Vay nóng Tinvay

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 14

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 14: Luật Thời Trần
5.00
(2 lượt)


Hồi (1-61)

Siêu sale Lazada

Vương phi Ý Ninh thấy Bạch Hoa có lý, đành tuyên bố bãi phiên xử, xin triều đình cử người lên thay thế. Sứ gỉa đang chuẩn bị lên đường thì binh canh báo:

– Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu và Linh Từ quốc mẫu giá lâm.

Thúy Hồng hỏi Dã Tượng:

– Là ai vậy?

– Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu là hoàng hậu của Nguyên Tổ hoàng đế (Trần Lý), bà nội của Thượng hoàng, cụ của Vũ Uy vương. Anh phải gọi là Thái tổ mẫu (kị). Còn Linh Từ quốc mẫu là vương phi của Trung vũ đại vương Trần Thủ Độ. Người là Hoàng hậu của vua Lý Huệ tông, là sinh mẫu của vua Lý Chiêu Hoàng và Hiển Từ hoàng hậu.

Thúy Hồng hà một tiếng:

– Như vậy có thể mời Thái hậu ngồi xử Thất tiên, hoặc nhờ Linh Từ quốc mẫu cũng được. Quốc mẫu ở địa vị cao hơn Bạch Hoa đến hai bậc.

Vũ Uy vương hô chư tướng ra đón.

Lễ nghi tất.

Linh Từ quốc mẫu nói với Vũ Uy vương:

– Quốc thượng phụ (Trần Thủ Độ) đã đọc tất cả tấu chương của cháu. Người thỉnh Thái hoàng Thái hậu lên chủ trì vụ này.

Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu nắm tay vương phi, ngài tát yêu phi như một đứa trẻ:

– Trong các cháu dâu, già này kỳ vọng vào cháu nhiều nhất. Các công chúa, vương phi khác ngồi ở trong vương phủ, kẻ hầu người hạ, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Còn cháu, trời cho một tấm nhan sắc khuynh quốc, nhưng trời cũng cho cháu tấm lòng son đối với đất nước. Trận giặc vừa qua, cháu từng xung tên đụt pháo, lăn mình vào chỗ trăm chết, mới có một sống. Thực xứng đáng là con cháu vua Trưng.

Ngài nói với vương:

– Khi cháu lên đường, phụ hoàng cháu đã ban chỉ cho cháu phải làm những việc khó khăn vô cùng, thế mà cháu đã hoàn thành. Tuy nhiên ta hỏi: nếu như vợ cháu không phải là Ý Ninh, liệu cháu có thành công hay không?

– Tâu không thể.

– Cháu biết thế mới xứng là bậc anh hùng trấn ngự biên cương. Phải biết công vợ như biết công một tướng. Nào, chúng ta cùng duyệt lại kết quả.

– Tuân chỉ Thái tổ mẫu.

Trong căn phòng chỉ có Tuyên Minh, Linh Từ quốc mẫu, Vũ Uy vương, vương phi, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang, năm nàng Đông hoa.

Linh Từ quốc mẫu hỏi Vũ Uy vương:

– Khi khởi hành, sứ đoàn có Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh. Bây giờ hầu ở đâu?

– Tâu, vì người vợ kế của hầu là Hoàng Hoa phạm tội đại ác, thần nhi không muốn hầu đau đớn khi thấy người vợ phản bội mình. Vì vậy thần nhi để hầu lên đường gặp Hốt Tất Liệt trước. Còn thần nhi với Ý Ninh về đây giải quyết vụ Văn sơn, Khâu bắc, rồi sẽ lên đường sau.

– Được! Ý Ninh, cháu trình bầy những chỉ dụ phụ hoàng đã trao cho hai cháu. Hai cháu đã hoàn thành được những gì? Còn những gì chưa hoàn thành.

Ý Ninh tâu:

– Phụ hoàng ban cho chúng cháu năm chỉ dụ. Chỉ dụ thứ nhất:

Gây chia rẽ trong hoàng tộc Mông cổ, khiến các Hãn đem quân tàn sát nhau.  

Phần này thành công ngoài sức tưởng tượng. Người mà khắp thiên hạ gờm là hoàng đệ Hốt Tất Liệt. Y vừa có tài, lại có đức. Y nắm binh quyền ở Trung nguyên, điều binh đánh Tống hai mặt. Lãnh thổ Trung nguyên thì ba phần tư đã thuộc về Mông cổ: trọn Hoa Bắc, Sơn tây, Hán trung, Đông xuyên, Tây xuyên. Lãnh địa của Hốt Tất Liệt rộng gấp năm lần chính quốc Mông cổ. Dân chúng đông gấp mười. Binh lực của y hùng mạnh hơn binh mực của Mông Ca. Chính y sai Ngột Lương Hợp Thai đánh Đại Việt. Chúng thần đã khiến cho chúa Mông cổ nghi ngờ, thu binh quyền của y. Chân tay của y người thì bị xử tử, người thì bị cách chức. Khắp các mặt trận đều rối loạn.

– Giỏi!

Vương tiếp:

“Bây giờ có hai trường hợp xẩy ra. Một là Hốt Tất Liệt đem quân làm phản. Như vậy toàn thể quân Mông cổ ở Trung nguyên sẽ trở giáo đánh với quân Mông cổ ở chính quốc. Quân Mông cổ ở chính quốc không đông bằng quân Mông cổ ở Trung nguyên. Nhưng Mông Ca có thể trưng binh từ các Hãn ở vùng Tây vực. Cuộc chiến sẽ hết sức thảm khốc, kéo dài ít ra vài ba năm, nhiều có khi tới hàng chục năm. Không chừng Mông Ca chỉ còn uy quyền ở chính quốc. Còn Hốt Tất Liệt sẽ làm vua Trung nguyên. Bấy giờ dù bên nào thắng, thì tinh lực Mông cổ sẽ yếu đi rất nhiều. Trong khi họ tương tàn, thì Tống, Đại Việt sẽ có dịp hợp tác, đánh chúng”.  
“Hai là y bị tước binh quyền. Tướng sĩ của y sẽ bị Mông Ca sa thải hay xử tử, tinh lực Mông cổ bị mất. Mặt khác người thay thế y không thể điều động được hệ thống tướng sĩ của y ».  

Ngài nhìn vương hỏi:

– Các cháu làm thế nào mà được như thế? 

Phi trình bầy vụ Câu khảo cục, vụ dùng Thanh Nga, Thúy Nga đưa Tham tri chính sự Ngột A Đa vào lưới tình. Ngột A Đa lại lái A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình theo giúp. Hiện Hốt Tất Liệt đã bỏ mặt trận Đại lý, Đại Việt đang trở về Trung nguyên. Ta được yên.

– Giỏi! Các cháu chỉ dùng hai giai nhân mà thành công bằng cả một đạo quân trăm vạn người. Ví dù Thanh Nga cũng như năm con bé có chết chăng nữa mà thành công vĩ đại như vậy ta cũng làm. Xưa kia Việt Vương dùng Tây Thi, mà phá tan một nước hùng mạnh. Tại sao ta không dùng các hậu thế của Tây Thi? Cháu phải nhớ rằng: Gái nước Việt yêu nước hơn yêu chồng. Đấy là nói chồng do cha mẹ kết hợp cho mà đã như thế, huống hồ đối với chồng xứ lạ. Vì sự nghiệp đất nước gái Việt phải lấy chồng ngoại sứ, thì không bao giờ họ bán rẻ đất nước cho mối tình cọc cạch đâu. Khu mật viện đã tâu lên Thượng hoàng. Hưng Đạo vương nhắc lại lệnh cũ:

“Hốt Tất liệt là người tài trí. Y dùng Hán pháp mà thành công. Nếu y tiếp tục cầm quân ở Trung nguyên thì y sẽ đánh bại Tống. Bại Tống rồi y sẽ đánh Đại Việt. Vậy cần làm cho y bị thu binh quyền. Mông Ca sẽ thân chinh. Mông Ca không có tài, lại kỳ thị người Hoa, trong khi binh tướng Mông Cổ ở Trung nguyên là của Hốt Tất Liệt toàn người Hoa. Mông Ca không thể bại được Tống”. 

Ngài hỏi:

– Thế Thanh Nga với bốn con bé đâu?

Phi chỉ năm nàng Đông hoa:

– Năm con bé Đông hoa hiện có mặt ở đây.

Năm nàng Đông hoa đứng dậy chắp tay:

– Bọn thần xinh kính cẩn bái kiến Thái hoàng Thái hậu.

Thái hoàng thái hậu vẫy tay. Năm nàng đến trước mặt ngài. Ngài ngắm từng nàng một:

– Thôi, ta muốn các cháu gọi ta là bà, nghe thân thiện hơn. Aáy à! Các cháu đẹp! Đẹp thực. Nói về nhan sắc thì các cháu ngang với Tô Lịch thất tiên. Nhưng Tô Lịch chỉ đẹp thể chất mà thôi. Còn cái đẹp về hồn thì thua các cháu xa. Xa lắm lắm.

Nói đến đây, ngài ôm lấy từng người một:

– Ta có năm đứa cháu thế này còn hơn có một kho vàng, một núi bạc.

Thanh Nga chắp tay:

– Chúng cháu còn nhỏ tuổi, không hiểu hết những lời nghị luận cao xa của tổ mẫu. Xin tổ mẫu thương xót chúng cháu mà giảng giải rõ hơn.

– Được, các cháu có thấy những giống nhau và khác nhau giữa Tô Lịch với Đông hoa không? Nào Thúy Nga, trước hết cháu nói về những gì các cháu với Tô Lịch giống nhau cho bà nghe nào?

Thúy Nga nói không cần suy nghĩ:

– Chúng cháu với Thất tiên có ba điều giống nhau. Một là cùng có mỹ danh. Bẩy chị được danh sĩ Thăng long tặng cho tên Tô Lịch thất tiên. Họ tặng danh hiệu vì cả bẩy chị cùng đem nhan sắc cho họ mua vui. Thành ra cái danh tiên nghe mà không thấy hưng phấn. Còn năm cháu được Vũ Uy vương, vương phi Ý Ninh là hai anh hùng trấn ngự biên cương, một Đô thống thống lĩnh Ngưu binh Dã Tượng; cả ba đều oai trấn Hoa Việt ban cho chúng cháu, để khuyến khích, để kết hợp chúng cháu với nhau làm những truyện vá trời.

– Giỏi.

– Hai là Thất tiên với chúng cháu cùng xuất thân từ những trường dạy ca hát danh tiếng Thăng long. Nghệ thuật đàn ca cùng đạt tới mức tài hoa bậc nhất Đại Việt.

– Giỏi.

– Ba là Thất tiên với chúng cháu đều được trời ban cho tấm nhan sắc hiếm có.

– Giỏi.

Ngài nhìn Thúy Trang:

– Bây giờ Thúy Trang, cháu hãy nói về những gì các cháu khác biệt với bẩy nàng Tô Lịch.

– Dạ. Chúng cháu với Thất tiên có ba điều khác nhau. Thứ nhất năm đứa chúng cháu đều xuất thân trong gia đình gia giáo. Cha mẹ ước thúc chặt chẽ. Chúng cháu học ca hát chỉ muốn trở thành những đấng tài hoa, rồi treo bảng tuyển phu. Còn bẩy nàng Tô Lịch thì học ca hát để trở thành ca kĩ lầu xanh, đem lời ca tiếng hát cho thiên hạ mua vui, bán thân cho bất cứ ai có tiền.

– Khá lắm.

– Thứ nhì, bẩy nàng Tô Lịch bán thân cho cả bọn Hồi. Sau khi thành vương phi, đại phu nhân mà chưa hết lòng chồng, vẫn còn lang chạ với bọn dơ bẩn này. Khi bị Mông cổ bắt, các nàng không đoái hoài tới liêm sỉ. Đáng lẽ phải tự tử để tạ lòng chồng, thì lại hãnh diện, lấy việc dâng thân xác cho giặc, cho kẻ thù của Đại Việt làm vinh hạnh. Rồi bây giờ bị bắt, bị đem ra xử, lại mặt chai, mày đáù, chua ngoa, đòi được quyền của vương phi, phu nhân. Bọn cháu thì không thế. Chúng cháu đem tiếng hát, câu ca ra chiêu dụ tướng giặc, hóa giải ác tính của tướng giặc, kéo tướng giặc làm lợi cho đất nước. Nếu tương lai có vì đất nước mà kết hôn với tướng giặc thì cũng lợi dụng vị thế phu nhân mà giúp nước. Nếu có con, thì cũng dạy con hướng về đất tổ. Nếu lỡ bị giặc giết, thì trở thành liệt nữ vị quốc vong thân, cha mẹ, tổ tiên được phong tặng, hương đảng kính phục. Điều mà không phải nữ lưu nào cũng làm được.

– Hà! Giỏi.

– Thứ ba, bẩy nàng đã không lấy việc bán thân cho giặc là nhục nhã, lại còn ganh ghét nhau, hại nhau. Chính mình làm gian tế cho giặc lại đi tố cáo các bạn làm gian tế cho giặc. Chúng cháu thì năm đứa như một, thương yêu nhau, nhất định sẽ là cháu vua Trưng, con bà Triệu, cương quyết sẽ làm được những gì ích quốc lợi dân.

– Khá! Bây giờ nếu bà gả các cháu cho người Mông cổ, người Tống. Các cháu có tuân không?

Thúy Trang tỏ ra cương quyết:

– Bà vì sự an nguy của Đại Việt mà gả chúng cháu cho người nước ngoài, thì cũng giống như bà sai chúng cháu ra trận. Chúng cháu nhất nhất tuân theo. Các nữ mục đồng thúc trâu xông vào muôn nghìn mũi tên, vạn vạn đao kiếm đánh giặc. Không lẽ chúng cháu lại tiếc gì tấm thân? Nhất định chúng cháu không làm xấu mặt con cháu vua Trưng đâu.

Nói rồi nàng đưa mắt nhìn Dã Tượng như ngụ ý:

– Anh ơi! Thanh Nga yêu anh! Ước mơ được làm vợ anh. Nhưng có một mối tình quan trọng hơn tình vợ chồng, đó là tình yêu nước. Nếu mai này Thanh Nga lấy Ngột A Đa, em chắc vì đại nghĩa dân tộc anh không buồn.

Dã Tượng nhìn Thanh Nga mỉm cười tỏ ý hiểu cái nhìn của Thúy Trang.

– Thế còn chỉ dụ thứ nhì? Ý Ninh, cháu tâu tiếp đi.

– Chỉ dụ thứ nhì là:

“Giúp Tống chống với Mông cổ, khiến cuộc chiến Mông-Tống kéo dài, càng dài càng tốt”.  

Chúng cháu kết thân với Tống bằng việc cứu Vương Kiên. Trong khi đó chúng cháu đề nghị triều đình khích Hoa kiều về nước chống Mông cổ, huấn luyện Hoa kiều thành một hiệu binh, đem hơn nghìn cao thủ võ lâm Trung nguyên về theo. Như vậy mặt trận Quan trung của Tống dư khả năng đánh bại Mông cổ.

– Việc này ta cũng biết rất chi tiết. Thế chỉ dụ thứ ba?

Vũ Uy vương trình:

“Ngăn cản, tiêu diệt những kẻ chủ xâm lăng Đại Việt. Điều khẩn cấp làm sao cho Mông cổ bỏ ý định đánh Đại Việt”.  

Chúng cháu khích Thừa tướng hành tỉnh của Mông cổ là A Lan Đáp Nhi. Y cam kết: người chủ đánh Đại Việt là Hốt Tất Liệt. Bây giờ y bị giải binh quyền, thì người kế y không đủ khả năng đánh Đại Việt.

Vương ngừng lại một lát rồi tiếp:

“ Còn chỉ dụ thứ tư, thứ năm là: diệt bọn thổ phỉ họ Thân xưng khống rằng gốc con cháu triều Lý đã lập một nước mà lãnh thổ gồm hai châu Văn sơn, Khâu bắc. Lấy khu đất tam biên thành lập châu Chiêu dương. Sát nhập Văn sơn, Khâu bắc, Chiêu dương vào cương thổ Đại Việt thành Trấn Văn Bắc. Việc này đã xong”.  

Tuyên Minh ban chỉ:

– Cháu đã biết rằng thế của ta với Tống như môi với răng. Môi Tống hở thì răng Việt lạnh. Triều đình nghị sự đưa ra ý kiến ta phải trợ giúp Tống chống Mông cổ. Nhiều vị đề nghị ta nên gửi một hay hai hiệu binh sang giúp Tống. Nhưng khi đi vào chi tiết thì có rất nhiều trở ngại. Một là binh tướng của ta sống ở vùng thấp nhiệt quen, bây giờ sang Tống, chiến đấu ở vùng khí hậu lạnh thì khả tác chiến giảm. Hai là binh tướng của ta không biết nói tiếng Trung nguyên. Ngôn ngữ bất đồng sẽ sinh ra những bất hòa. Ba là ngựa chiến, Kị binh, Ngưu binh ăn cỏ tươi, lúa, rau của ta quen rồi, bây giờ ăn cỏ khô của miền Bắc sẽ bị bệnh. Triều đình thỉnh ý kiến của Hưng Đạo vương. Vương lý luận: từ việc thu hồi trấn Văn Bắc, tổ chức binh, tướng của ba châu thành hiệu Văn Bắc. Tất cả binh lính hiệu này đều nói, viết thành thạo tiếng Hán. Kị mã, Kị binh, Ngưu binh vùng Văn Bắc khí hậu, rau cỏ đều giống như Trung nguyên. Vậy cháu có thể tăng viện hiệu Văn Bắc cho Tống.

Vũ Uy vương tỉnh ngộ, vương hỏi:

– Không biết hiệu binh Hoa kiều đã huấn luyện xong chưa?

– Xong rồi! Ta còn huấn luyện hơn vạn tráng sĩ làm trừ bị, sẵn sàng bổ xung khi tổn thất. Hiệu binh này mang tên Thiệu Hưng. Thiệu Hưng là niên hiệu của vua đầu tiên của Nam Tống.

Vương phi Ý Ninh tâu:

– Hiện chúng cháu đang gặp trở ngại trong vụ xử Tô Lịch thất tiên. Vụ này đụng chạm quá lớn, vì bẩy người này đều là vương phi, phu nhân của các cột trụ Đại Việt: Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh, Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, và hai đại tôn sư Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn. Mong bà xử lý cho.

Tuyên Minh xua tay:

– Không khó, trước khi lên đây ta đã hội ý với Thượng hoàng, với triều đình. Đối với bẩy con quỷ dâm dục Tô Lịch thất tiên ta không thể, không nên giết chúng, cũng không tha cho chúng. Các cháu phải hiểu rằng, chúng thiếu giáo dục căn bản, cho nên chúng không biết gì về giáo dục dân gian như tam tòng, tứ đức, liêm sỉ. Bởi thế làm sao chúng biết về truyền thống Lạc Long, truyền thống Lĩnh Nam, dĩ chí đến truyền thống vua Lê, vua Lý chúng cũng không biết là lẽ đương nhiên. Bây giờ đem chúng ra xử, thì nhẹ nhất chúng cũng bị voi dầy, ngựa xé. Bố, mẹ, anh em đều bị sát thân. Chồng thì bị xử tử, nhẹ thì bị cách hết chức tước đuổi về dân dã. Việc này làm rúng động đất nước.

Ngài ngừng lại một lát rồi tiếp:

– Vì vậy ta phải lên đây giải quyết. Ta quyết định, trước đem chúng ra tòa xử cho công minh, để chúng biết tội. Sau ta dùng cha mẹ, anh em chúng mà kiềm chế chúng; rồi đem chúng gả cho bọn Mông cổ. Ta ngồi trong bóng tối điều khiển chúng để biết nội tình Mông cổ. Cũng có thể dùng chúng xúi dục chồng chúng chống đối nhau. Khi chúng đới tội lập công, thì chồng cũ cũng được ân xá.

Ngài chỉ Linh Từ quốc mẫu:

– Vài hôm nữa, Tòa tổng trấn Bắc cương sẽ thiết lập phiên tòa xử chúng cho thực đúng tội.

Ba hôm sau, phiên tòa xử Tô Lịch thất tiên được thiết lập.

Chánh thẩm: Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Kim Dung.

Phụ thẩm: Vương phi Trần Ý Ninh, tước phong Thạc hòa, Minh đức, Trang duệ, Vũ thắng công chúa. Lý Như Lan tước phong Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa.

Chấp cung: Đô thống Lý Thúy Hồng, tước phong Trang văn, Hồng hạnh Quận chúa và đô thống Lê Linh Anh, Ngưu tướng, tước Nghi tàm quận chúa.

Công tố: Văn bác thượng tướng quân, tước Văn sơn Nam, Nguyễn Địa Lô.

Bẩy nàng Tô Lịch được đưa ra trước tòa. Bẩy nàng đã từng biết Linh Từ quốc mẫu từ mấy năm trước. Bấy giờ quân Mông cổ phá vỡ phòng tuyến Phù lỗ, Cụ bản đang tràn về Thăng long. Quốc mẫu suất lĩnh nữ binh, di tản toàn thể hậu cung, vợ con tướng sĩ rời Thăng long, để triều đình rảnh tay đối phó với giặc. Nhưng bẩy nàng cãi lệnh, trốn tại Nghi tàm được giặc đón đi. Bây giờ Quốc mẫu ngồi ghế chánh thẩm thì bẩy nàng không thể già mồm được. Cả bẩy cùng cúi mặt xuống.

Quận chúa Lý Thúy Hồng đọc bản cáo trạng:

“ Bị cáo là Tô Lịch thất tiên gồm bẩy người đàn bà nhan sắc diễm lệ, nức tiếng tài sắc tại Thăng long. Theo thứ tự như sau:

Hoàng Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Lê Thị Phương Dung, vợ kế của Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ, Đồng tri Khu mật viện, Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh.

Bạch Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Đặng Thị Anh. Thứ thiếp của Phiêu kị thượng tướng quân, Nhân huệ vương Trần Khánh Dư.

Huyền Hoa, 24 tuổi, nhũ danh Vương Hoài Linh, kế thất của Thái tử thiếu sư, quản Khu mật viện, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu.

Thanh Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Tô Kim Huệ, thứ thiếp của Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm.

Hồng Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Vũ Nguyệt Hương, thứ thiếp của Vũ kị thượng tướng quân Kiến phong hầu Lý Tùng Bách.

Tử Hoa, 23 tuổi nhũ danh Cao Đại Nhu, thứ thiếp của Lê Kim Sơn, chưởng môn phái Sài sơn.

Lan Hoa, 23 tuổi, nhũ danh Cao Thiếu Nhu, thứ thiếp của Lê Ngân Sơn, phó chưởng môn phái Sài sơn.

Cả bẩy người đều xuất thân từ gia đình nghèo khó, nhan sắc kiều diễm; được các kĩ viện Tây hồ, Ngọc thụy, Nghi tàm mua về từ năm 13 tuổi, rồi cho học ca, nhạc tại những trường danh tiếng Thăng long. Sớm nổi danh tài sắc, treo cao giá ngọc, chỉ đàn hát không bán thân như kĩ nữ, quyết giữ trinh trắng. Thân vương, đại thần, danh sĩ thi nhau quẳng tiền qua cửa sổ để được nghe hát. 
Chủ Quán văn Tô Lịch bỏ ra nghìn vàng, mua các nàng về quán mình. Một nàng, đã quy tụ được nhiều khách tài tử, huống hồ cả 7. Thế là bẩy nàng được tặng cho mỹ danh Tô Lịch thất tiên. 
Tiếng đồn sang tới Trung nguyên, Mông cổ, Chiêm thành, Chân lạp. Bọn mặt dơi tai chuột làm gian tế cho Mông cổ hết lời ca tụng bẩy nàng, đẹp hơn Tây Thi khi xưa, đến nỗi vua Mông cổ là Mông Ca, hoàng đệ là Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca từng ước ao sao đem được một nàng về làm phi tần. 
Trước hết tôi xin nhắc lại những trọng tội trong bộ Hình luật, có khoản nói về Thập ác. Bất cứ người nào, dù hoàng thân, dù có đại công cũng không được giảm khinh. Đó là: 
Đệ nhất Mưu phản.

Đệ nhị Mưu đại nghịch.
Đệ tam Mưu bạn.
Đệ tứ Ác nghịch.
Đệ ngũ Bất đạo.
Đệ lục Đại bất kính.
Đệ thất Bất hiếu.
Đệ bát Bất mục.
Đệ cửu Bất mục.
Đệ thập Nội loạn.

Trở lại với bẩy nàng nổi tiếng tài hoa, sắc nước hương trời. Nhưng đó là bề ngoài, sự thực vàng, ngọc đã làm các nàng tối mắt lại, bán rẻ cái danh, bán rẻ nét cao sang, cả bẩy nàng đã đem ngọc liên thành bán cho bọn Hồi tại Thăng long.  
Từ thời Lý, bọn Hồi từng đến Thăng long mở cửa hàng buôn bán. Bọn này da ngăm đen, râu tóc, lông lá như thú vật, khó kiếm được vợ. Chúng thường tới các kĩ viện tìm bọn kỹ nữ. Chúng chi rất rộng, vì vậy bọn gái bán thân thi nhau dâng hiến thân xác cho chúng để kiếm tiền. 
Trong các lái buôn Hồi thì tên Mộ Hợp Mễ An Hat San làm gian tế cho Mông cổ. Thành công nhất về thương trường, y sẵn sàng vung tiền ra để mua bất cứ kĩ nữ nào mà y muốn. Y đã nhiều lần tới Quán văn Tô Lịch nghe các nàng hát, y say mê các nàng đến điên đảo thần hồn. Y cậy mai mối quyết được gần các nàng với bất cứ giá nào”. 

Phụ thẩm vương phi Trần Ý Ninh truyền ngừng dọc bản cáo trạng, gọi nhân chứng Hat San vào. Phi hỏi:

– Đạo sư Hat San. Đạo sư đã mua nàng nào đầu tiên, trong bẩy nàng Tô Lịch?

– Thưa tòa, tôi mua nàng Tô Kim Huệ (Thanh Hoa) đầu tiên. Qua chân tay của cơ sở Thăng long, tôi biết cha mẹ Huệ nghèo khó. Nhà chỉ khá hơn từ khi Huệ về hát cho Tô Lịch. Mỗi tháng Huệ giúp cha mẹ được một hay hai lượng bạc. Người mai mối của tôi nói với cha mẹ nàng rằng nếu nàng chịu tiếp tôi một đêm tôi sẽ biếu cha mẹ nàng 10 lượng vàng.

Phụ thẩm, công chúa Lý Như Lan hỏi:

– Thông thường nhân chứng đến kĩ viện mua dâm thì trả cho kĩ nữ bao nhiêu tiền khi qua một đêm?

– Một lượng bạc.

– Một lượng vàng ăn mười lượng bạc. Như vậy nhân chứng trả gấp 100 lần. Thế cha mẹ nàng bằng lòng ngay hay còn treo cao giá?

– Cha mẹ nàng vui lắm, nhưng Kim Huệ không chịu, nàng đòi 100 lượng vàng.

– Nhân chứng chịu hay xin giảm giá?

– Dạ tôi xin y giá, vì chữ trinh đáng giá nghìn vàng. Tôi ra điều kiện Kim Huệ phải xuống du thuyền sống với tôi trong nửa tháng. Ngã giá. Kim Huệ xin phép chủ Quán văn về thăm quê. Trong nửa tháng sống với Kim Huệ, tôi chiều nàng rất mực. Khi rời nhau, tôi tặng nàng chuỗi ngọc trai 120 viên, một đôi xuyến vàng. Từ đấy mỗi khi nàng qua đêm với tôi, tôi lại cho nàng 5 lượng vàng.

– Còn lại sáu nàng, nhân chứng mua bằng cách nào?

– Cũng giống như Kim Huệ, nhưng giá rẻ hơn. Chỉ trong vòng nửa năm, cả bẩy nàng đều trao thân cho tôi hết. Thế nhưng tất cả danh sĩ đế đô ai cũng tưởng sáu nàng còn trinh trắng cao quý vô cùng.

Vương phi Ý Ninh hỏi:

– Một mình nhân chứng mà qua lại với bẩy người một lúc ư?

– Không! Tôi không muốn giữ cả bẩy người. Tôi chia cho ba đạo sư đồng sự. Khi hẹn một nàng xuống du thuyền, tôi ngỏ ý rằng nàng gần tôi mãi cũng chán. Tại sao không trao thân cho các bạn của tôi? Lúc đầu tôi tưởng các nàng phản đối, không ngờ nàng nào cũng vui vẻ. Trong mấy năm trời bốn anh em chúng tôi tận hưởng hương vị của hoa khôi đế đô, mà không ai biết.

– Nhân chứng có cho tất cả các nàng biết rằng những người bạn đều đã bán thân cho nhân chứng với các bạn không?

– Không! Nàng nào cũng tưởng bốn chúng tôi sủng ái mình nàng thôi. Hôm nay sự đã xẩy ra như thế này thì cả bẩy nàng đều biết rõ sự bí mật rồi. Không dấu được nữa.

Chánh thẩm truyền:

– Đọc tiếp cáo trạng.

Quận chúa Thúy Hồng tiếp:

“ Qua cuộc đối thoại vừa rồi, thì bẩy người bán thân như vậy là phạm vào điều 7 của Thập ác”.  
“ Sau hơn năm bơi lội trong sắc đẹp của bẩy nàng, bốn đạo sư quanh Hat San kiệt lực do dâm dục quá độ, do tuổi già sức giảm. Hat San thuyết phục các nàng: Thầy đồ già, con hát trẻ. Xưa nay dù Tiên, Phật, Thánh, Thần cũng không tránh được tuổi già. Các nàng tuổi đã trên 20, phải treo bảng tuyển phu, kiếm lấy một đấng trượng phu làm chồng. Hat San hứa: sau khi các nàng có chồng, y sẽ tìm cách tới phủ đệ của các nàng biếu phương vật, quà cáp, truyện phòng the vẫn tiếp tục.  
Niên hiệu Nguyên phong thứ năm (1255), cả bẩy treo bảng tuyển phu với giá ngọc liên thành:  
Quan võ phải từ cấp Đô thống,

Quan văn phải từ cấp Lang trung,
Hoàng tộc từ tước Hầu,
Phú gia, danh sĩ muốn dự phải nộp lễ 500 lượng vàng.

Sau 10 ngày, bẩy nàng đã tuyển được trượng phu. Cả bẩy nàng được trượng phu sủng ái cực kỳ. Bẩy nàng người thì về vương phủ làm vương phi, kẻ thì về làm đại phu nhân. Hát San ra vào các phủ dễ dàng, vì các nàng nói với chồng rằng y là tay sai của các nàng. Y muốn dựa thế các nàng để dễ buôn bán. Các ông chồng tuyệt không biết rằng tuy đã có chồng, mà các nàng vẫn ngựa quen đường cũ. Bẩy nàng đã phạm vào diều 9 của Thập ác.”.  

Phụ thẩm, vương phi Ý Ninh hỏi Phương Dung (Hoàng Hoa):

– Khi còn ở Quán văn Tô Lịch, thì bị cáo vì tham tiền bán xác cho Hát San có thể hiểu nổi. Thế sao nay thành vợ của đại thần, tiền rừng bạc biển, mà bị cáo còn tiếp tục truyện chó lợn với y?

Mặt Hoàng Hoa vẫn tươi như hoa, không chút sợ hãi, cũng chẳng chút ngượng ngùng:

– Thưa vương phi, ngay trước hôm tôi lấy chồng. Y xin gặp tôi để tặng một chiếc vòng ngọc bích. Y nói thực rằng y làm Tế tác cho Mông cổ. Y yêu cầu tôi ba việc. Một là khi y cần, tôi phải lấy cớ xin về thăm nhà, rồi tiếp tục chăn gối với y, với bạn y. Y sẽ cho cha mẹ tôi nhiều vàng. Hai là trong cương vị phu nhân, tôi phải thu thập tin tức của Đại Việt cung cấp cho y, y gửi cho Mông cổ. Ba là khi các cơ sở thương mại của y gặp khó khăn, thì bằng mọi giá tôi phải nài nỉ với chồng cứu y. Nếu không tuân ba điều trên, y sẽ tố cáo việc tôi bán trinh, bán thân, làm Tế tác cho Mông cổ. Trường hợp này không những tôi mất địa vị phu nhân, mà bản thân bị tội voi dầy, ngựa xé đã đành cha mẹ, anh em đều bị chết chém.

Phụ thẩm công chúa Lý Như Lan hỏi:

– Còn sáu bị can! Các bị can bán thân cho Hat San có giống Hoàng Hoa không?

– Thưa không khác làm bao.

– Các bị cáo đang là một con hát, một bước thành đại phu nhân. Vậy các bị cáo có hãnh diện không?

– Lọ là phải nói, tự bản thân chúng tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Cha mẹ, anh em, họ hàng cùng thơm lây.

– Thế trong những lúc trốn nhà trao thân cho Hat San, các bị cáo có thấy hối hận không? Có biết như vậy là lỗi đạo với chồng không?

– Khi gần chồng tôi cũng vẫn thường nghĩ đến Hat San. Khi gần Hat San tôi cũng nghĩ đến chồng. Cả hai người đều đem cho tôi hạnh phúc riêng, tôi chả bao giờ hối hận, cũng chẳng thấy lỗi đạo với chồng gì cả.

Quận chúa Thúy Hồng kết luận:

“ Qua thú nhận vừa rồi thì Thất tiên lại phạm vào điều 5, 8, 10 của Thập ác”. (1)

Vương phi Ý Ninh hỏi:

– Trong bẩy trượng phu của bẩy nàng, người nào cũng từng có vợ, hơn nữa nhiều vợ. Nhất là hai đại sư phái Sài sơn là Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn đều là danh y. Thế mà khi đem các nàng về làm vợ, không lẽ họ không biết các nàng đã mất trinh, hơn nữa từng đã bướm chán ong chường với ít nhất bốn người? Bị cáo Vũ Nguyệt Hương! Bị cáo phải khai rõ đã dùng thuật gì mà dối được chồng!

Mặt Vũ Nguyệt Hương (Hồng Hoa) hớn hở, không ngượng ngùng, tỏ ra hãnh diện, thuật:

– Chúng tôi nhờ thầy lang Vũ Y. Truyện này lâu ngày quá tôi không nhớ rõ thầy đã làm gì, dạy chúng tôi những gì.

Văn bác thượng tướng quân Địa Lô là người giỏi y khoa, xin trả lời tòa:

– Thầy lang Vũ Y nức tiếng Thăng long về Vu Sơn. Thầy đã dạy 7 nàng cách lừa chồng. Trong giới bình khang có nhiều thuật qua mặt khách làng chơi. Thường thì khi môt cô gái mất trinh, lúc sắp lấy chồng, sợ chồng biết mình mất trinh rồi, thì họ tìm một thầy lang chuyên về Vu Sơn giúp. Thầy lang dạy cho thân chủ phương pháp Hồi trinh, nghĩa là phục hồi trinh giả. Cô gái phải tuân thủ ba điều:

Thứ nhất, một cô gái mất trinh, dù đã giao hoan với nhiều người, nhiều lần, mà chưa sinh con, nếu trong vòng hai tháng không giao hoan với đàn ông, thì cửa mình khép chặt lại như gái đồng trinh. Người chồng không tinh tế khó mà biết được. Vì vậy cả bẩy bị can Tô Lịch mới xin hoãn đám cưới đến hơn hai tháng, để đạt mục đích.

Thứ nhì, dùng máu mào gà đực, trộn với nước vỏ lựu đỏ nghiền ra; cất trong cái hũ nhỏ. Đợi khi sắp động phòng thì đổ vào âm hoa.

Thứ ba, khi động phòng phải giả vờ e thẹn, giả vờ đau đớn, dẫy dụa, để người chồng mất tinh tế.

Sau khi giao hoan, người chồng thấy nước vỏ lựu, máu mào gà chảy ra, lại thấy cửa mình vợ thắt chặt, vợ đau đớn; thì tưởng vợ còn trinh. (2)

Vương phi Ý Ninh chán ngán:

– À thì ra thế, nên vừa kinh nghiệm vừa giỏi y học như hai đại sư Kim Sơn, Ngân Sơn mà cũng bị lừa.

Quận chúa Thúy Hồng tiếp tục đọc bản cáo trạng:

“ Hồi Mông cổ sắp nhập biên, triều đình kêu gọi dân chúng rời Thăng long. Linh Từ quốc mẫu tổng chỉ huy hậu cung, vợ con tướng sĩ lánh nạn về Thiên trường. Thất tiên cũng chuẩn bị theo. Nhưng Hat San gặp các nàng thuyết phục rằng: các phu nhân làm Tế tác cho Mông cổ, thì việc gì phải chạy. Mông cổ vào Thăng long, các tướng Mông cổ sẽ tưởng thưởng các phu nhân. Không chừng các phu nhân còn được các vương hầu Mông cổ thu làm vương phi. Nghe lời Hat San cả bẩy người tạm ẩn ở Nghi tàm. Như vậy bẩy người lại phạm trọng tội 1, 2, 3 Thập ác. Khi Ngột Lương Hợp Thai chiếm Thăng long, Hat San mật cáo với y rằng bẩy tiên nữ đẹp nhất Đại Việt hiện ở Nghi tàm. Ngột Lương Hợp Thai sai một Thiên phu đi rước các nàng, đem về cho ở trong cung thất Hoàng thành. Y lệnh cho tên Trịnh Ngọc bắt tỳ nữ hầu hạ, cung phụng ẩm thực cực kỳ chu đáo. Chính y tuyển Hoàng Hoa làm tỳ thiếp. Hoài Đô tuyển Bạch Hoa, A Truật tuyển Huyền Hoa. Còn Thanh Hoa, Hồng Hoa, Tử Hoa, Lan Hoa thì khi một trong ba tên thấy thích thì thu dụng qua một vài lần. Vì vậy giữa các nàng bắt đầu nảy sinh ghen tương, mạ lị lẫn nhau, thậm chí đánh nhau. Sau ít ngày Ngột Lương Hợp Thai thấy tình hình Thăng long bị đe dọa, y sai Lý Long Vân đem bẩy nàng về Văn sơn. Vợ chồng tên Trịnh Ngọc vẫn được cử theo hầu hạ, cung phụng.

Bại trận tại Đại Việt, Ngột Lương Hợp Thai sợ bị Hốt Tất Liệt trị tội, y mới nghĩ đến việc đem Thất tiên cống cho chúa tướng. Y sai vợ chồng tên Trịnh Ngọc đem bẩy nàng về Côn minh, nhưng khi đi đường, Tế tác Tống biết được. Tống tưởng các nàng bị cưỡng bức mang đi, họ nhờ Hoa sơn ngũ hiệp cứu bẩy nàng. Chính vì lẽ đó khi bẩy nàng được giải thoát, gặp Dã Tượng, Thúy Hồng mà cả bẩy không hề tỏ vẻ mừng rỡ, vì giữa việc được về Đại Việt sống với chồng, gần cha mẹ, quê hương với việc làm vương phi Mông cổ. Cả hai đều có những cái vui, cái buồn như nhau. 
 Bị mất cống vật, Ngột Lương Hợp Thai sai tên Long Vân đem bộ hạ, vợ chồng tên Trịnh Ngọc đi tìm cách đoạt lại. Cả bọn đến Bồ lăng thì gặp con thuyền của Hat San đang chở hàng từ Kinh châu vào Thành đô. Tên Ngọc trình sự việc cho cha.  
Hồi ở trong nước mỗi khi Hat San muốn liên lạc với Thanh Hoa, y cùng nàng ước hẹn ghi những ký hiệu trên đường đi. Khi y lên bến Bồ lăng, quả nhiên y thấy kí hiệu của Thanh Hoa ở một vài nơi. Trước hôm đi lễ đền Tam anh, Thanh Hoa âm thầm gặp Hát San báo cho y biết rõ tình hình. Hát San trao thuốc mê cho Thanh Hoa, hẹn rằng: khi đi lễ đền thờ Tam anh xong tất cả đoàn sẽ thụ lộc, nàng phải bỏ vào thức ăn cho cả đoàn mê man.  
Hat San báo chư sự với Lý Long Vân. Long Vân cho bộ hạ phục ở đền thờ Tam anh, đợi khi tất cả mê man, thì sẽ đem về thuyền của y. Đối với Dã Tượng, y quẳng xuống sông phi tang. Còn Thúy Hường, vì có nhan sắc diễm lệ, y sẽ giữ lại dâng cho Mông cổ. 
Không ngờ trong đoàn của Lý Long Vân có đại sư Huệ Đăng cùng quận chúa Lý Như Lan. Sư đã âm thầm thu Khâu bắc ngũ hổ tướng làm đệ tử. Tất cả đang chờ dịp là ra tay trừ tên thổ phỉ Long Vân để giải thoát cho 20 vạn dân Khâu bắc, Văn sơn. 
Thanh Hoa thành công trong việc đánh thuốc độc, nhưng không ngờ Dã Tượng luyện Vô ngã tướng thiền công, bách độc không làm gì được, lại thêm sự xuất hiện của Địa Lô. Thế là Lý Long Vân bị bắt, vợ chồng tên Trịnh Ngọc cũng bị bắt. Thanh Hoa phạm điều 5 tội Thập ác. 
Tất cả hành vi của Thanh Hoa bị Hoàng Hoa biết. Do ghen ghét, Hoàng Hoa báo cho Dã Tượng với Địa Lô, để nhờ tay hai người trừ đi một tình địch lợi hại. Vì vậy Địa Lô, Dã Tượng mới phục trong đêm, biết rõ Thanh Hoa dùng cưa cứu bọn họ Trịnh. Trên đường đi Giang an, Hat San bơi sang thuyền sứ đoàn thông dâm với Hồng Hoa. Nhờ Hồng Hoa y biết rõ Dã Tượng, Địa Lô rất lợi hại. Hat San sai Hồng Hoa đánh thuốc độc giết Địa Lô, Dã Tượng, thuyền phu, rồi cướp bẩy nàng với Thúy Hồng mang đi Độ khẩu dâng cho Hốt Tất Liệt. Không ngờ trong bóng tối, Địa Lô đã đổi thuốc, thành ra nàng hai lần ra tay, mà không thành công. 
Lúc thuyền tới Lục bàn thủy, Dã Tượng, Địa Lô, Thúy Hồng thấy quân Lý Long Vân đang giao chiến với quân của sư Huệ Đăng. Ba người lên bờ tiếp viện, thì Thanh Hoa ra lệnh cho Hat San quay thuyền bỏ chạy. Vũ Uy vương đã tiên liệu, lệnh cho Đại đởm thập tam kiệt cùng đội Ngưu binh của Lê Linh Anh tuần tra trên sông Hoành giang bắt lại”.  

Linh Từ quốc mẫu hỏi bẩy bị cáo:

– Bản cung từ có chỗ nào sai không? Các bị cáo có bị ép cung không?

Mặt Thanh Hoa lạnh lùng, không hề xuất hiện một chút xấu hổ hay hối hận:

– Không có chỗ nào sai cả. Chúng tôi cung khai hoàn toàn tự ý. Chấp cung Lý Thúy Hồng cũng như Lê Linh Anh không hề ép cung.

Công tố Văn sơn Nam Nguyễn Địa Lô đứng dậy, chỉ vào mặt bẩy bị cáo:

“ Bẩy người này sinh ra là con dân Đại Việt, trời cho t ấm nhan sắc khuynh quốc. Lại được nuôi dạy đàn hát, thành đại danh. Đáng lẽ phải giữ tấm thân trinh tĩnh, giữ đạo Tam tòng. Thế nhưng chỉ vì lòng tham, bán tấm nhan sắc cho bọn rợ, làm Tế tác cho ngoại bang, tàn hại đất tổ. Khi đã một bước thành vương phi, thành đại phu nhân, đáng lẽ phải giữ địa vị cao quý của mình, thì lại tiếp tục trao thân cho bọn Hồ. Lúc bị giặc bắt, đáng lý phải tự tử để giữ tấm thân trong sạch, tạ lòng chồng, lại bất cố liêm sỉ coi việc trao thân cho giặc làm hãnh diện. Thực kinh khủng.

Bản điều tra rất rõ ràng, tất cả bẩy bị can phạm 12 tội đại hình. Trong đó có 9 tội trong Thập ác phải xử lăng trì; cha mẹ, anh em cũng bị xử trảm, tịch thu điền sản; 5 tội phải cho voi dầy, ngựa xé, 4 tội phải xử trảm. Vậy xin tòa lên một án thực nghiêm khắc để răn đe”.  

Linh Từ quốc mẫu hỏi:

– Các bị cáo có điều gì khai nữa không?

Cả bẩy bị can đều òa lên khóc.

Thanh Hoa vốn già mồm, thị vừa khóc, vừa nói:

– Chúng tôi tự cảm thấy chẳng có tội gì cả. Chúng tôi có nhan sắc thì muốn trao thân cho ai tùy thích. Tại sao tòa lại cấm chúng tôi? Chúng tôi chỉ phạm có một tội là làm Tế tác cho Mông cổ mà thôi. Triều đình kết tội Mông cổ là tàn ác, là khát máu. Thế nhưng những vương hầu, võ tướng Mông cổ nâng niu, chiều chuộng chúng tôi. Còn Đại Việt thì giam chúng tôi như giam lợn, giam chó, rồi đem chúng tôi ra xử. Tôi không phục.

Hoàng Hoa thấy Thanh Hoa ngoa ngoét, mụ tỏ ra quật cường, càng già mồm hơn:

– Còn như tại sao chúng tôi lại muốn bỏ chồng Việt, lấy chồng Mông cổ? Các tướng Mông cổ là những thân vương của Thiên triều. So với những ông chồng của chúng tôi làm quan ở cái xứ thấp nhiệt, nhỏ bằng hạt vừng hạt đậu này. Hỏi địa vị của ai lớn hơn, oai hơn? Các tướng Thiên triều thân thế cao sang tới trời, mà họ không bao giờ chấp nhất quá khứ chúng tôi bán thân cho các đạo sư, hay quá khứ chúng tôi có chồng Việt. Họ không bắt chúng tôi phải tam tòng, tứ đức hay ngũ, bát đức gì hết. Ở với Mông cổ, chúng tôi được chiều chuộng, về với Đại Việt chúng tôi bị đem ra xử nhục nhã như thế này đây.

Thanh Hoa tiếp lời:

– Tòa kết tội chúng tôi bán thân cho rợÏ Hồ ư? Hồi còn đi hát ở Quán văn Tô Lịch, mỗi khi các vương hầu thưởng tiền chúng tôi, cao lắm cho chúng tôi một hay hai lượng bạc. Trong khi tất cả các đạo sư Hồi thưởng thì ít nhất một lượng vàng. Xin hỏi tòa như vậy người Hồi tốt hay vương công Việt tốt?

Hồng Hoa tiếp:

– Da rợ Hồ đen, nhưng bạc của chúng trắng. Người chúng to béo nặng nề, hôi thối, nhưng vàng của chúng không hôi. Chúng tôi được tiếng là đại phu nhân, mà thảng hoặc chồng mới cho một lượng vàng. Còn các đạo sư, mỗi lần chúng tôi trốn chồng trao thân cho họ, họ cho đến năm lượng vàng.

Công chúa Lý Như Lan nổi cáu:

– Bị cáo Vũ Nguyệt Hương! Bị cáo có chồng, còn đem thân trao cho mọi, mà không biết đó là điều kinh tởm; đã vậy còn lấy đó làm vinh dự sao? Theo bộ Hình thư thì tội có chồng còn lang chạ thì bị ngựa xé. Có chồng còn bán thân thì bị voi dầy. Bị can có biết không?

– Tôi không cần biết luật lệ rắc rối đó.

Quốc mẫu mắng:

– Nếu bị cáo thách thức, ngông cuồng, tòa cho voi dầy tức khắc không cần tuyên án.

Ngài quát:

– Võ sĩ đâu?

Bốn võ sĩ Đại đởm từ ngoài dạ ran vào chờ lệnh. Quốc mẫu chỉ Hồng Hoa:

– Đem con điếm già họng cho voi dầy tức thời.

Mặt Hồng Hoa tái xanh, im bặt. Hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp.

Võ sĩ Đại đởm tâu:

– Hiện tại đây chỉ có một thớt voi biết hành hình. Mà thớt voi đó đang diễn tập. Xin Quốc mẫu để ngày mai.

Nói rồi võ sĩ mang mụ ra khỏi phòng xử.

Linh Từ quốc mẫu ban chỉ:

– Các bị cáo có muốn nói gì nữa không?

Không thấy bị cáo nào nói nữa, Quốc Mẫu ban chỉ:

– Những người này trời cho nhan sắc, nhưng họ chưa được dạy dỗ, thành ra không biết tội mình. Ý Ninh, cháu dạy cho họ biết thế nào là tội phản quốc đi.

Vương phi Ý Ninh đứng lên giảng giải về nguồn gốc, chủ đạo tộc Việt từ khi lập quốc đến thời vua An Dương, vua Trưng; người người cùng hy sinh bảo vệ đất tổ. Rồi trải qua các cuộc khởi binh của bà Triệu, tiền Lý; chiến thắng của vua Ngô, vua Lê. Gần đây là những cuộc đánh Tống, bình Chiêm thời Lý. Cuối cùng là cuộc đuổi Mông cổ vừa qua.

Tiếp theo, công chúa Lý Như Lan giảng về đạo Tam tòng, Tứ đức cùng đức hạnh mà người con gái phải có.

Sau khi nghe giảng, bẩy nàng như người mù được mở mắt. Cả bẩy cùng òa lên khóc, xin tòa xử nhẹ cho phần nào.

Linh Từ quốc mẫu tuyên chỉ:

– Tòa ngừng xử. Mười ngày sau sẽ tuyên án.

Tuy là tử tội, nhưng bẩy nàng vẫn không bị giam, được nuôi ăn chu đáo, lại có người hầu hạ. Mười ngày sau, Thị vệ từ Thăng long giải bố-mẹ, anh-em của Thất tiên lên chờ thọ hình. Thất tiên thấy gia đình thì ào ra hỏi thăm.

Mẹ của Huyền Hoa khóc nức nở nói:

– Hôm qua, Thị vệ tới đọc bản án bắt cả nhà. Trai từ 15 tuổi, giái từ 13 tuổi. Lệnh bắt nói rằng con phạm tội phản quốc, nên cả nhà sẽ bị chết chém. Của cải xung công.

Gia đình các tiên khác cũng thuật tương tự. Vũ Uy vương truyền Thị vệ cởi trói cho gia đình bẩy nàng. Được hội ngộ với con, biết con sắp bị giết, cả nhà bị giết; gia đình kêu gào thảm thiết. Kẻ khóc, người than trước cảnh con gái làm tội, cả nhà bị vạ lây.

Bẩy nàng cùng gia đình lên tới 105 người, được tự do trao đổi tin tức trước sân Khu mật viện Văn sơn. Xung quanh sân có một đàn chó canh phòng.

Giữa lúc đó có ba tiếng trống, ba tiếng thanh la đánh lên. Mọi tiếng khóc, mọi tiếng than im bặt

Quang minh, Trang liệt, Hồng anh công chúa Lý Như Lan đi giữa, bên trái có Đô thống, Nghi tàm quận chúa Lê Linh Anh, bên phải có Đô thống, Trang văn Hồng hạnh Dương xá quận chúa Lý Thúy Hồng; lưng đeo bảo kiếm. Phía sau hai Đại đởm dẫn hai con cọp. Uy thế ngất trời. Công chúa lên một cái đài bằng gỗ cao mười thước (2 m ngày nay).

Đô thống Lê Linh Anh cầm loa chỉ vào đôi cọp gọi:

– Tất cả im lặng, bất cứ ai lên tiếng, thì sẽ cho cọp vồ ăn thịt liền.

Cả sân im phăng phắc. Linh Anh tiếp:

– Tất cả quốc phạm quỳ xuống nghe tuyên án.

Các tội nhân quỳ gối. Công chúa Lý Như Lan cầm loa đọc bản án. Nội dung bản án nhắc lại tội trạng Tô Lịch thất tiên, y theo đề nghị của công tố. Tất cả bẩy bị can phạm 12 tội đại hình. Trong đó có 9 tội trong Thập ác phải xử lăng trì; cha mẹ, anh em cũng bị xử trảm, tịch thu điền sản; 5 tội phải cho voi dầy, ngựa xé, 4 tội phải xử trảm. Tuy nhiên vì Hoàng đế mới lên ngôi vua, nên không áp dụng cực hình lăng trì, mà chỉ cho voi dầy. Còn lại cha, mẹ, anh, chị em thì tha cho tội chết, mỗi người đàn bà chỉ bị chặt một tay, mỗi người đàn ông bị chặt một chân. Các can phạm được một đặc ân là thượng biểu xin Hoàng đế ân xá hay giảm án. Nếu biểu gửi đi trong một tháng không có chiếu chỉ ân xá, giảm án thì án sẽ thi hành. Trong thời gian chờ đợi, các tử tội vẫn được nuôi ăn, đối xử như tù nhân bình thường.

Đô thống Lê Linh Anh tiếp:

– Do các bị cáo là quốc phạm, các bị cáo bị tước hết tài sản, tước hết quyền trong gia đình: làm vợ làm mẹ, làm con. Kể từ hôm nay các can phạm trở thành thứ dân, không được quyền xưng là vương phi, phu nhân. Nếu các can phạm còn tiếm xưng thì sẽ bị đánh 20 trượng tại chỗ.

Đại đởm thập tam kiệt chia tội nhân thành bẩy khu. Mỗi khu cho một tử tội với gia đình.

Thanh Nga nhìn đám tử tội cùng người thân than khóc thảm thiết thì mủi lòng. Nàng rủ bốn người bạn Đông hoa xin vương phi Ý Ninh cho các nàng được an ủi, vĩnh biệt Thất tiên.

Năm nàng Đông hoa đem riêng 7 nàng Tô Lịch ra một vườn hoa của điện Long thụy Văn sơn. Hoàng Hoa than:

– Các em cùng học một trường với bọn chị, mà nay bọn chị trở thành quốc phạm, thân bại, danh liệt. Nay mai bị voi dầy, thực là nhục nhã. Còn các em thân thể trở thành cao quý. Gia đình các chị thì nhà cửa tan nát, cha mẹ, anh em thành tội đồ. Ngược lại cha mẹ các em thì được ban hàm chức tước, hương đảng kính trọng. Ôi! Đúng là số phận.

Thanh Hoa khóc:

– Bây giờ muộn quá rồi! Các em ơi! Tại sao các chị đang là những đóa hoa được chiều chuộng rất mực, bỗng chốc trở thành tử tội? Số phận của các chị bây giờ là số phận con rệp. Ước gì các chị có thể đái tội lập công, thì dù phải nhảy vào nước vào lửa các chị cũng nhảy.

Hồng Hoa nói với Thanh Nga, Thúy Hồng:

– Hai em được Vũ Uy vương phi yêu thương cực kỳ. Hai em có thể năn nỉ với phi giúp các chị được không?

Quận chúa Thúy Hồng lắc đầu:

– Khi vua tuyên án, thì phi cũng không làm gì được.

Hồng Nga chỉ Thanh Nga:

– Xét tội các chị, khi Hoàng đế xử, thì dù Linh Từ quốc mẫu có muốn nới cũng không được. Chỉ duy Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu mới có quyền hủy án của Hoàng đế. Em thấy Thanh Nga, Thúy Hồng được Tuyên minh Thái hoàng Thái hậu yêu thương nhất. Nếu hai chị năn nỉ với ngài thì hy vọng.

Thanh Nga là người quá nhiều tình cảm. Thấy hoàn cảnh Thất tiên, nàng cũng mủi lòng:

– Hồng Nga ơi! Hồng Nga luôn có ý kiến thông minh. Hồng Nga chỉ cho em tâu như thế nào bây giờ? Tâu phải hợp lý mới được.

Hồng Nga mỉm cười:

– Thì Thanh Nga cầu cứu với cụ Khổng Minh non Địa Lô, cụ sẽ mách mánh cho.

Quận chúa Thúy Hồng tán thành:

– Thiên trường ngũ ưng tính khí tuy cương nghị, ngoài cứng mà trong mềm. Các anh ấy coi bọn mình như em gái. Tại sao mình không tìm các anh ấy, rồi làm nũng, thì gì mà không xong? Nhất là cái anh Dã Tượng, dù nói cách nào anh ấy cũng là chồng Thanh Nga. Thanh Nga cứ lấy lý mình là vợ, liếc mắt đưa tình, đá lông nheo, thì gỗ cũng phải động lòng huống hồ anh Dã Tượng.

Hồng Nga lại thiết kế:

– Anh Dã Tượng thì thích ăn thịt lợn quay. Anh Địa Lô thì thích cá nướng. Anh Cao Mang thì thích gà hấp. Ở đây chúng mình đều có tài làm bếp cả. Chiều nay mình làm ba món đó rồi mời các anh ấy xơi. Khi các anh ấy trót xơi xong, mình mới vấn kế. Thôi các chị đi làm món ăn đi. Em với Thúy Trang mời các anh ấy cho.

Hồng Nga, Thúy Trang tìm anh em Dã Tượng, giữa lúc cả ba đang ngồi đọc sách binh thư. Ba người thấy Hồng Nga, Thúy Trang thì ngừng đọc sách. Cao Mang hỏi:

– Hai cô em xinh đẹp đi đâu đây?

– Bọn em mời ba anh chấm thi.

– Thi gì?

– Thanh Nga, Thúy Nga, Thúy Hồng làm thịt lợn quay, cá nướng, gà hấp nấm. Cả ba nhờ hai đứa em mời ba anh chấm, xin ba anh đoán xem đứa nào làm món gì. Món gì ngon nhất.

Dã Tượng cười:

– Chà! Các cô tiên nga mà ra tay thì bọn anh ăn đến nuốt cả lưỡi vào. Nào đi. Ai có ý kiến mời ăn thế này nhỉ?

– Dạ, thưa là phu nhân của Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Trần Quốc Kinh đấy ạ.

Thiên trường tam ưng là những anh hùng tài trí bậc nhất thời Đông a, trong khoảnh khắc, họ đâu ngờ năm cô em gài bẫy. Chiều hôm ấy ba người tới căn nhà của năm nàng Đông hoa. Năm nàng mặc y phục rất giản dị: áo cánh mầu tím, quần lụa đen, đầu quấn khăn nhiễu hồng. Dã Tượng thấy Thanh Nga đẹp mộc mạc, đẹp hồn nhiên, thì lòng rúng động:

mình trúng tuyển làm chồng nàng, mà không cưới nàng làm vợ kể ra cũng uổng! 

Thấy Dã Tượng nhìn mình say đắm, tim Thanh Nga đập loạn xạ, liếc mắt đưa tình, nàng cất tiếng hát theo điệu Xẩm:

Anh ơi chua ngọt đã từng,

Non xanh, đất đỏ xin đừng xa nhau.

  Thúy Nga trêu Thanh Nga, nàng hát theo điệu Trống quân:
Nhớ ai dạ những bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?

Giữa căn phòng, một cái bàn bầy ra: một đĩa lớn thịt gà hấp nấm, một đĩa nữa đầy thịt heo quay, da vàng ngậy, mà thớ thịt trắng. Một đĩa đựng ba con cá chép nướng vàng, bốc hơi thơm nực.

Năm nàng ngồi xen với ba chàng. Cao Mang hỏi:

– Ai là chủ tiệc xin lên tiếng đi chứ?

Thúy Nga đánh trống mảnh, Thúy Trang thổi tiêu, Hồng Nga vỗ trống cơm, Thúy Hồng cầm cây nhị kéo, Thanh Nga cất tiếng hát theo điệu Chầu văn:

Của thơm, thơm cả bầu trời,

Miếng ngon, ngon nhất xin mời quý nhân.
Lợn quay em ướp ngũ hương ấy a…
Gà rừng em hấp với tương ì a tương, tương Tây hồ.
Cá sông, í a cá chép nướng khô,
Thỉnh người quân tử i ạ hãy cho… vào mồm.
Ý ì a a.

Dã Tượng háu ăn, cầm đũa gắp miếng thịt lợn quay nhai dòn rôm rốp:

– Ôi thịt lợn thơm ngon thế này thì do Thúy Nga làm đây.

– Không đúng.

Thúy Nga hỏi: Sao anh đoán do em làm?

– Anh chả có tài cán gì đâu. Vì làm thịt lợn quay thì phải ướp. Mà anh thấy tay em còn có mầu phẩm, thì đoán già thôi.

– Lầm rồi! Vợ anh làm đấy. Khen vợ một tiếng nữa đi.

Dã Tượng đưa mắt nhìn Thanh Nga:

– Vợ tôi vừa đẹp như hoa mới nở, hát hay, lại có tài biến hóa ra món ăn ngon thế này thì ra kiếp trước tôi đã làm hòa thượng rồi.

Lần đầu tiên được Dã Tượng nhận làm vợ, Thanh Nga bủn rủn cả chân tay:

– Hòa thượng?

– Ừ! Anh đã gõ thủng 18 cái mõ, nên kiếp này mới được làm chồng em.

Thanh Nga cảm động:

– Anh à! Từ hôm anh trúng cách trong buổi tuyển phu của em đến giờ đã mấy năm rồi, anh có biết câu tục ngữ: Hoa nở có thì không?

Câu trách móc của Thanh Nga làm rộn lên một niềm hối hận trong tâm Dã Tượng. Bất chấp xung quanh có nhiều người, chàng nắm tay Thanh Nga:

– Em ơi! Suốt từ ngày ấy đến giờ, chúng mình luôn bên nhau mà. Thời gian đi Bồ lăng, cạnh anh có Thúy Hồng, xinh đẹp, dịu dàng, nhưng bao giờ anh cũng chỉ biết có em mà thôi. Sau cuộc tuyển phu, chúng mình tuy chưa treo cưới, nhưng chú thím tán thành, bạn hữu công nhận thì cũng như cưới rồi vậy.

Thúy Nga trêu:

– Chưa đủ! Phải có một cái gì gì nữa kia, như mời bọn nay ăn một bữa.

Nói rồi nàng chỉ vào đĩa cá nướng.

Địa Lô ngửi ngửi cá nướng:

– Ôi trời đất, thánh thần ôi! Ai nướng cá theo lối hồ Tây thế này, thơm đến chết mũi thì Ngự trù cũng phải chịu thua.

– Cũng vợ anh Dã Tượng đấy.

Cao Mang nhìn đĩa thịt gà:

– Các em tìm đâu ra những loại nấm tía mà đem hấp với gà rừng, thì người chết có ngửi mùi cũng sống dậy xin ăn.

Tám người vừa ăn, vừa hát. Tiệc gần một nửa thì có tiếng nói vọng vào:

– Anh em ăn với nhau, mà quên bọn này ư?

Như Lan, Hĩm Còi bước vào. Thanh Nga chắp tay:

– Hai chị đi chầu hầu Quốc mẫu thành ra chúng em không mời được. Bây giờ mời hai chị cùng ăn với chúng em cho vui.

Nàng kéo ghế mời hai người ngồi. Bữa tiệc thành 10 người. Dù họ là anh hùng, dù họ là người tài trí, nhưng họ đều còn trẻ. Họ vừa ăn, vừa ca hát và luôn bàn chuyện đất nước. Ăn gần xong, Hĩm Còi móc trong bọc ra một con dao nhỏ, để lên bàn. Dã Tượng hỏi:

– Gì vậy?

– Để tất cả chúng ta cùng mổ bụng, trả lại món ăn ngon cho năm nàng tiên Đông hoa.

Dã Tượng kinh ngạc:

– Em nói?

– Chúng mình kinh lược ba châu này thấm thoát đã gần năm. Có bao giờ năm nàng Đông hoa làm bếp cho mình ăn đâu? Thế mà bỗng dưng các nàng làm những món ăn mà ba ông anh đều thích, thì có nghĩa là các nàng muốn ba ông anh làm giúp cho việc gì khó lắm. Nếu như các anh không làm được thì phải mổ bụng trả món ăn cho năm nàng.

Cao Hoang mở to mắt:

– Cái cô Hĩm Còi này tinh tế thực, bọn anh tuyệt không đoán ra ý thầm kín của năm cô em Đông hoa. Hĩm Còi xứng đáng làm Phó thống lĩnh Ngưu binh. Anh nói thực, nếu anh là tướng Mông cổ chỉ huy kị binh đánh nhau với Ngưu binh của em ắt cũng bị thua.

Dã Tượng hỏi:

– Năm cô em xinh đẹp! Hĩm Còi nói có đúng không?

Cả năm nàng cùng lên tiếng:

– Đúng.

Dã Tượng giật bắn người lên. Địa Lô hỏi:

– Các em muốn ba anh trả tiền ba món ngon này bằng vụ gì? Vào rừng bắt cọp? Xuống biển mò ngọc trai hay……lấy ông sao trên trời?

Thanh Nga thuật lại chuyện Tô Lịch thất tiên nhờ nàng tâu xin Thái hoàng thái hậu ân xá cho họ, nhưng nàng không biết tâu như thế nào?

Hĩm Còi là Ngưu tướng, ngoài cứng mà trong mềm. Nàng thở dài:

– Kể ra bẩy mụ Tô Lịch quả là những đóa hoa hiếm có trên đời. Nhưng là hoa dại, các mụ không được giáo dục, nên nào có biết mình làm những điều xấu xa, kinh tởm. Bây giờ đem bẩy mụ cho voi dầy thì cũng đáng tiếc. Chị Như Lan ơi, chị đọc thiên kinh vạn quyển chị có cách gì cứu 7 nàng không? Còn ba anh, ba anh có mưu kế gì giúp chị Thanh Nga cứu các nàng không?

Như Lan nở nụ cười tươi như hoa hồng ban mai:

– Ba anh là người có đại công với Xã tắc. Ba anh xin với Thái hoàng Thái hậu giảm án cho mấy mụ. Nếu ngài chưa quyết, ba anh xin với đại sư Huệ Đăng nói thêm vào nữa, thì gì mà không xong. Ba anh tâu xin giảm tội chết, bắt 7 mụ làm nô tỳ, rồi mỗi anh đem một nàng về hầu hạ. Như vậy các nàng mới dứt được cái kiêu khí tự cao mình đẹp nhất thiên hạ.

Thanh Nga nhảy dựng lên:

– Em không dại gì mà để mỡ trước mặt mèo đói. Bẩy mụ này từng bán thân, kinh nghiệm phòng the có thừa mà để các mụ ấy ngày đêm cạnh ông chồng em, thì em không thể an tâm.

Như Lan kinh ngạc:

– Em không tin Dã Tượng à? Dã Tượng là Tả thiên ngưu vệ Thượng tướng quân, tước tới Khâu Bắc bá. Tư cách ít ai bì kịp. Từ hôm gặp nhau đến giờ chị thấy ba ông này là đấng chính nhân quân tử, là đấng anh hùng, đâu thèm ngó tới bọn liễu ngõ hoa tường, bọn đầu đường xó chợ?

– Không! Không! Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Em không tin. Mỡ để trước mặt mèo, mà mèo không xơi là mèo mù. Ông chồng em không mù đâu. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Không, em thà nhìn bẩy nàng bị voi dầy chứ không chịu cho các nàng làm nô tỳ cho chồng em đâu.

Rồi nàng thuật lại việc Hồng Hoa giả đau bụng, Địa Lô chữa trị cho nàng, bản lĩnh Địa Lô cao như vậy mà cũng chịu không được, phải bỏ chạy mới thoát thân.

Địa Lô gật đầu:

– Không nên! Không thể gần bẩy mụ này. Nguy hiểm lắm.

Nam nói với Thanh Nga, Thúy Hồng:

– Việc xin Thái hoàng Thái hậu, phi Thúy Hồng, Thanh Nga e không xong. Sáng mai, hai em chầu hầu Thái hoàng Thái hậu, nhất định ngài sẽ hỏi ý kiến hai em về bẩy con quỷ Tô Lịch. Hai em thưa rằng: xưa nay luật pháp vốn có hai chủ đích. Một là hành tội để làm gương cho kẻ ác. Hai là giáo huấn kẻ lỗi lầm. Giữa việc giết bọn Tô Lịch, với tha cho họ để họ đới tội lập công thì điều nào lợi? Làm tội để người khác coi gương mà sợ thì qua việc xử án, tiếng vang cũng tạm đủ. Bọn mặt dơi tai chuột nghe đồn đã vỡ mật rồi. Vậy thì chi bằng ân xá cho bẩy người, rồi dạy cho họ nghệ thuật chinh phục bọn vương tôn Mông cổ, nghệ thuật khai thác tin tức của Mông cổ. Rồi ta đem bẩy nàng cống cho chúng. Thế là ta có đến 14 cái tai, 14 cái mắt trong tâm triều đình Mông cổ. Ta lại đem cha-mẹ, anh-em bẩy nàng ra an ủi: họ được ân xá. Nếu như con-em họ lập được công, họ còn được ban ân hàm, phong chức tước như cha mẹ Thúy Hồng.

Mọi người xuýt xoa. Thanh Nga hỏi:

– Tội bẩy nàng quá nặng, liệu Thái hoàng Thái hậu có nghe em không?

– Ngài là người tài trí kinh thiên động địa. Gì mà ngài không nhìn rõ điều ích quốc lợi dân này.

Năm nàng cùng Địa Lô tấu nhạc, ca hát cho tới canh hai mới giải tán.Trước khi ra về Địa Lô bẹo tai Hồng Nga:

– Trong năm cô, chỉ mình cô lắm mưu nhiều mẹo. Mưu làm món ăn ngon nhử các anh thế này ngoài cô không ai nghĩ ra được.

Hồng Nga cười khúc khích:

– Anh muốn mắng gì em cũng chịu. Mưu này dù hay, dù dở, dù xấu, dù tốt, thì ít ra ba anh cũng được ăn ngon. Đại Việt cũng đặt được tai mắt trong triều đình Mông cổ.

– Phụ nhân chân khả úy (Đàn bà thực đáng sợ).

Hơn nửa tháng sau triều đình gửi một tấu chương của Hoàng đế lên thỉnh Thái hoàng Thái hậu xử lý vụ Tô Lịch thất tiên. Sứ giả là Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung. Vương mang theo hai Đô thống Yết Kiêu, Đại Hành và một toán 10 người, trong đó có 5 nam, 5 nữ đều không tiết lộ thân thế. Dã Tượng được vương dạy võ công, dạy Thiền công, Bá chưa chính thức bái sư, nhưng trong tâm Bá coi ông như sư phụ. Thấy vương lên, Bá mừng chi siết kể. Vũ Uy vương dẫn tất cả tướng sĩ ra đón vương.

Hưng Ninh vương là sứ giả, nhưng Thái hoàng Thái hậu là bà cố (cụ) nội vương. Linh Từ quốc mẫu là thái cô (bà cô) vương. Vương phải tới bái yết, mật tấu với hai ngài trước khi hội ngộ với Vũ Uy vương. Không biết Thượng hoàng, triều đình sai vương truyền chỉ dụ gì cho hai vị. Chỉ thấy hai vị và vương hội với nhau gần nửa ngày mới dứt. Mọi người đều tự hỏi 5 nam, 5 nữ tuổi hơi cao, gương mặt sáng sủa mà không tiết lộ nhiệm vụ. Địa Lô tước Văn sơn Nam, kiêm châu trưởng, được lệnh Vũ Uy vương cung cấp chỗ ở, lương thực cho 10 người.

Thiên trường ngũ ưng hội ngộ, mừng chi siết kể. Cả năm thuật cho nhau tất cả biến chuyển trong thời gian xa cách. Dã Tượng hỏi thăm Yết Kiêu về sức khỏe nghĩa phụ Hưng Đạo vương, vương phi và chư sự trong vương phủ rồi hỏi:

– Chúng mình năm đứa, chưa đứa nào có sư phụ chính thức, hiện có Hưng Ninh vương ở đây. Vương là Bồ tát sống, tại sao chúng mình không năn nỉ xin bái vương làm bổn sư, để được vương giảng lẽ huyền diệu của Phật pháp cho chúng mình?

Yết Kiêu lắc đầu:

– Chỉ sợ vương không nhận.

– Lòng dạ vương là lòng dạ Bồ tát, nhất định vương sẽ nhận. Nào chúng ta đi tìm vương đi.

Có tiếng nói trầm trầm của Linh Từ quốc mẫu:

– Vương đang ngồi ở bờ suối, sau vườn hoa. Năm cháu cứ tới đó mà bái sư.

– Đa tạ bà dạy dỗ.

Cả năm tới bờ suối, quả nhiên Hưng Ninh vương đang ngồi thiền. Không dám làm khinh động vương, cả năm chắp tay đứng hầu sau vương. Vương mở mắt mỉm cười nhìn năm người. Trong lòng năm người cảm thấy mát rượi, tâm như mở lớn ra. Vương nói:

– Năm con là những tinh hoa của tộc Việt, phúc trạch khôn lường. Các con với ta vốn có duyên từ kiếp trước. Bây giờ thầy trò mới tái hồi là hơi chậm đấy. Kể từ lúc này, ta vừa là bổn sư, vừa là sư phụ của năm con. Hôm nay ta chưa cho pháp danh các con. Phật pháp đặt căn bản trên chữ duyên. Khi duyên tới ta sẽ cho các con pháp danh. Các con cần nhớ: pháp danh của ta là Tuệ Trung. Các con đừng gọi ta là sư phụ, bản sư, cứ gọi ta là thầy. Nhớ đấy.

Rồi vương giảng sơ yếu Phật học, tinh hoa của kinh Kim cương, Lăng già. Nghe xong, cả năm cảm thấy người như bay lên mây, sảng khoái không bút nào tả xiết.

Cả năm chưa kịp hỏi gì thì vương đã nhập tĩnh. Năm anh em nháy nhau, rời xa, để vương luyện thiền.

Dã Tượng hỏi Đại Hành:

– Hưng Đạo vương sai hai em lên đây có việc gì vậy?

Đại Hành chỉ Yết Kiêu:

– Vương sai anh hai mang đội Ngạc ngư lên huấn luyện cho Hiệu binh Văn bắc một Vệ Ngạc ngư. Còn em, em mang đội Phi mã lên huấn luyện cho Hiệu Văn bắc một Vệ ngựa trạm Lưu tinh mã. Còn huấn luyện Vệ Ngưu binh thì anh với Hĩm Còi phụ trách.

Vương phi Ý Ninh cho năm nàng Đông hoa, Lý Như Lan, Lê Linh Anh hội ngộ với Thiên trường ngũ ưng. Một bên là những anh hùng khí phách, tài trí bậc nhất, bậc nhì đương thời, lại từng lập công trong trận đánh hồi Nguyên phong thứ bẩy. Một bên là những thiếu nữ sắc nước hương trời, tài hoa, đang độ trổ mã. Cho hay anh hùng với giai nhân cùng kiếp hoa nghiêm dễ hợp với nhau. Họ có một tụ điểm: tấm lòng son nhiệt thành với đất nước. Mười hai người gặp nhau, truyện nổ như pháo rang.

Tuy vương phi ở địa vị thím của Thiên trường ngũ ưng, nhưng tuổi phi với họ sàn sàn nhau. Phi tự nghĩ: đám người này tuổi đã trên dưới 20 rồi. Nam thì tài trí, khí phách, nữ thì nhan sắc, tài hoa đang độ hoa nở. Phi cần phải dựng vợ gả chồng cho chúng. Đây là điều tế nhị mà vương không thể làm được. Phi phải làm.

Phi hỏi Thiên trường ngũ ưng:

– Này 5 đại ưng! Tục ngữ nói nữ thập tam, nam thập lục. Các cháu lớn tồng ngồng cả rồi, mà chưa ai lấy vợ cả. Kỳ này hội ngộ ở đây, thím phải hỏi vợ cho các cháu mới được.

Lời nói của phi làm Ngũ ưng im bặt. Họ nhìn nhau tự hỏi: Ừ nhỉ, tại sao cả năm đứa chưa đứa nào từng nghĩ đến cưới vợ cả.

Khâu Bắc bá Dã Tượng chống chế:

– Thưa thím, về gia tộc thím là thím, cũng như là mẹ. Thím thay chú lo dựng vợ cho chúng cháu, chúng cháu thâm cảm vô cùng. Nhưng thím ơi, kể từ khi cỡi trâu đánh giặc tới giờ trải đã ba năm. Nợ nhà, nợ nước, nợ dân nặng chĩu đôi vai. Năm nào cũng bận, tháng nào cũng bận, ngày nào cũng bận, giờ nào cũng bận. Chúng cháu không có một khắc dành cho bản thân mình, thì sao mà cưới vợ được. Nam nhi đại trượng phu Đại Việt chưa trả xong nợ dân, nợ nước thì cưới vợ chỉ thêm thê nhi vướng vít mà thôi.

Yết Kiêu thấy bà thím này một lòng lo lắng cho mình, Nam rất cảm động:

– Cháu biết thím vì yêu thương mà để tâm đến chúng cháu. Như anh cả nói, chúng cháu qúa bận quốc sự mà quên mất thân mình. Thím nhắc chúng cháu mới chợt nhớ.

Phi chĩa ngón tay chỏ sẽ búng hai cái vào tai Dã Tượng, Yết Kiêu:

– Thím sẽ hỏi vợ cho các cháu, giống như Thượng hoàng gả thím cho chú. Các cháu sẽ cùng vợ sát cánh làm truyện quốc sự, chứ không phải ngày ngày ngồi kẻ lông mày cho vợ đâu mà sợ.

Hồng Nga cười khúc khích:

– Này năm anh. Năm anh từng đánh nhau với Lôi kị Mông cổ. Lôi kị hung dữ như vậy mà năm anh coi chúng như bầy vịt. Thế nhưng vương phi mới nhắc đến hỏi vợ cho năm anh, mà năm anh đã nhảy choi choi là cớ gì?

Yết Kiêu hứ một tiếng:

– Vì bọn anh chỉ biết xung trận mà không biết kẻ lông mày.

Hồng Nga nháy phi rồi chỉ Địa Lô với Như Lan, tay che miệng cười. Phi hiểu ý Hồng Nga, đưa mắt nhìn Như Lan, rồi nhìn Địa Lô:

– Địa Lô! Thím đã nhắm cho cháu một nơi. Nàng là cành vàng lá ngọc, võ công, tài trí, bút mặc văn chương, trong giới nữ lưu ít ai bằng. Cháu không phải kẻ lông mày cho nàng đâu.

Từ hôm gặp Như Lan, Địa Lô bị nét thanh lịch, dáng quý phái, cùng văn tài của Như Lan làm cho Nam xao xuyến. Còn Như Lan thì bị Đại Việt đệ nhất mỹ nam tử hút mất hồn. Bây giờ nghe vương phi Ý Ninh nói, bất giác họ nhìn nhau. Hai ánh mắt sáng ngời nồng nàn, tha thiết như hương thơm của hoa xuân.

Địa Lô đánh trống lảng:

– Nhà có nóc! Anh em chúng cháu năm đứa thì anh Dã Tượng lớn nhất. Xin thím bắt anh Dã Tượng, Yết Kiêu cưới vợ trước. Cháu nhỏ nhất sẽ cưới vợ sau cùng.

– Dã Tượng thì đã có nơi rồi. Không cần phải bàn. Còn bốn cháu. Thím nói cho bốn cháu, với bốn cô bé Đông hoa, cô bé Hĩm Còi biết. Ai đã trót tư tình đính ước mật với người nào đó thì khai ra, thím tác thành cho. Bằng không thím thấy ai mà thím ưng ý là thím kết thành đôi. Bấy giờ đừng có dẫy như đỉa phải vôi.

Yết Kiêu trêu lại Hồng Nga:

– Cháu thấy Hồng Nga xinh đẹp, đoan trang, thùy mị, lại là kiều nữ tài hoa. Cháu đề nghị thím gả Hồng Nga cho một tướng Mông cổ. Y sẽ mê Hồng Nga đến hết biết đường ra lối vào. Khi vua Mông cổ sai y đánh mình, Hồng Nga đá lông nheo một cái, y bủn rủn chân tay. Bấy giờ cháu bắt y như bắt ba ba trong rọ.

Ghi chú.

(1) Dưới triều Trần trong non hai thế kỷ, hai bộ luật đã được ban hành. 
1. Bộ đầu tiên do vua Trần Thái Tông (1225-1258), ban hành. Triều Lý có bộ Hình thư, ảnh hương nhiều của Phật giáo. Cuối đời Lý loạn lạc, kỷ cương xã hội lỏng lẻo.Khi vua Trần Thái Tông lên ngôi, thấy cần phải thiết lập lại trật tự xã hội, nên tu sửa một số điều bộ Hình thư. Theo Đại Việt sử ký tháng 3 niên hiệu Kiến Trung thứ 6 (1230) vua cho khảo định lại lệ của các triều vua trước, sửa đổi hình luật, định lại lễ nghi, soạn thành quyển Quốc triều thông chế, gồm có 20 quyển. Các sách sử ký khác đại để cũng chép như vậy.  
Theo Lê Quý Đôn, vua Trần Thái Tông đầu niên hiệu Kiến Trung, cho nghiên cứu thể lệ các vua đời trước để làm thành luật, nay không còn. 
Theo sách Lịch triều hiến chương đại chí của Phan Huy Chú, Văn tịch chí cũng chép bộ Quốc triều thông chế, ngày nay chỉ có một đoạn trong bộ Lịch triều hiến chương, mục Hình luật chí chép như sau: 
“ Năm thứ thứ 6, niên hiệu Kiến Trung, đời vua Thái Tông nhà Trần, làm sách Quốc triều hình luật, khảo xét những luật lệ đời trước làm ra. Lại định luật về tội đồ; tội nặng thì phải đồ làm « Điền hoạch giả » (kẻ nô bộc làm ruộng), và phải thích vào mặt 6 chữ, và đến xã Nhật quả, cầy cấy ruộng công 3 mẫu, mỗi năm nộp 300 cân thóc. (Khâm định việt sử chép là làng Nhật tảo). 
Những kẻ phải làm lính Lao thành thì phải thích vào trán 4 chữ, bắt làm quân Tứ sương cắt cỏ ở Thăng long và Phượng thành. Lại định lệ câu tụng (đòi bắt các đương sự hầu kiện), cho phép những « viên giám câu, giám tụng », (lính đòi bắt những kẻ bị kiện hay bị can) được lấy tiền « Cước lực », (tiền đi đường, đi chân), tính theo nhật trình xa gần.  
Vẫn dưới thời vua Thái Tông năm Thiên ưng Chính bình (1334) có cho định lại cách thi hành các luật hình.  
2. Bộ luật thứ hai của Trần triều được ban hành dưới thời vua Trần Dụ Tông (1341-1369). 
Theo Lê Quý Đôn, đầu niên hiệu Thiệu phong (1341), Trần Dụ Tông sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn soạn quyển Hình luật thư, nay không còn. 
Theo Đại Việt sử ký, mùa thu tháng 8, năm Thiệu phong thứ nhất (1341), vua sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định quyển « Hoàng triều đại điển » và khảo soạn quyển « Hình thư » ban hành. 
Hai bộ luật nhà Trần ghi trên đây, ngày nay không còn di tích. Tuy nhiên theo Phan Huy Chú, các luật dưới nhà Trần cũng như luật nhà Lý, tuy không biết rõ các điều khoản, song chắc là châm chước theo luật nhà Đường và nhà Tống, chỉ thay đổi ít nhiều các hình phạt.  
3. Những tài liệu trên đây không đủ cho ta có một quan niệm sơ lược về tinh thần luật pháp triều Trần. Song ta có thể dựa vào vài việc đã chép trong sử để hiểu rõ hai sắc thái đặc biệt của nền pháp luật này.  
4. Luật nhà Trần rất khắc nghiệt 
– Lịch trìều hiến chương có đoạn “ Dưới triều Lê, luật pháp cũng qui định tiền Cước lực”. 
Các sử gia thường đem so sánh tính cách nhân nhượng, khoan hồng của luật pháp triều Lý với các hình phạt quá nặng của triều Trần. Khâm định việt sử thông giám cương mục chép rằng vì nhà Trần soán đoạt ngôi vua của nhà Lý, nên không đặt được luật lệ phân minh, mỗi triều vua thay đổi mỗi cách. Luật pháp thường rất khắc nghiệt. 
Sau đây là một vài thí dụ còn lưu trong sách cổ:  
 – Theo sách Cố sự sao ngôn của Trần Cương Trung, mà Phan Huy Chú đã chép lại thì các nô tỳ trốn đi, khi bị bắt đều phải chặt ngón chân và giao lại cho chủ cũ. Chủ cũ được toàn quyền định đoạt về sinh mạng hoặc cho voi dầy. 
 – Ngoài ra để tránh các sự trộm cắp, luật nhà Trần cũng trừng phạt rất nghiêm ngặt tội này. Kẻ bị tội trộm cắp, bị thích vào trán hai chữ phạm đạo (nghĩa là phạm tội ăn trộm) và phải bồi thường 9/10 đồ vật đã lấy trộm. Nếu không bồi thường được sẽ bị tịch thu vợ con. Trường hợt tái phạm sẽ bị chặt tay, chặt chân hay bị voi dầy. Tái phạm lần thứ ba sẽ bị giết. 
– Đàn bà đã có chồng mà còn can tội ngoại tình, sẽ bị xử làm tỳ (đầy tớ gái) và chồng có quyền gả bán cho người khác. 
– Thân phận của con nợ cũng bị luật pháp quy định rất khắc nghiệt. Nếu không trả được nợ, con nợ bị chủ nợ được quyền tự ý giam cầm cho đến khi trả hết được cả vốn lẫn lãi. Nếu không trả được, thì phải đợ mình cho chủ nợ để làm việc lấy công chuộc nợ.  
(2). Trong truyện Kiều, khi Mã Giám Sinh đã giao hợp với Thúy Kiều, sợ Tú Bà biết, đã mưu dùng thuật này: 
Nước vỏ lựu, máu mào gà,

Mượn mầu chiêu tập vẫn là còn nguyên.

Trong khoa Vu Sơn (sexology) Hoa-Việt cổ, có rất nhiều thuật Hồi trinh. Ngày nay (2002) các cô gái Hoa Việt đã phiêu lưu, bướm chán ong chường, rồi khi lấy chồng, muốn qua mặt chồng đã nhờ bác sĩ làm màng trinh giả cho.



Chiến Giới 4D
Phiên bản dành cho Android tại đây!
Hồi (1-61)


<