các tướng Hoa kiều trong một thời gian. Khi các tướng Hoa kiều đã quen với chiến trận, thì các tướng Việt sẽ rút lui. Sau khi giải phóng ba châu do thổ phỉ Long Vân áp chế, tôi đã lấy quân cơ hữu ba châu thành lập hiệu binh Văn Bắc. Binh tướng hai hiệu binh Thiệu Hưng, Văn Bắc đều biết nói tiếng Hoa vùng Quảng, vùng Tứ xuyên, y phục như quân Tống. Khi lên đường sẽ dùng kỳ hiệu Tống. Trong khi binh tướng hiệu Văn Bắc lên đường Bắc viện, thì lương tiền chỉ phát cho đủ ăn thôi. Còn lại triều đình Đại Việt sẽ phát cho cha-mẹ, vợ-con tại quê nhà.


(1). Luật đời Trần, đời Lê, đời Nguyễn rất trọng chữ hiếu. Khi một vị quan có đại tang, thì phải cáo quan về cư tang. Sau ba năm mới được trở lại. Nếu vị quan nào có đại tang mà vẫn ngồi ở chức vụ, quan Ngự sử đại phu biết được đàn hặc, tâu lên sẽ bị cách chức. Ngay hồi 51, vì chú ruột chết, Địa Lô đang trên dường đi sứ, phải trở về cư tang. Hết tang mới lên đường.

Đại tang ba năm gồm: thầy, cha mẹ đẻ, cha mẹ chồng, chồng, vợ cả, con dâu cả.  
Trọng tang một năm gồm: cha mẹ vợ, chú thím, bác, vợ bác; anh em ruột (chị dâu, em dâu), chị em ruột (chưa xuất giá).   
Sơ tang gồm cô (nếu đã xuất giá), cậu. Người xưa đã đặt thành thơ để dễ nhớ: 
Cô đi chín tháng,

Thím về một năm.
Chồng cô, vợ cậu, chồng dì,
Trong ba người ấy chết thì không tang.

Trong thời gian đại tang: không được cưới vợ, lấy chồng, không được dư đám cưới, không được dự tiệc vui mừng, hát xướng. Bởi vậy mới có tục cưới chạy tang. 

(2) Trước 1945, nghệ thuật hát Xẩm quảng bá cực rộng rãi. Gần như bất cứ thôn nào, xóm nào cũng có nghệ nhân hát Xẩm. Nhưng họ không hát thường trực. Họ chỉ hát tại các buổi hội hè, đình đám, nhất là tại những đêm trăng ngày mùa. Cũng có những nghệ nhân hát thường trực tại:

– Trên các con đò ngang sông,

– Tại các chợ.
– Trên con tầu dọc sông, dọc biển.
– Tại đền thờ, miếu mạo đông tín chủ.
– Trên các tuyến tầu lửa.
– Trên tầu điện Hà nội.

Hầu hết nghệ nhân hát Xẩm đều khiếm thị. Họ lấy nghề hát làm kế sinh nhai: tùy nghi thính giả cho bao nhiêu cũng được. Vì vậy các nghệ nhân Xẩm thường bị coi khinh. 
Hát Xẩm có khoảng trên 30 điệu, ấy là không kể nhiều nghệ nhân dùng các điệu Ca trù, Quan họ, Đò đưa, Lý, Ví, dĩ chí ngâm thơ, sa mạc vào hát Xẩm. Hát Xẩm có thể gọi loại ca nhạc bình dân nhất trong các loại nghệ thuật. 
Hồi 1945-1946 hát Xẩm được dùng trong việc khuyến khích bình dân học vụ, chống giặc mù chữ, thành công vô cùng. Năm 1954-1955 một lần nữa hằng mấy trăm toán hát Xẩm được dùng để khuyên dân chúng đừng di cư từ Bắc vào Nam. 
Thế rồi hát Xẩm bị bỏ quên, bị khinh khiến, chỉ còn lại dĩ vãng trong các tiểu thuyết, trong ký ức người dân. 
Nhưng! 
Kể từ năm 2005, tại Hà nội, một số nghệ sĩ danh tiếng họp nhau, thành lập Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam rồi đem phục hồi điệu hát Xẩm. Thành công. 
Tuy nhiên trong công cuộc nghiên cứu, chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với anh chị em trong nước rằng tổ của hát Xẩm là con vua Trần Thánh Tông tên Trần Quốc Đĩnh. Tài liệu của Trung tâm nói rõ: 

Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh là hai hoàng tử con vua Thánh tông. Quốc Toán thì ác độc hay ghen ghét với em là Quốc Đĩnh. Một hôm hai người cùng vào rừng săn bắn, Quốc Đĩnh lượm được viên hồng ngọc lớn. Quốc Toán nảy lòng tham đâm mù mắt em, cướp ngọc, rồi để mặc em trong rừng. Quốc Đĩnh bị mù, may được tiều phu nuôi nấng. Phẫn chí, Quốc Đĩnh lấy dây làm đàn, rồi đặt ra điệu hát đặt tên là Xẩm. Quốc Đĩnh dạy điệu hát cho nhiều người. Một hôm vua Thánh tông nghe được điệu hát này. Ngài ước ao gặp được người sáng tạo ra nó. Thế là Quốc Đĩnh gặp lại phụ hoàng, tấu trình tất cả oan khuất của mình. Vua Thánh tông thương xót Quốc Đĩnh, ban chỉ giết Quốc Toán.

Truyền thuyết này có năm điều vô lý: 

Một là:

Tra xét trong chính sử cũng như các gia phả của nhiều chi họ Trần, chúng tôi không thấy trong các con của vua Thánh tông có người nào tên Quốc Toán, cũng Như Quốc Đĩnh. 

Hai là:

Vua Trần Thánh tông nhường ngôi cho con trưởng là vua Trần Nhân tông, lên làm Thái thượng hoàng vào thời kỳ cực thịnh về tinh thần đoàn kết trong giòng họ Đông A, thì sao có cuộc anh đâm mù mắt em vì viên ngọc?Rồi bị xử tử? 

Ba là:

Theo Hội điển sự lệ đời Trần khi một hoàng tử đến tuổi 12-13 thì được phong tước vương, cho mở phủ đệ riêng trấn nhậm một vùng, trao cho chức tước cả văn lẫn võ. Phủ đệ có đủ các chức quan như một triều đình, có Thị vệ, có quân đội riêng. Tỷ như hoàng tử Trần Nhật Duy, khi 13 tuổi được phong chức tước như sau: 

Hàm: Thái tử thiếu bảo,
Chức văn: Đồng bình chương sự, (tương đương với Tể
tướng)
Chức võ: Phụ quốc thượng tướng quân,
Tước: Vũ Uy vương,

Trấn nhậm: Tổng trấn Bắc cương.

Như truyền thuyết nói: nếu như hai vương Quốc Đĩnh, Quốc Toán đi săn bắn thì ắt sẽ đem Thị vệ, binh tướng rất đông theo thì sao có vụ Quốc Đĩnh bị Quốc Toán đâm mù mắt rồi bỏ rơi trong rừng? 

Bốn là:

Cho rằng hai vương vào rừng chơi, rồi anh đâm mù mắt em. Chỉ cần Quốc Đĩnh mất tích một ngày thì văn võ quan vương phủ của ông sẽ tung đi khắp nơi tìm kiếm rồi tâu về triều. Có đâu Quốc Đĩnh phải sống nhờ tiều phu, rồi phải đợi khi điệu hát Xẩm đến tai phụ hoàng Thánh tông mới được đưa ra khỏi rừng? 

Năm là:

Theo các gia phả của họ Trần: khi triều Trần được thành lập, nguyên tổ Trần Lý cùng Kiến quốc đại vương Trần Tự Khánh, quyết định đưa ra ba cương lĩnh bắt con cháu tuyệt đối tuân theo: 
– Một là ngôi Hoàng hậu chỉ dành cho con gái họ Trần trực hệ. Hoặc con gái của con gái họ Trần trực hệ. 
– Thái tử bắt buộc phải do Hoàng hậu hoặc các phi tần họ Trần sinh ra. 
 – Cái gương các bà Thái hậu triều Lý dùng quyền tàn sát hoàng tộc gây chia rẽ trầm trọng trong họ Lý. Vì vậy hoàng tộc trực hệ dù phạm tội gì cũng không hể bị xử tử hình. Cho nên sau này: 
– Trần Di Ái,

– Trần Ích Tắc,
– Trần Lộng,

Cùng một số hoàng tộc hàng Mông cổ thì chỉ bị lột hết chức tước, hoặc đầy ra làm lính chăn ngựa, cầy ruộng, và gọi là Ả Trần (vẫn còn họ Trần, nhưng bị coi như nhút nhát như đàn bà). Thế thì hoàng tử Quốc Toán có chọc mù mắt em, cũng không thể bị tử hình. 

(3) Tháng 5 năm 2008, lần đầu tiên kể từ 1954, anh chị em nghệ sĩ tại Hà Nội tổ chức giỗ tổ hát Xẩm tại Văn miếu, có lễ phát thưởng cho:

– Một số nghệ nhân,

– Một số soạn giả,
– Một số nhạc sĩ,
– Một số ký giả.
Đã có công phục hồi hát Xẩm.

Tuy không tuyệt đối tin rằng tổ của hát Xẩm là Quốc Đĩnh con vua Thánh tông, nhưng trong dịp này tôi có gửi về một số tiền nhỏ là 20 triệu đồng để góp phần thưởng khuyến khích cho môn nghệ thuật bình dân nhất, cổ nhất Việt Nam đang bừng bừng sống lại, nở như hoa. 
Còn tại sao Xẩm chỉ dạy cho người khiếm thị, xin mời quý độc giả đọc những hồi sau sẽ rõ. 
Một thuyết khác nói hát Xẩm có trước thời vua Trưng (39-43 sau Tây lịch), đến đời Trần thì một đại anh hùng là Vũ Uy vương đã có công cùng 7 vị ca nhi sắc nước hương trời đặt thành hệ thống. Sau 7 vị ca nương bị Mông Cổ đem giết. Nhưng viên hình quan tiếc tài, tiếc sắc, chỉ chọc mù bẩy vị mà thôi. Đời sau tôn bẩy vị là tổ, và chỉ truyền nghề cho người khiếm thị. Trong các cuốn phổ tại đền thờ bẩy vị có các câu đối: 

Thiên hương, quốc sắc anh hùng lệ,
Nhất phiến tài tình vạn thế âm.

Liên hoa thất đóa anh linh tại,
Việt quốc thiên niên liệt nữ hồn.

Quốc sắc, thiên hương thiên hạ hữu,

Linh thanh, vạn cổ thế gian vô.

(4) Đây là nguồn gốc của một điệu múa, lưu truyền sau gần 700 năm có tên:

– Múa Bài Bông,

– Bắt Bài Bông,

Điệu ca múa lấy căn bản là hát Cô Đầu, hay Hát Ả Đào, hay Hát Nói, hay Ca Trù. Hồi đầu thế kỷ thứ 20 vẫn còn thịnh hành tại Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Tài liệu ghi lại: 
– Năm 1924 trong lễ Tứ tuần khánh thọ (40 tuổi) của vua Khải Định, đoàn ca Thanh hóa được đưa vào Huế để ca múa mừng nhà vua. 
– Năm 1945, các nghệ sĩ Hà Nội tổ chức một đêm văn nghệ, cổ võ cho tuần lễ vàng. Cụ Quản ca Phó Đình Ôn, của giáo phường Khâm thiên đã dựng lại. Họa sĩ dựng cảnh là Lưu Văn Sìn. Sau lần trình bày này, điệu múa không thấy xuất hiện nữa. 
Năm 1980, đoàn làm film Hát cửa Lỗ Khê của Trung tâm Audio-video Hà nội định dựng lại điệu múa Bài bông. Nhưng đáng tiếc vì thiếu kinh phí, nên bỏ qua. Bấy giờ tôi đang ở Paris, nghe tin này, cũng muốn trợ giúp tài chánh, nên viết thư cho người phụ trách. Song, thời gian này là thời gian bao cấp, giữa người trong nước, với người ở ngoại quốc bị che bởi tấm màn nghi ngờ, nên thư đi, mà không có thư về. 
Tuy nhiên nghệ sĩ Kim Đức là con gái cụ Phó Đình Oån cũng thu được một phần nhạc của điệu múa Bài bông.



Khởi Nguyên Mobile

Hồi (1-61)


<