Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Tào Tháo thiên bá - Hồi 28

Tào Tháo thiên bá
Trọn bộ 31 hồi
Hồi 28: Tây đánh Trương Lỗ, đông phá Tôn Quyền
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-31)

Năm Kiến An thứ mười chín (năm 214 công nguyên), Tào Tháo đang xử lý sự kiện Phục hậu ở Hứa Đô, cũng là lúc Tháo luôn luôn nhận được tin tức về các hành động quân sự của Lưu Bị ở Ích Châu.

Vào một ngày tháng tám, khi Tháo và các mưu sĩ Giả Hủ, Lưu Hoa đang bàn việc quân trong phủ Thừa tướng, thấy Hứa Chử dâng mật thư của thám mã lên.

Tháo mở mật thư ra xem, thấy nói Lưu Bị đã chiếm được Thành Đô. Một vài cơ bắp trên mặt Tháo giật giật, miệng lẩm bẩm:

- Đủ lông đủ cánh, đủ lông đủ cánh rồi mà...

Nhiều năm bên cạnh Tào Tháo, chưa bao giờ Giả Hủ thấy tinh thần Tháo suy sụp như lúc này. Giả Hủ đến xem bức thư, quả tin tức động trời. Lưu Hoa yên lặng xem mật thư. Thái độ kiên định của Lưu Hoa khiến Tháo bình tĩnh hơn.

Tháo trầm mặc, hai tay chắp sau lưng bước ra khỏi phòng. Các mưu sĩ bước theo sau. Lúc này trung thu, bầu trời trong xanh, không một gợn mây. Tháo ngước mắt nhìn lên, một đàn nhạn đang bay về nam. Xa xa nhìn một con nhạn khác đơn độc đang gắng sức bay theo đàn, Tháo liên tưởng, tiếc rằng mình đã bỏ qua Lưu Bị lúc cùng đường mạt lộ năm đó, để bây giờ phải chịu hậu quả nặng nề. Đó chính là mệnh trời vậy! Tháo cảm thấy hối hận.

Lưu Hoa nói:

- Khi Huyền Đức thế cùng lực kiệt, Chúa công thu nạp, xem trọng tài đức của ông ta; lúc này chắc gì ông ta chỉ có ý đồ vùng vẫy ở Ba Thục.

Tháo hỏi:

- Ý kiến của ngươi như thế nào?

Lưu Hoa nói:

- Huyền Đức đã có Ích Châu; lương nhiều, quân mạnh, lại có Gia Cát Lượng giỏi bề trị nước, thì một khi đã vững chân ở đất Thục, ông ta sẽ sang chiếm Hán Trung. Hán Trung là vùng vành đai của Quan Trung và đất

Thục, là vùng trù phú nhất thiên hạ. Chiếm được vùng này thì thế quân Lưu Bị càng thêm mạnh mẽ.

Tào Tháo quay lại hỏi ý kiến Giả Hủ. Hủ nói:

- Chúa công nên đem quân lấy ngay Hán Trung, chậm chạp sẽ mất hết thời cơ. Trương Lỗ tính tình nhu nhược, cùng những tín đồ của mình cai trị Hán Trung. Anh em và lũ thân tín của Trương Lỗ thường xuyên xung đột, nếu ta vừa li gián vừa đem đại quân uy hiếp, chẳng mấy chốc sẽ phá được Trương Lỗ.

Ý kiến của hai mưu sĩ làm Tháo hài lòng.

Chiến dịch Tây Lương xong. Tháo để Hạ Hầu Uyên và một cánh quân ở lại Quan Trung nhằm tiếp tục thu phục bà con thiểu số ở Tây Bắc, và giám sát mọi hành động quân sự ở Hán Trung.

Về mặt quân sự, Tháo là người quyết đoán, khi mọi việc đã bàn bạc xong, tháo muốn nhanh chóng thực hiện. Tháo về phủ, giao nhiệm vụ cho các quan.

Giả Hủ, Lưu Hoa khởi thảo phương án tác chiến. Giả Quỳ, Tư Mã Ý phụ trách công việc hàng ngày ở phủ. Vương Xán, Trương Thừa, Tân Bình, Dương Tu giúp Giả Hủ, Lưu Hoa hoàn thành phương án. Đỗ Kỷ lo lương thảo, binh khí cùng quân trang, quân dụng. Sau đó Tháo lại bàn bạc với các tướng: Trương Cáp, Từ Hoảng, Chu Linh, Hạ Hầu Đôn, Tào Hưu, Tào Chân. Nhận nhiệm vụ xong, ai về chỗ ấy, lo chuẩn bị.

*

Công việc chuẩn bị chưa đến nửa tháng đã xong. Hạ Hầu Uyên bình định Tây Lương, Ung Châu, uý lạo dân chúng xong xuôi cũng quay về Hứa Đô, ra mắt Tào Tháo.

Mãi đến khuya, Hạ Hầu Uyên mới về đến Hứa Đô.

Khi Tháo đang ngồi phê duyệt cuốn "Mạnh Đức Tân Thư", là tâm huyết và công sức hơn mười năm trời mới viết xong, có người bẩm báo Uyên đã tới. Tháo mừng rỡ ra đón tận cửa.

- Hạ Hầu tướng quân, gian nan vất vả, Tháo xin đa tạ.

Hạ Hầu Uyên vội vàng bái lạy và nói:

- Mạt tướng công cán gì đâu, Thừa tướng khen như vậy bằng giết mạt tướng đó!

Tháo đỡ Uyên dậy và hai người hàn huyên mấy câu, rồi lệnh thân binh bầy tiệc để Uyên tẩy trần.

Tháo ngồi nghe Hạ Hầu Uyên hội báo tình hình Tây Lương và Ung Châu, nguyện vọng muốn được đi đánh Hán Trung. Tháo nói:

- Ta sắp đưa quân vào Hán Trung đánh Trương Lỗ. Tướng quân có thường nghe mọi người nói: Tào Tháo hành quân đánh trận, thường giao binh lính cốt cán cho Tào Nhân hoặc anh em Hạ Hầu chỉ huy?

Uyên nói:

- Mạt tướng vừa từ Tây Bắc trở về, chưa từng được nghe xin Thừa tướng nới rõ. Mạt tướng xin làm tiên phong.

Tháo kể chuyện Lưu Bị chiếm Ích Châu, về vị trí chiến lược của Hán Trung, kiến nghị của các mưu sĩ, và quyết định của mình cho Uyên nghe. Cuối cùng, Tháo nói:

- Hạ Hầu tướng quân! Ngươi chuyên đánh Tây Lương, Ung Châu, lại đóng quân dài ngày ở Quan Trung, thông thạo địa lý, phong tục miền tây, nên quyết định cử ngươi làm tiên phong.

Anh em Hạ một lòng son sắt theo chân Tháo đã nhiều năm, dũng mãnh chiến đấu, lập nhiều kỳ tích, Tháo hết sức yêu quý. Nhất là Hạ Hầu Uyên, sức mạnh không thua kém gì anh là Hạ Hầu Đôn, nhưng mưu lược có phần hơn hẳn người anh. Tháo biết dùng người đúng chỗ nên thường giao cho Uyên nắm giữ những việc cơ mật lớn. Tháo coi Uyên như một thanh bảo kiếm. Rượu được mấy tuần, Uyên nhìn vị thống soái hùng tài đại lược hồi lâu, rồi đứng dậy nói:

- Chúa công! Mạt tướng nguyện đạp bằng Hán Trung, xông vào Ích Châu, xách đầu Lưu Bị về dâng Chúa công.

Tháo rất hài lòng, nhưng nghĩ rằng xách được đầu Lưu Bị về đâu phải chuyện dễ, xong Tháo vẫn động viên:

- Chúc tướng quân thành công, xin cạn chén!

Lúc lính canh điểm trống báo canh hai, Uyên mới cáo từ Tháo tiễn Uyên ra mấy bậc tam cấp trước phủ. Khi thân binh đưa ngựa chiến đến, Tháo mới cầm tay Uyên dặn dò:

- Hành quân đánh giặc, biết mình biết địch, trăm trận trăm thắng. Khi về điều binh, khiển tướng phải cử ngay thám báo đến vùng Hán Trung, nắm vững mọi tình hình, đừng có xem nhẹ. Hễ có tin gì báo ngay cho ta.

Sau đó hai người tạm biệt.

*

Tháng mười một, năm Kiến An thứ mười chín (tức năm 214 công nguyên), khi Tào Tháo chuẩn bị điều binh khiển tướng, lương thảo để đưa đ̍i quân nam tiến đánh Trương Lỗ, ở Hứa Đô nảy sinh một làn sóng chính biến làm chậm trễ việc hành quân.

Làn sóng chính biến nổi lên từ việc giành quyền giữa Tháo và Hiến đế. Đó là bức mật thư của Phục Hậu viết cho Phục Hoàn không may bị lộ. Tào Tháo lệnh cho Ngự sử đại phu Hoa Hâm xử lý. Hâm giết Phục Hậu và hoàng tử, giết luôn hơn ba trăm người có dính líu. Về mặt chính trị, việc này làm cho Tháo lâm vào cảnh khó khăn, bị chửi rủa. Sau khi xử lý xong việc này, Tháo định hạ bệ vị vua bù nhìn là Hiến đế. Nhưng do chỉ là ý nghĩ trong lúc say sưa. Trong thực tế, Tháo chưa sử dụng biện pháp này.

Một hôm, Tháo và Lưu Hoa nói chuyện về Hiến đế. Tháo hỏi:

- Khi ta hành quân đánh giặc, ở hậu phương có biến thì làm thế nào?

Một câu nói của Lưu Hoa đã thức tỉnh Tháo, Hoa nói:

- Căn nguyên việc Phục Hậu liên kết với Quốc Trượng mưu toan làm loạn là quyền lực của ngoại thích rơi vào tay người khác.

Lưu Hoa nói chưa dứt thì Tào Tháo đã lẩm bẩm: "ngoại thích, ngoại thích..."

Tháo nói xong mấy từ đó và ngồi đăm chiêu mãi. Lưu Hoa cũng không nói gì nữa.

Tháo ngẫm nghĩ: Hiến đế không có quyền, bọn hoàng thân quốc thích hết thế. Xét về toàn cục thì Hiến đế bất lực nhưng bọn ngoại thích thì không cam chịu, tìm cơ mưu để sát hại ta, ngóc đầu dậy. Bọn sĩ đại phu mù quáng tôn thờ nhà Hán, như Tuân Úc chẳng hạn, có nhiều khả năng bọn này giúp lũ ngoại thích khởi nếu ngoại thích của Hoàng đế lại là ta thì sẽ ra sao nhỉ?

Tháo đã có chủ ý, song vẫn hỏi Lưu Hoa:

- Bằng cách nàn để phế bỏ bọn ngoại thích?

Lưu Hoa nói:

- Vì sao Chúa công không là ngoại thích?

Lưu Hoa nói rất sát. Tào Tháo thấy cũng không còn cách nào khác.

Để ổn định hậu phương, Tháo đưa ba cô con gái của mình gả cho Hiến đế, chọn một cô làm chính cung. Đó là chuyện năm Kiến An thứ hai mươi.

*

Hạ Hầu Uyên cử ngay những thám tử có năng lực thâm nhập vào Hán Trung.

Tháng mười hai, Uyên đến Thừa tướng phủ bàn gian một số tin tức về Trương Lỗ.

Thời tiết phương bắc mùa này rét buốt vô cùng, Tháo khoác án bào lông thú, ngồi trên ghế da cùng Uyên phân tích tình hình.

- Hạ Hầu tướng quân! Xem ra Trương Lỗ đã có chuẩn bị bố phòng cẩn mật, địa thế lại vô cùng hiểm trở, khó mà hạ được. Liệu ngươi có mưu kế gì không?

Uyên nói:

- Chúa công! Tín đồ của Trương Lỗ chưa được tôi luyện trong chiến đấu như quân ta. Trương Lỗ tính tình nhu nhược quả đoán, chỉ bằng vào địa thế hiểm trở, mấy chục năm ngồi ở Hán Trung khác nàn ếch ngồi đáy giếng. Nếu ta có một đội cảm tử quyết cướp thành chém tướng, chắc là bắt sống được Trương Lỗ.

Tháo chưa hài lòng về những ý kiến của Hạ Hầu Uyên. Nhìn chung, Uyên chưa sâu sát, tỏ ra khinh địch. Về mặt chiến thuật cụ thể chỉ được mấy chữ "đội cảm tử đoạt thành chém tướng". Uyên tự trách mình, thô lỗ vô mưu, phụ lòng mong đợi của chủ tướng.

Tháo vẫn trầm ngâm nhìn bản tin tình báo, không bỏ sót một chữ nào. Tháo lấy bút khoanh tròn vàn hai chữ Vũ Đô đồng thời cho tuỳ tòng mời mưu sĩ Lưu Hoa đến.

Lưu Hoa đến, Tháo hỏi Uyên về địa danh có tên Vũ Đô.

Uyên nói:

- Vũ Đô thuộc Cam Túc. Có một số bộ lạc tập cư ở đấy. Vùng này chưa có quân của Trương Lỗ.

Tháo liền hỏi Lưu Hoa:

- Nếu ta vòng đường Vũ Đô vào Hán Trung thì sao?

Mấy tháng nay Lưu Hoa thường cùng Tháo suy nghĩ tìm phương án hay nhất vàn Hán Trung, tiếc rằng tin tức tình báo quá ít nên chưa có một phương án tối ưu, nay nghe Tháo hỏi như vậy, liền luôn miệng

- Chúa công thực là cao kiến. Binh pháp thường nói: xuất kỳ bất ý, giương đông kích tây. Chúa công dẫn đại quân vòng qua Vũ Đô, hành quân tuy vất vả nhưng không bị cản trở, thần không biết, quỷ không hay, giáng một cú vào sau lưng Trương Lỗ, Lỗ chắc phải thua. Những chỗ Lỗ bố trí trọng binh, Chúa công chỉ cần cho một ít tinh binh khống chế, làm sai lệch phán đoán của Trương Lỗ, để Lỗ tưởng quân ta vừa áp cảnh, điều quân ra chỗ đó, bỏ trống hậu phương. Khi quân ta tập kích thành công, từ hai phía đánh kẹp lại, Hán Trung làm gì chẳng rơi vào tay Chúa công.

Thảo nghe lời phân tích tỷ mỉ của Lưu Hoa, vui mừng ra mặt, Hạ Hầu Uyên thì khâm phục vô cùng.

Tháo lại nói bằng giọng thần bí:

- Nghe nói Trương Lỗ ngụy thần giả quỷ ở Hán Trung còn hoạ bùa yểm thuỷ, mê hoặc binh lính, trăm họ. Dân Hán Trung thật thà mê tín trò đó của hắn. Chúng ta tương kế tựu kế, cũng làm trò ma quỷ.

Nói xong, Tháo vẫy Hạ Hầu Uyên lại. Uyên người cao to, lưng hùm, eo gấu, Tháo thì thấp bé, nên Uyên phải khom hẳn người xuống mới nghe được. Uyên vừa nghe vừa cười, cho đến khi Tháo nói xong. Uyên không thể nhịn được nữa, vừa đứng thẳng người vừa cười phá lên. Tháo cũng cười ngất. Lưu Hoa chẳng hiểu gì cả cũng bật cười theo. Mấy tên vệ binh đứng gác thấy lạ, thường ngày Tào phủ thâm nghiêm, tĩnh mịch là thế, nay bỗng dưng tiếng cười tràn ngập. Hết người này cười đến người khác cười, bệnh cười vốn hay lây, bất giác chúng cũng cười theo.

Tháo nói với các quan tướng, phải đánh ngay Hán Trung. Nếu để Lưu Bị xuất quân đánh chiếm Hán Trung trước thì Quan Trung sẽ bị uy hiếp. Hậu quả khôn lường.

Lưu Hoa cùng các tham mưu khác đã vạch xong kế hoạch xuất quân Hán Trung. Khi Lưu Hoa đưa bản kế hoạch đến phủ Thừa tướng, Tháo đang thương nghị với Hiến đế kế hoạch xuất quân.

Sau khi Tào Tháo phế bỏ ngoại thích, thì chính mình lại trở thành ngoại thích. Trước mắt, Tháo vừa là Ngụy Quốc Công, vừa là Thừa tướng, còn là bố vợ của Hiến đế. Tháo nói với Hiến đế:

- Thần đưa quân đến Hán Trung, mọi việc trong triều xin bàn bạc với Hoa Hâm.

Hiến đế khiếp sợ Tào Tháo lắm lắm, cứ ậm ừ, mất hết dáng vẻ tôn nghiêm của Hoàng đế. Hoa Hâm là kẻ thù của Hiến đế, Tháo tiến cử người đó là có dụng ý. Ít ra cũng có tác dụng uy hiếp lũ quần thần, không dám giở trò gì khi Tháo đem quân ra bên ngoài.

Ngồi chuyện trò nhạt nhẽo với Hiến đế một lúc, Tháo mới cáo từ về phủ. Về đến phủ, Tháo thấy phấn chấn hẳn. Trong cung điện của Hiến đế, không khí lặng lẽ như trong một nấm mồ, những hình hài bằng thịt đi đi lại lại; còn ở phủ thì khác hẳn, bất kể là mưu thần, võ tướng hay các phu nhân, con cái, ai ai cũng đầy sức sống. Tháo thấy cảm khái: các vị vua mở đầu triều Hán đâu có như vị Hoàng đế cuối cùng này. Hoàng đế như vậy thì còn có ý nghĩa gì? Nghĩ đến con cháu của Hán Cao Tổ, Tháo liên tưởng đến những đứa con của mình. Từ lâu Tháo đã chăm lo đến việc dạy dỗ các con. Con trưởng là Tào Phi có phần trầm tĩnh, Tào Chương chỉ là kẻ vũ phu, Tào Thực thì hành vi phóng túng, rượu chè su ngày, may mà có chút tài hoa, còn Tào Hùng thì đúng là khoẻ như một con gấu. Bỗng Tháo sực nhớ đến chuyện khác: Lưu Hoa chờ duyệt kế hoạch tiến quân.

Tháo xem đi xem lại bản kế hoạch. Tháo đã sáu mươi tuổi, mắt không còn tinh, Lưu Hoa phải viết chữ to để Tháo dễ đọc hơn.

Trong bản kế hoạch, việc điều động binh sĩ được ghi rất cụ thể.

Số quân động viên là mười vạn người, hiệu xưng hai mươi vạn.

Thống soái: Tào Tháo. Mưu sĩ chính: Lưu Hoa

Mưu sĩ khác: Giả Quỳ, Tư Mã Ý, Vương Xán, Trương Thửa, Tân Bình, Dương Tu, Trần Kiều.

Hậu cần: Đỗ Kỷ.

Đơn vị chủ yếu: Hữu quân thống soái: Hạ Hầu Uyên

Tuỳ doanh mưu sĩ: Quách Hoài.

Đại tướng: Trương Cáp, Từ Hoảng, Chu Linh.

Tả quân thống soái: Hạ Hầu Đôn

Đại tướng: quân của cha con họ Tào, Tào Thực thống soái.

Quân dự bị: Quân của Khiển Thác, dân tộc thiểu số.

Mấy đêm trước khi xuất quân, Tháo lại mất ngủ. Tuổi già, sức yếu lại có nhiều việc phải suy nghĩ, không được nghỉ ngơi, bệnh cũ lại tái phát, Tháo không dậy được. Chư tướng đến vấn an lấy làm lo lắng. Tháo lại có vẻ cứng cỏi nói với mọi người rằng:

- Ta suốt đời trên lưng ngựa, vào sinh ra tử đã nhiều, thương tật mười mấy chỗ còn chẳng sợ, nữa là một chút bệnh vặt này.

"Bệnh vặt", đúng, điều mà Tháo không an tâm lại là chuyện khác: đưa quân vàn Hán Trung, tự nhiên quân lực trấn thủ phương nam sẽ ít đi, liệu Tôn Quyền có thừa cơ ấy mà xâm nhập? Lưu Bị có đưa quân, lấy cớ là cứu nguy Trương Lỗ để liên minh cùng Trương Lỗ chống lại ta không? Tôn Quyền có lập lại liên minh, dẫn quân từ Kiến Nghiệp, Kinh Châu tiến công phương Bắc? Tháo tìm cách hòng đối phó với những sự kiện đột xuất đó, mặc cho bệnh tật giày vò, nhưng càng nghĩ càng thấy rối.

Một hôm, Vương Tất, một viên quan Ngự lâm của Tháo nghe thày thuốc nói, chữa bệnh đau đầu bằng cách chườm những cục băng là rất tốt. Nhưng lúc này đang là mùa hạ, tìm đâu cho ra băng.

Một thân binh nói với Vương Tất:

- Tướng quân! Ở vườn hoa sau cung thất Hiếu đế, mùa đông năm ngoái có đào một cái hố rất sâu, chứa rất nhiều cục băng, mùa hè năm nay ướp dưa cho vua dùng, chẳng nhẽ không lấy được một ít để chữa bệnh cho Ngụy Công hay sao?

Vương Tất nghe xong mừng rỡ, cũng chẳng bẩm báo gì với Hiến đế, cứ thế cho đào hố đất, dùng bảo kiếm nậy lấy mấy cục băng, bệnh đau đầu có phần giảm. Tháo liền trọng thưởng cho hai ng

Bệnh tình tuy chưa khỏi hẳn, Tháo vẫn gượng dậy cùng các mưu sĩ bàn bạc khả năng có thể xuất quân.

Dương Tu đề nghị với Tào Tháo cho triệu Tiết Đễ từ Hợp Phì về. Tu nói:

- Chúa công đưa quân đi Hán Trung, Tôn Quyền tất sẽ đem quân đến đánh Hợp Phì. Ở tuyến phía nam có nhiều cứ điểm phòng thủ, địa thế trống trải, khó bề chống đỡ. chi bằng gọi Đễ về, giao cho Đễ liên hệ với Trương Liêu, Nhạc Tiến, Lý Điển cùng hợp quân chống Tôn Quyền. Quân Tôn Quyền từ xa đến, lương thực vận chuyển khó khăn, đánh lâu không được tất phải rút.

Dương Tu là người có trí, nhạy bén. Tu là con Thái Uý Dương Bưu thời Hán Hiến đế. Tháo mộ tài của Dương Tu, đối xử là bậc khách. Đề nghị của Dương Tu được mọi người khen là phải.

Những vấn đề khác như liên minh giữa Tôn, Lưu... mỗi người một ý, Tháo chưa biết nên thế nào!

Tiết Đễ từ Hợp Phì về được Tháo trao cho một phong bì thư, Tháo dặn:

- Đợi khi Tôn Quyền đến đánh hãy bóc ra xem!

Tiết Đễ lĩnh lệnh, ra đi, lo việc phòng vệ chống lại Tôn Quyền.

*

Tháng tám, năm Kiến An thứ hai mươi (năm 215 công nguyên), Tháo khỏi bệnh, việc đưa quân đi đánh Hán Trung đã thành hiện thực.

Hôm đó ba quân tụ tập trên một vùng đất ở ngoài thành. Tháo bước lên đài cao, bên dưới là những đoàn quân hàng ngũ chỉnh tề. Khi Tháo tuyên bố lệnh xuất phát, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Hưu, Tào Thực lần lượt rời khỏi Nghiệp Thành. Đoàn quân rầm rộ như vô tận kéo về hướng tây.

Hạ Hầu Uyên làm tiên phong, cùng ba ngàn tinh binh kịp đến ải Dương Bình. Trước đó, theo kế của Tháo, Uyên đã sai một tên tâm phúc mồm mép, nhanh nhẹn vào Hán Trung, đóng giả một ông già đạo sĩ, thì thầm với lũ tín đồ của Trương Lỗ rằng quân Tào có yêu khí nên khi thấy họ công thành cứ ném những lòng lợn, lòng dê cùng mì ống xuống, lấy cái tanh tưởi xua đuổi tà khí thì bọn chúng phải rút lui. Một số quan tướng cho là thật, chuẩn bị rất nhiều dê, lợn ở cửa khẩu.

Hạ Hầu Uyên cùng ba ngàn quân thiết kị ngày đêm lên đường. Để tiết kiệm lương thảo. Uyên chỉ cho quân mang theo một ngày lương. Bởi vậy, khi đến ải Dương Bình, binh sĩ đã đói mèm.

Uyên liền động viên binh sĩ:

- Mọi người cứ nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ, đợi lúc trời tối ta đến chân thành, chỉ cần gào thét thật to là có thịt dê, lợn mà ăn.

Quân lính theo Uyên đi đánh trận đã nhiều năm, biết Uyên là người chân thật, nên họ yên tâm. ai vào việc nấy.

Đêm khuya, Uyên lệnh cho binh sĩ đ̐ốc tiến quân. Lúc đến cổng thành chỉ thấy binh lính của Trương Lỗ ném xuống lòng dê, lòng bò. Mặt mũi, quần áo anh nào cũng đều dính đầy máu tươi, tanh tưởi. Có một người nào đó nhắc nhở:

- Vừa thu nhặt vừa gào thét.

Bây giờ bọn họ mới hiểu ra ý đồ của chủ soái, họ vừa nhặt vừa reo hò thật khoẻ. Trên kia vẫn cứ liên tục ném xuống như mưa.

Khi thấy đã đủ, liền nghe có lệnh: "rút"

Ba nghìn quân gặp bữa may mắn. Quân lính của Trương Lỗ trên thành hoa châu múa tay hoan hô thắng lợi. Trong doanh trại cách cổng thành hàng mấy dặm, Uyên đã lệnh cho đầu bếp nổi lửa đun nước, chờ có lòng, thịt về là xong. Đêm đó, quân Tào được chén một bữa no trong tiếng hoan hô của quân Lỗ.

Từ đó về sau, quân Tào cứ thế quấy nhiễu quân của Trương Lỗ. Đến khi mưu kế bị lộ thì Tào Tháo đã kịp cho chuyển lương thực tới. Hai quân lại kình địch nhau. Ý đồ chiến lược bước một, quân Tào thực hiện thật hoàn hảo.

Ở trong phủ Trương Lỗ. Trương Lỗ, em trai là Trương Vệ, mưu sĩ chủ yếu là Diêm Phố đang bàn bạc cách đối phó với quân Tào.

Nửa năm trước, Trương Lỗ đã biết tin quân Tào có ý đồ đến xâm phạm bờ cõi. Lỗ đã có chuẩn bị, lập đồn xây trại dọc những con đường lớn. đào hố, đặt bẫy những con đường nhỏ, các nơi hiểm yếu, tích cóp lương thực đủ dùng trong một năm. Nhưng do công việc Triều đình bề bộn, ngày xuất quân của Tháo phải lui lại. Trương Lỗ cho rằng tin tức thiếu chính xác, công việc bố phòng có vẻ trễ nải. Cuối cùng việc đáng ngại đã xảy ra.

Trương Lỗ và Trương Vệ bàn nhau nên đóng cửa cố thủ hay xuất quân nghênh chiến. Diêm Phố không quan tâm tới điều đó, chưa nói năng gì. Điều Phố lo lắng là Tào Tháo bỏ qua ải Dương Bình, vòng qua đường Vũ Đô, theo bờ tây Hán Thuỷ xuôi xuống phía đông, tập kích vào hậu phương quân Trương Lỗ.

Ở phủ Trương Lỗ, Diêm Phố là người biết nhìn xa trông rộng, nên mỗi lần có việc quan trọng, Trương Lỗ thường mời đến để cùng bàn bạc.

Trương Vệ nghe theo Trương Lỗ, đem trọng binh đến giữ cửa khẩu.

Diêm Phố nói:

- Ải Dương Bình và các cửa khẩu khác đều là nơi hiểm yếu một người giữ thì trăm người không phá nổi. Hạ Hầu Uyên đã đánh phá mấy lần, có ăn thua gì đâu? Theo Điệp báo, chỉ có quân Hạ Hầu ở ải Dương Bình, còn đại quân của Tháo chưa xuất hiện, như vậy hẳn phải có gian kế.

Trương Lỗ mới giật mình, nói:

- Giặc Tào đi đường vòng, tập kích hậu phương?

Diêm Phố gật đầu, đứng dậy đi lại mấy vòng rồi mới nói:

- Tháo thường hành quân chớp nhoáng, đánh mạnh vào kẻ thù, thiên hạ đều biết. Cho đến nay vẫn chưa xuất hiện, rõ ràng Tháo đã vòng đường Vũ Đô, qua sông, tập kích vào hậu phương quân ta. Cũng may, trước đây, chúng ta đã đào hầm, gài bẫy trên các nẻo đưGng nhỏ, tất gây trở ngại cho quân Tào. Nay chỉ cần phái ra mười mấy đội, cứ ngàn người một, tuần tra dọc sông Hán Thuỷ quấy rối chúng là được.

Trương Lỗ nghe lời Diêm Phố, bố trí lại quân.

Trong khi đó Trương Vệ vẫn dẫn đại quân trấn giữ các quan khẩu, khiến quân Tào đỡ vướng vào một trở ngại lớn.

*

Tào Tháo dãn quân đi về phía Vũ Đô, dọc đường thuận lợi. Khi đến biên giới giữa Hán Trung và Vũ Đô, đường xá hiểm trở, xe cộ khó qua, binh lính được một phen thử thách lớn. Các thị tộc chung quanh lại hay quấy nhiễu, cướp lương đoạt ngựa.

Tào Tháo giận dữ, sai Trương Cáp, Chu Linh dẫn năm ngàn bộ kỵ binh làm tiên phong càn quét trước.

Tháo tự tay giết gà, nhỏ máu vào rượu và ba người cùng nâng cốc, Tháo nói:

- Đường núi gập ghềnh, khe suối hiểm trở, mong chư vị lưu ý, phải san bằng các thị tộc, hãy về gặp lại.

Trương Cáp, Chu Linh được khích lệ, liền dẫn năm ngàn quân đến trước mặt Tháo cùng thề rằng:

- Chúng thần không quét sạch được thị tộc thì xin lấy da ngựa bọc thây, hang núi làm mồ.

Tiếng hô của quân sĩ vang khắp núi đồi, cảnh tượng bi tráng đó thực sự làm Tháo xúc động. Tháo nâng chén rượu, nhìn ra những ngọn núi hùng vĩ, những con đường ngoằn ngoèo như ruột dê, uống một hơi cạn và sai đem bút mực đến.

Tháo bước đến một mỏm đá, sau lưng là năm ngàn binh sĩ đang nóng lòng chờ xuất phát. Mọi người thấy Tháo buông tầm mắt nhìn ra xa, rồi cầm bút viết. Viết xong, Tháo ném cây bút xuống đất, quay lại đưa tờ giấy cho Trương Cáp.

Bằng một giọng hùng tráng. Cáp ngâm bài thơ:

Vầng dương toả núi đồi.

Đường gập ghềnh đến vậy;

Trâu quỵ không nhúc nhích.

Xe lún bên khe suối,

Ngồi trên tảng đá, gẩy nên khúc đàn

Điệu thấp vần cao, vợi bớt nỗi phiền

Hát vang tỏ chí.

Bấy giờ, núi đọng nước ngừng, côn trùng chim muông im tiếng, chỉ có gió núi đưa giọng ngâm của Trương Cáp ra tận nơi xa...

Đáu mươi tuổi đầu, nhưng lời thơ của Tháo vẫn còn nguyên vẹn lòng nhiệt tình sáng nghiệp thời trẻ. Tháo mạnh dạn, thẳng thắn nên bài thơ nói được lý tưởng của Tháo, xúc động lũ bộ hạ, tất cả hô lớn: "Không diệt xong bọn Di nhân thề không trở lại". Sau đó, Trương Cáp, Chu Linh tiến quân về phía các bộ lạc.

Tào Tháo nhìn đoàn quân đi xa, lòng bồi hồi xúc động, liền sai viên quản ca, phổ thơ thành bài hát, để quân lính biểu diễn, khích lệ sĩ khí mọi người.

Nhanh chóng, bài hát phổ thơ của Tháo đã được lan truyền: "... ngồi trên tảng đá, gẩy nên khúc đàn...". Sĩ khí quân Tào phấn chấn hẳn lên.

Trương, Chu quét sạch các bộ lạc hay quấy nhiễu, mở đường cho đại quân Tàn Tháo tiến đến Vũ Đô.

Quân Tào đến Hà Trì (gần huyện Huy, tỉnh Cam Túc ngày nay), bị một bộ lạc mạnh nhất chống cù. Thủ lĩnh của họ là Vương Đậu Mậu, khôi ngô, dũng cảm và mưu trí. Phải đến mấy tháng, Tào Tháo chiến đấu gian khổ với chúng.

Thành Hà Trì cao to và kiên cố, thủ thành là những xạ thủ với tên tẩm thuốc độc làm sát thương rất cao. Lúc quân của Hạ Hầu công phá, binh lính trúng tên vô phương cứu chữa, thương vong rất nhiều.

Tào Tháo nghĩ rằng nếu cứ đánh phá mãi ở đây, để khi Trương Lỗ nắm được tình hình, thì quân Tào sẽ bị tấn công, thậm chí còn rơi vàn tình cảnh khốn đốn, đến chỗ bại trận. Tháo đem chuyện bàn với Lưu Hoa, mọi người cũng chưa biết nên giải quyết ra sao.

*

Trong lúc đó, quả như dự đoán, Tôn Quyền dẫn đại quân bảy vạn, gấp mười lần quân của Tiết Đễ, vây đánh Hợp Phì. Tào Tháo nằm trong tình thế tây, nam cả hai mặt đều bị đánh.

Tào Tháo hy vọng thắng trận ở Hợp Phì, nhưng không thể phân thân đến đó chỉ huy. Cũng may, Tào Tháo đã để mật kế cho Tiết Đễ. Khi Tôn Quyền đến, Tiết Đễ mới mở mật thư ra xem, ở đó viết: "Nếu quân Tôn Quyền bao vây Hợp Phì thì cho điều Trương Liêu, Lý Điển đến nghênh chiến, Nhạc Tiến có trách nhiệm phòng vệ Hợp Phì. Quân giữ thành tuyệt không ra tham chiến".

Tiết Đễ cho người thân tín mời Trương Liêu đến Hợp Phì. Tiết Đễ cho mọi người xem mật thư của Tháo. Chư tướng cho rằng, địch quân quá đông, nếu chủ động xuất kích e nguy hiểm, mọi người còn phân vân.

Trương Liêu nói:

- Tào công hiện ở xa, nếu đem quân về cứu, thì khác nào chờ nước xa, cứu lửa gần. Hơn nữa quân lính quá mệt mỏi vì hậu quả không biết thế nào mà lường. Mà dù có về được thì chắc gì Hợp Phì đã còn! Tôn Quyền cho rằng mình quân nhiều ngựa lắm, khí thế hừng hực, xem thường dúm quân cố thủ Hợp Phì. Đó là nhược điểm trong binh thư đã viết: "Kiêu binh tất bại". Ở cuộc chiến Quan Đô, Tào công cũng lấy ít thắng nhiều. Có thể, chúng ta sẽ làm lại một trận Quan Độ nữa!

Trương Liêu thấy mọi người chăm chú nghe mình nói, quyết định nói hết những điều suy nghĩ:

- Thừa lúc Tôn Quyền từ x1;n, quân sĩ mệt mỏi, thành trại chưa có, ta đem quân đánh mạnh, vừa có thể kích thích sĩ khí quân ta, chuẩn bị cho sự cố thủ lâu dài, vừa có thể làm cho quân Ngô, lòng dạ xao xuyến, sức chiến đấu giảm sút. Cộng với tình hình vận chuyển lương thực khó khăn biết đâu Tôn Quyền chẳng phải rút quân.

Trương Liêu sôi nổi và lạc quan.

Nhạc Tiến cho rằng chủ động xuất kích, hiệu suất thắng trận sẽ rất ít, tỏ vẻ không tán thành. Những lời Trương Liêu vừa diễn đạt, đồng thời cũng là mệnh lệnh của Tào Tháo, nên không ai dám phản đối. Mọi người chỉ yên lặng ngồi nghe.

Trương Liêu thấy mọi người do dự, sợ lỡ mất quân cơ, nên đứng dậy nói:

- Thành hay bại là ở trận này. Nếu các ông chỉ nghĩ đến ý riêng mà do dự. Có phải thế thì chỉ một mình ta ra địch, dù chết cũng đành!

Lý Điển vốn không hoà với Trương Liêu, nhưng thấy Trương Liêu nhiệt tình và khẳng khái, bèn đứng phắt dậy nói:

- Tướng công đã có bụng như thế, tới sao dám vì chút tình riêng mà bỏ việc công. Xin cùng tướng công gánh vác công việc.

Thế rồi Trương Liêu tuyển chọn những người lính dũng cảm, ngoan cường, tinh anh và thiện chiến, được khoảng tám trăm, chia thành bốn đội, tự mình một đội, còn ba đội kia, giao cho ba vị tướng, sau khi vào doanh trại của Tôn Quyền, độc lập tác chiến, tốc chiến tốc quyết.

Trương Liêu giao số quân còn lại cho Lý Điển chỉ huy, làm quân dự bị, chuẩn bị tiếp ứng.

Đêm đó, Trương Liêu cho mổ bò để khoản đãi đội cảm tử. Ai nấy phấn chấn vô cùng. Trận tập kích quyết định vào sáng hôm sau, binh sĩ và ngựa chiến đều được nghỉ sớm.

Buổi tổng công kích bắt đầu. Sau một tiếng thanh la vang lên, tám trăm tráng sĩ cùng Trương Liêu nhảy lên ngựa, và như một ngọn gió lốc cuốn ra khỏi doanh trại. Trong ánh sáng mờ mờ, Trương Liêu, mình khoác chiến y, tay cầm thanh phương thiên hoạ kích, một mình một ngựa dẫn đầu đoàn quân lao vào doanh trại Tôn Quyền. Tám trăm tráng sĩ bám theo sau. Tiếng vó ngựa dồn dập trong buổi ban mai nghe vừa chói tai vừa có nhịp điệu.

Trận xung kích diễn ra quá nhanh, lại đột ngột nên dù quân tiên phong của Đông Ngô có chuẩn bị nhưng do nhiều mặt hạn chế nên quân thiết kỵ nhanh như điện đã phá vỡ một phòng tuyến, từ đó, tám trăm quân cảm từ đã xông vào trại Tôn Quyền chém giết.

Mấy vị tướng lĩnh cận vệ canh giữ đại bản doanh Đông Ngô không hề có chuẩn bị, vội vã vỏ được mấy đoạn binh khí bảo vệ Tôn Quyền. Trương Liêu phóng ngựa vào, chém chết hơn chục tên cận vệ, hai viên tướng bảo vệ Tôn Quyền cũng bị cảm tử quân chém chết tại chỗ.

Tôn Quyền sợ đến tròn mắt há miệng, may nhờ có chục tên vệ sĩ đứng bên hộ tống lên một ngọn núi nhỏ tránh được mũi nhọn xung kích của Trương Liêu.

Trương Liêu thấy Tôn Quyền khiếp nhược, không có cách gì lên được núi đó, bèn cầm hoạ kích trỏ sang mắng rằng:

- Chúng bay có dám đấu với họ Trương này không

Tôn Quyền vội hỏi tả hữu:

- Người này là ai?

Có người trả lời:

- Hắn là Trương Liêu.

Từ lâu Tôn Quyền đã nghe tiếng Trương Liêu anh dũng, thiện chiến, mới biết danh bất hư truyền. Quyền căn dặn tả hữu:

- Cứ cố thủ vững vàng, đợi đại quân đến hẵng liệu.

Lúc đó các trại quân Ngô nghe tin quân Tào đến cướp trại, Tôn Quyền lâm nguy, họ vội vàng kéo đến để giải vây. Tám trăm tráng sĩ bên Tào vây chặt lấy ngọn núi có Tôn Quyền, và số quân Ngô vừa đến lại vây chặt lấy tám trâm quân cảm tử.

Lý Điển tiếp ứng, không tài nào phá vây cứu được Trương Liêu. Điển còn bị tướng Lã Mông ngăn cản quyết liệt. Quân của Hàn Đương, Cam Ninh kẹp đánh quân cảm tử của Trướng liêu.

Tình thế hết sức nguy kịch, nếu không kịp thời phá vây không những ý đồ chiến lược không đạt mà còn có cơ bị tiêu diệt toàn bộ. Trương Liêu lệnh cho đội cảm tử phá vây. Nhưng khi đó, quân Đông Ngô cứ như nước tràn về, càng đến càng đông. Tiếng reo hò, tiếng trống, tiếng dao kiếm chạm nhau nghe đến kinh tai, nhức óc. Dưới chân máu chảy thành suối.

Trương Liêu thở một hơi thật dài, một tay đập vào lưng ngựa, một tay múa kích, chẳng khác gì một vị thần tiên, cùng mười y viên bộ tướng xông vào Hàn Đương. Đương chống không lại, thế trận bị vỡ, Trương Liêu hét to, chân kẹp vào bụng ngựa, hoạ kích chỉ đến đâu quân Ngô giãn ra đến đó, mười mấy người thoát được ra ngoài.

Số quân cảm tử còn lại phía trong gọi lớn:

- Tướng quân cứu chúng tôi với!

Trương Liêu nghe tiếng, vội quay ngựa lại. Một lần nữa, thần uy không hề giảm, lại xông vào trận địch, ngọn kích lại vung lên, ai chạm phải không chết cũng thành thương. Quân của Hàn Đương, vệ sĩ của Tôn Quyền, không ai là không khiếp sợ. Cuối cùng Trương Liêu cứu thoát số quân cảm tử còn lại. Lý Điển nhìn thấy Trương Liêu đã thoát hiểm, cũng dẫn quân tiếp ứng xông ra. Hai quân đánh nhau suốt từ sáng đến trưa, trước mắt trời đất đảo điên, máu chảy thành suối.

Quân Đông Ngô nhìn thấy quân Tào chiến đấu gan dạ, không sợ hy sinh mà khiếp nhược, khí thế suy dần.

Qua đó, trong trại của Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến, lòng quân phấn chấn, sĩ khí tăng dần. Toàn thành Hợp Phì, tướng sĩ một lòng, quyết tâm đánh địch. Công việc phòng thủ Hợp Phì cũng nghiêm ngặt hơn. Trương Liêu dâng thư háo quân tình với Tào Tháo ở miền tây, vừa đúng dịp Tháo phá xong thành Hà Trì.

*

Cuộc chiến Hà Trì làm cho quân Tào tổn thất nghiêm trọng. Bởi vậy khi vào thành binh lính có hành động khủng bố để trả thù. Khắp thành Hà Trì mùi máu tanh tưĐể ổn định lòng quân, để cuộc chiến tiến hành thuận lợi, Tháo đưa ra chính sách "giết một người để răn trăm người". Quả nhiên khi đến bộ lạc bên cạnh, họ không dám chống cự một chút nào. Để tỏ lòng kính phục Tào Tháo, một bộ lạc khác, đã giết một người trước đây đến hàng bộ lạc mình là Hàn Toại, đem đầu dâng lên Tào Tháo.

Lúc này chiến sự ở tuyến tây và tuyến nam của Tào Tháo rất thuận lợi. Tôn Quyền từ lúc bị Tương Liêu làm mất nhuệ khí, những lần tấn công vào Hợp Phì không còn mạnh như trước. Tôn Quyền vây thành Hợp Phì được mấy chục hôm, sau đó phải rút về, vì lương thực chuyển đến không kịp.

Tôn Quyền được số quân tâm phúc hộ tống đến bến Tiêu Diêu, Trường Giang, liền triệu tập thống soái các đại quân đến bàn bạc. Ngoài Hàn Đương phụ trách dẫn đạo quân rút lui không đến, các tướng Cam Ninh, Lăng Thống, Lã Mông cùng số thân binh của mình đã kéo đến. Lúc này, bên cạnh Tôn Quyền quan quân có tới hơn năm trăm người.

Trương Liêu ở trên tường thành nhìn thấy quân Ngô có chiều muốn rút, liền phái thám mã đi dò xét tình hình. Chẳng mấy chốc đã có tin tức Tôn Quyền đang ở bến Tiêu Diêu. Trương Liêu quyết định đuổi đánh Tôn Quyền.

Trương Liêu điểm năm ngàn binh mã, một ngàn kỵ binh kịp đến trước, xông vào phá trại Tôn Quyền; bốn ngàn bộ binh kịp đến tiếp tục chiến đấu. Trương Liêu nêu mục đích: "bắt giặc phải bắt tướng trước", thế là binh sĩ đua nhau, kẻ trước người sau, như dòng nước lũ, đổ về bến Tiêu Diêu.

Bọn vệ binh của Tôn Quyền, từ xa đã nhìn thấy quân Tào lũ lượt kéo đến như một con rồng lớn, đen kịt cả một góc trời, vội ba chân bốn cẳng chạy vào bẩm báo.

- Quân Tào kéo đến!

Trong doanh trại, Tôn cuống quít cả lên. Tôn Quyền cùng chư tướng đều đã nếm mùi đánh lén của Trương Liêu, vì thế, không ai là không sợ. Quyền vội vàng lên ngựa, có Lăng Thống hộ vệ, cố gắng phá vây. Cam Ninh, Lã Mông, chừng hơn chục người liều mạng chống đỡ mũi xung kích như sấm sét của quân Tào.

Nhìn thấy Tôn Quyền, Lăng Thống đã phá được vây, Trương Liêu bỏ mặc Cam Ninh và Lã Mông, dẫn quân đuổi theo.

Tình thế nguy kịch vô cùng! Lăng Thống để Thiên tướng Cốc Lợi hộ vệ Tôn Quyền, còn mình thì cùng hơn trăm tên kỵ binh quay lại hòng chặn đứng lũ quân truy kích. Bắt đầu một cuộc hỗn chiến! Lăng Thống xông vào chém giết, trên người bị mấy mũi trọng thương, trừ hai con mắt, khắp người là máu, trăm quân đi theo, không còn một mống. Trương Liêu nhìn thấy Lăng Thống thần dũng như vậy, trong lòng biết bao thương cảm. Nhưng phận làm tướng là như vậy, ai vì chủ nấy! Vả đây là cuộc chiến sinh, tử, nên Liêu vẫn phải thúc quân kẹp đánh.

Lăng Thống đã cận kề bên cái chết, bỗng lại gặp may. Ngờ đâu được quân Cam Ninh đến cứu. Ninh đánh tan được một góc quân Tào, hai người thừa cơ thúc ngựa phá vây. Cho rằng Tôn Quyền cũng đã thoát hiểm, nên hai người vội vã phóng về hướng nam.

Tôn Quyền được chư tướng cứu viện, thoát khỏi vòng vây, đến cầu ở bến Tiêu Diêu. Cầu này đã bị quân Tàn phá hỏng, mặt cầu trống mất một khoảng không thể vượt qua. Phía sau truy binh đã kịp đuổi tới. Trong lúc nguy khốn, dễ có kế hay. Cốc Lợi yêu cầu Tôn Quyền cho ngựa lùi lại mươi bước, rồi bất thình lấy dao đâm mạnh vào mông ngựa, con ngựa chồm lên, bay vúa cầu, thế là Tôn Quyền thoát nạn.

Cốc Lợi không qua được cầu. Truy binh vừa tới, một ngọn trường mâu đâm thẳng vào lưng. Cốc Lợi biết cơ mưu cứu chủ, suốt đời trung thành đã ngã xuống. Ở đầu bên kia, Tôn Quyền nhìn lại thấy Cốc Lợi chết mà ứa nước mắt. Nhưng không dám dừng lâu, Tôn Quyền ra roi cho ngựa phóng thẳng. Ở bên này, quân Tào cũng đành rút về.

"Trương Liêu uy chấn ở bến Tiêu Diêu" là câu chuyện chiến đấu nổi tiếng trong lịch sử. Trương Liêu đã toàn thắng. Cử Trương Liêu chủ chiến với Tôn Quyền, Tháo có con mắt tinh đời, nhìn ra anh hùng trong thiên hạ.

Tôn Quyền trở về miền nam, cho tổng kết những nguyên nhân thất bại và uý lạo các tướng sĩ đã bỏ mình.

Bộ tướng là Hạ Tề đã bật Khóc. Tôn Quyền cũng không cầm được nước mắt. Các tướng cho đến bây giờ vẫn còn sợ. Hạ Tề nói:

- Chúa công là bậc chí tôn, dấn thân ra tuyến một, tất nhiên là khích lệ tướng sĩ rất nhiều, nhưng nhỡ có chuyện gì, thì hậu quả khó mà tưởng tượng. Khi bá quan văn võ nghe tin Chúa công không ai là không kinh hãi, tưởng như trời long đất lở. Mong Chúa công lấy việc này mà giữ mình về sau.

Tôn Quyền đến bên Hạ Tề đang thổn thức và nói:

- Lần này ta cảm thấy xấu hổ và nhục nhã. Chỉ vì sơ suất, để không biết bao nhiêu tướng sĩ phải bỏ mạng. Ta nguyện sẽ không bao giờ quên.

Đại quân Tôn Quyền rút về Nhu Tu khẩu. Từ đó ở phía nam tạm thời không có chiến tranh. Ở tuyến ty, cuộc chiến đấu của đại quân Tào Tháo với Hán Trung đang bước vào giai đoạn quyết liệt nhất.

*

Sau lần quân Tào mớ cuộc khủng bố đẫm máu ở Hạ Trì, quân sĩ hành quân, vượt suối, trèo đèo, núi non hiểm trở, song không bị một bộ lạc nào cản trở và quấy nhiễu nữa. Khoảng trung tuần tháng chín, đại quân đã đóng trại tại bờ tây Hán Thuỷ, nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ, rồi xuôi dòng đánh vào Hán Trung. Tào Tháo mời các tướng lại bàn bạc.

Doanh trại quân Tào bên dòng thác cạn gần tây Hán Thuỷ. Nơi đây địa thế rộng, bằng phẳng. Trước mặt là bờ tây sông Hán cuồn cuộn, phía sau là một dãy núi cao ngất, có rừng già cây cối rậm rạp và nhiều muông thú. Binh lính chặt cây làm thành những chiếc bè lớn, chuẩn bị xuôi dòng xuống phía hạ lưu.

Trong trại Tào Tháo, chư tướng và các mưu sĩ đang nghe tổng tham mưu của Tháo là Lưu Hoa phân tích tình hình trước mắt. Lưu Hoa nói:

- Bước một trong kế hoạch của Chúa công nêu ra đã thực hiện xong. Chúng ta gặp trở ngại ở vùng Vũ Đô. như mọi người đã biết. Trương Lỗ đã biết được tình trạng của chúng ta. Ở những vùng hiểm yếu bên bờ tây Hán Thuỷ đã có bố phòng, ngăn không cho chúng ta xuống phía đông.

Lưu Hoa cho mọi người biết tình hình bố phòng của Trương Lỗ do thám mã của Từ Hoảng cung cấp.

Các tướng bàn luận sôi nổi. Người thì cho rằng quân Trương chỉ có những nhóm nhỏ đánh du kích, chống thế nào được với đòn đánh của đại quân ta, ta nên thành lập những nhóm nhỏ, lấy du kích chiến chống du kích chiến để mở đường, sau đó đại quân mới hành quân tiếp.

Tào Tháo ngồi nghe mọi người bàn luận, cuối cùng mới lên tiếng, chư tướng biết là Tháo đã có quyết sách:

- Trọng Đạt (Tư Mã Ý) có nói, Trương Lỗ đã biết hướng đi của quân chủ lực ta, phương châm tránh chỗ thực đánh chỗ không đã đạt được mục đích, nhưng hiện nay thời cơ đã hết. Trên cơ sở đó, Trọng Đạt đề xuất: để một vạn người ngựa, ngựa cho tướng quân Từ Hoảng thống lĩnh, xuôi tây Hán Thuỷ xuống phía đông khống chế Trương Lỗ, làm cho Lỗ nhầm tưởng chủ lực ta vẫn ở phía tây. Còn ta lại cùng bảy vạn người ngựa hành quân theo đường tắt, hiểm trở, đến thẳng ải Dương Bình, Trương Lỗ không kịp trở tay tất phải thua.

Tư Mã Ý và Lưu Hoa là hai mưu sĩ tài hoa thuộc hệ thứ hai của Tào Tháo. Họ sánh được với những mưu sĩ trong thời đầu sáng nghiệp: Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia. Hai người có tác dụng rất lớn trong hoạt động chính trị, quân sự của Tào Tháo.

Tháo xác định phương hướng hành quân với mọi người.

- Từ đây chúng ta chuyển hướng sang phía đông nam, có thể nhanh chóng đến ải Dương Bình. Lương thực vận chuyển đến sau. Mỗi người chỉ mang theo ba suất ăn. Hạ Hầu làm tiên phong, gặp sông thì bắc cầu, gặp rừng thì chặt cây, động tác phải thần tốc.

Tào Tháo cắt cử công việc cho mọi người. Sau cùng còn lại một mình Từ Hoảng. Tháo

- Công Minh! Ta biết ngươi giỏi đánh dã chiến. Nhưng lần này nhiệm vụ của ngươi lại là đánh thuỷ, liệu có hoàn thành được không?

Từ Hoảng nói:

- Chúa công! Công Minh này tuy đần, thuỷ chiến không quen, nhưng suất đời xin hết sức cố gắng.

Tháo nói:

- Giao cho ngươi nhiệm vụ này là có nguyên nhân. Ta cùng ngươi đã tham gia hàng trăm trận đánh, đặc điểm tác chiến của ngươi là biết tuỳ cơ ứng biến, cơ động, nhanh chóng. Lần này chạm trán với Trương Lỗ, ngươi phải biết phát huy ưu thế đó, làm cho Trương Lỗ không hiểu được về đại quân của ta.

Ngày hôm sau, Từ Hoảng ở lại, chủ lực của Tào Tháo xoá biển, cất bếp, nhổ trại di chuyển về hướng đông nam.

Tào Tháo dẫn đầu đoàn quân, chỉ huy mở dường, trèo lên núi cao, lội xuống vực sâu, qua mấy cửa ải phía trước ải Dương Bình.

Chờ cho Tào Tháo đi khỏi, Từ Hoảng mới bắt tay sáng tạo những hành động quân sự nhằm đánh lạc hướng Trương Lỗ. Từ Hoảng chia quân thành ba đạo. Một đạo chặt cây làm bè xuôi xuống phía dưới; một đạo là khinh kỵ, từ hai bờ sông Hán Thuỷ, phối hợp tác chiến với quân thuỷ; một đạo là bộ binh. chia thành nhiều nhóm nhỏ tập kích các cứ điểm có quân Trương Lỗ trấn giữ các cửa ải hiểm yếu.

Trong lúc hạ trại đóng quân, Từ Hoảng lệnh cho binh sĩ đào năm bếp tập thể, theo tính toán lúc đó, một bếp nhỏ phục vụ cho mười người ăn. Hơn một vạn người ngựa, Từ Hoảng cho đào tới bảy, tám vạn bếp nhỏ. Trong lúc hành quân, còn cho binh lính được bộc lộ mục tiêu, thả sức reo hò, gõ chiêng đánh trống.

Mọi người của Trương Lỗ, trừ Trương Vệ, đều cho những hiện tượng giả đó là thật. Trương Lỗ lệnh cho Trương Vệ điều số binh sĩ giữ ải Dương Bình đi phòng vệ vùng Hán Thuỷ. Trương Vệ miễn cưỡng chấp hành, rút đi hơn vạn quân, trọng binh vẫn ở vùng Dương Bình.

Chủ lực quân của Tào Tháo, sau mấy chục ngày hành quân vất vả, đã đến trước ải Dương Bình hợp cùng quân Hạ Hầu Uyên. Trương Lỗ được tin, giật mình kinh hãi.

- Quân Tào xuất quỷ nhập thần, nói đến là đến, thật khó mà lường.

Trương Lỗ vốn là kẻ yếu đuối, ngán ngẩm than thở, và cuối cùng biết mình yếu thế, quyết định đầu hàng Tào Tháo.

Nhưng Trương Vệ, tướng trấn thủ Dương Bình và hộ tướng Dương Ngang kiên quyết phản đối. Trương Vệ nói:

- Huynh trưởng yên tâm, đừng nói lời thối chí làm xao xuyến lòng quân. Tháo tuy mạnh, nhưng là quân từ xa đến, lương thực thiếu thốn, khác nào nỏ cứng giương lên đã đuối sức chưa chắc bắn thủng được mảnh lụa mỏng. Như Hạ Hầu Uyên đấy, một năm ròng, đã cướp nổi của ta một cọng cây, ngọn cỏ nào chưa? Hơn nữa, ải Dương Bình lại có tường cao, hào sâu, chắc gì quân Tào đã phá được!

Dương Ngang phụ hoạ theo:

- Sư quân, tục ngữ có câu "thỏ khôn có ba hang". Trước khi quân Tào đến, chúng ta đã đề phòng kỹ. Tôi đã bàn với các tướng, nếu quân Tào gõ cửa đòi vào, chúng tôi sẽ liều chết mà giữ, sư quân lui về Nam Trịnh chuẩn bị lương thảo chuyển cho chúng tôi. Nếu giặc định phá cửa thành, sư quân tạm lánh về Ba Trung. Huống hồ, khi quân Tào quyết sống mái với chúng ta thì thắng thua, đã biết thế nào đâu?

Tham mưu Diêm Phố cũng quyết như vậy, làm cho Trương Lỗ thêm tin tưởng, lui về Nam Trịnh.

Tào Tháo đóng quân cách Nam Trịnh, khoảng mươi dặm, cho quân tâm phúc đi dò la địa hình ải Dương Bình.

Dương Bình ở giữa hai ngọn núi hiểm trở, dựa vào thế núi, có bức tường cao, dài hơn mười dặm. Trên tường cao, quân kỳ phấp phới, thẳng tắp. Trên mặt thành, cứ khoảng mười thước lại có một đống đá sắc nhọn. Tháo hiểu rằng công phá được thành không dễ dàng gì!

Tháo tự đốc chiến, lệnh quân tiên phong Hạ Hầu Đôn cho quân phá thành đợt một để dò la quân lực của đối phương.

Hạ Hầu Đôn dẫn đầu đoàn quân, cùng hàng vạn lisnh khiêng vác thang mây xông đến chân thành, lệnh cho xạ thủ bắn tên lên mặt thành, yểm trợ cho số quân xung kích.

Khi quân Tào hăng hái, tranh nhau xông lên đến chân tường, bên Trương cờ lệnh phất lên, lính tràn khắp mặt thành, ném đá xuống như mưa. Quân Tào, đứa thì rách chân, gẫy tay, máu me đầy mặt, óc lầy khắp đất. Quân sĩ tổn thất nặng nề, Tháo gõ chiêng thu quân. Bên quân Trương Lỗ tiếng hoan hô nghe như sấm dậ

Tào Tháo tự mắt mình thấy cảnh đó, liền nói lời an ủi tướng sĩ:

- Khi đánh Vũ Đô, chư tướng cho rằng tín đồ của Trương Lỗ chẳng biết đánh đấm gì. Thế mới biết xem thường kẻ địch là một sai lầm lớn.

Suốt trong mười hôm sau đó, Tháo cho quân thay phiên nhau phá thành khoảng mười mấy lần với qui mô nhỏ. Số quân thương vong ngày càng tăng và lương thảo cũng ngày một cạn dần.

Một người có kinh nghiệm chiến đấu như Tàn Tháo đã bắt đầu lo lắng, lực bất tòng tâm. Tháo nói với Tư Mã Ý đầy vẻ thương cảm:

- Ta già rồi! Đầu óc không còn minh mẫn nữa!

Lưu Hoa suy nghĩ rất nhiều. Thương vong, mệt mỏi, lòng quân phân tán, nhất là lương thảo đã gần cạn, Lưu Hoa đề nghị cho rút quân.

Tháo suy đi tính lại và cho dừng việc quân. Điều an ủi Tháo lúc đó, chính là Trương Liêu đã đánh bại quân Tôn Quyền. Nhưng theo mật báo, ở Hứa Đô, có một số nhân sĩ, quý tộc đang câu kết với nhau, lợi dụng lúc Tào Tháo vắng nhà làm chính biến. Đó là điều Tháo phải suy nghĩ. Còn mỗi cách là Tháo viết thư lưu ý thủ lĩnh ngự lâm quân Vương Tất.

Cuối cùng, Tháo quyết định cho rút quân. Tháo lệnh cho Hứa Chử ra tiền tuyến triệu hồi quân lính của Hạ Hầu Đôn.

Chờ mãi không thấy Hứa Chử quay lại lo lắng nói với Lưu Hoa:

- Nhà ngươi cùng với Tân Bình thân ra tiền tuyến xem tình hình ra sao?

Hai người lĩnh mệnh cùng với mấy chục kỵ mã xông vào màn đêm. Tiếng vó ngựa xa dần. Tào Tháo vẫn đứng ngồi không yên, mấy lần ra khỏi trại nghe ngóng tình hình.

Cùng lúc với Lưu Hoa, Tân Bình xuất phát. Hứa Chử dẫn quân về, đường qua một eo núi, ngẫu nhiên phát hiện thấy một hành dinh bí mật, kín đáo của Trương Vệ. Hắn đang uống rượu và ân ái với một cô gái xinh đẹp. Có lính đến báo:

- Bẩm tướng quân! Lính Tào đến cướp trại.

Trương Vệ thất kinh, vội vàng đẩy cô gái ra khỏi lòng, quơ tay làm đổ cả hũ rượu ở trên bàn.

Hắn lắp bắp hỏi:

- Chúng nhiều hay ít?

- Bẩm trời tối nên không được rõ, nhưng chỉ nghe tiếng bước chân mà đoán thì quân đông đấy ạ!

Rất ít người biết có hành dinh này, nên hắn nghĩ: "Có lẽ ải Dương Bình bị phá, bọn thân tín bị bắt, muốn được gia ân mới phản lại ta, chỉ chỗ cho quân Tào biết, việc không thể trễ, tẩu vi thượng sách"- Trương Vệ dẫn một ít quân biến vào rừng về hướng Nam Trịnh.

Hứa Chử nghe bọn tiền tiêu báo tin đó, mừng quá, múa dao phóng ngựa xông vào hành dinh Trương. Vệ. Tất cả đều đã trống trơn. Hứa Chử lấy hành dinh, đNng thời phát binh truy đuổi.

Nghe tin Trương Vệ bỏ trốn, lòng quân ở Dương Bình hết sức xao xuyến. Chẳng ai bảo ai, chúng lũ lượt kéo nhau về hướng Nam Trịnh. Quân Tào thừa cơ chiếm lấy ải Dương Bình.

Khi Lưu Hoa và Tân Bình đến nơi, cũng là lúc phần lớn quân Tào vào chiếm ải Dương Bình. Có thể nói, Lưu Hoa vui mừng không biết để đâu cho hết, liền viết thư cho thân binh về bẩm với Tào Tháo.

Quân Tào vào ải Dương Bình cũng không được thuận buồm xuôi gió. Hạ Hầu Đôn gặp ngay bộ tướng của Trương Lỗ là Dương Nhiệm. Cuộc giao chiến ngay trên đường phố bắt đầu. Dương Nhiệm là tướng sức khoẻ vô cùng. Một mình trên ngựa có thể địch với ba người. Hạ Hầu Đôn mến tài của Nhiệm nên có ý muốn chiêu hàng. Đôn nói:

- Dương tướng quân! Ta mến phục lòng trung nghĩa, thích cái tài của ông, nếu ông đầu hàng Tào công, sẽ được trọng dụng.

Dương Nhiệm lớn tiếng mắng rằng:

- Thằng thất phu một mắt đừng có nhiều lời! Đại trượng phu họ Dương này chỉ thờ một chủ, đâu có chịu hàng lũ giặc nhà Hán kia!

Đôn giận quá, liền cùng mười tên thân binh xông lên chém giết loạn xạ. Nhiệm không địch nổi số đông, trúng một nhát dao và ngã ngựa.

Quân của Trương Vệ như ong vỡ tổ, vứt thành Dương Bình, Tháo chạy về hướng Nam Trịnh với Trương Lỗ.

Một chiến thắng ngoài sức tưởng tượng. Khi Tháo nhận được thư, đầy những tin vui của Lưu Hoa thì không tin ngay cả mắt mình nữa. Khi được các bộ tướng hộ tống vào đến tận nơi, Tháo mới tin đó là chuyện thật, và không khỏi thầm nghĩ "nguy hiểm quá"!

Mọi người vào thành Dương Bình, mới phát hiện thấy lương thực còn rất nhiều, lại còn có bò, lợn, dê, tất cả đều còn sống (đó là vật mà bọn Trương Lỗ mê tín dùng để "ngăn cản" quân Tào mà!). Ba quân reo hò, hoan hô.

Đã lâu lắm họ chưa có chất tanh!

Tào Tháo cho bầy yến, tặng thưởng Hứa Chử ba chén rượu thật đầy. Mọi người đều vui mừng chuốc rượu cho Hứa Chử. Hứa Chử lập công to, vui mừng khôn xiết, càng uống càng khoẻ, cuối cùng thì say khướt. Lúc đó Tào Tháo cũng say đến mờ cả mắt, vừa nâng chén vừa ca hát. Chư tướng cùng cao giọng hoà theo. Hình như ai nấy đều muốn hát cho vợi bớt những nỗi lo âu, vất vả suốt một năm nay.

*

Trương Vệ về đến chỗ huynh trưởng ở Nam Trịnh vẻn vẹn còn lại hơn một ngàn quân.

Trương Vệ đến quỳ ở cửa phòng của Trương Lỗ, kể lể mọi sự tình. Trương Lỗ đến đỡ dậy và an ủi em mình. Và Trương Lỗ cũng hiểu một khi đã mất Dương Bình thì Nam Trịnh cũng chẳng thể giữ được. Quân Tào mà đến là mất ngay. Lần thứ hai, Trương Lỗ lại muốn ra hàng Tào Tháo.

Mưu sĩ Diêm Phố lại khuyên can:

- Hiện nay đang trong cơn khốn đốn mà hàng thì e Tháo cho là không thực bụng, mà khinh rẻ, chẳng được đãi ngộ là bao. Bởi vì con bài mà hai người định trao đổi là Hán Trung đã nằm trong tay Tháo rồi! Chi bằng giờ sư quân tạm lánh sang bên Ích Châu một thời, biểu thị lòng quyết tâm chiến đấu. Sau đó, hai bên phải bàn bạc. Như thế mới có ích.

Trương Lỗ thấy có lý, bèn chuẩn bị vượt Nam Sơn chạy sang Ích Châu. Trương Lỗ mời các tướng đến họp bàn chuyện rút quân; rất nhiều người đề nghị cho đốt sạch cả kho tàng, châu báu, lương thực, quân trang, quân dụng rồi hẵng chạy. Trương Lỗ nói:

- Ta vẫn có ý muốn dâng những thứ này cho Triều đình nhưng chưa có dịp, nay tạm thời phải lánh đi, đấy chỉ là mưu kế, đâu có muốn chống lại triều đình. Tất cả những thứ này đều là của chung, không nên phung phí như thế!

Trương Lỗ bèn sai khoá cả lại tử thế, cử những tên tàn binh già yếu trông coi, sau đó mới chạy vào khu rừng thuộc vùng Ích Châu.

Khi Tào Tháo chinh phạt Hán Trung, Lưu Bị và Gia Cát Lượng ở Thành Đô đã nắm được tin. Gia Cát Lượng nói:

- Tào Tháo muốn lấy Hán Trung nhưng còn sợ Tôn Quyền thừa cơ tiến lên phía bắc, uy hiếp Quan Trung. Nay Trương Lỗ thân cô thế cô, sao Chúa công không cho người sang hoà hảo cùng nhau chống Tào?

Lúc đó, Lưu Bị vừa định xong Ích Châu, quân chính đại quyền còn chưa ổn định, nên không dám xuất quân đến Hán Trung tranh quyền đoạt đất, đành cử sứ giả sang tranh thủ Trương Lỗ, động viên Trương Lỗ, về mặt chính trị, đó là sự uy hiếp đối với ào.

Nhưng miền tây bắc nước Thục, đường đất hiểm trở, ròng rã mấy tháng trời, khi đến Hán Trung thì quân Trương Lỗ đã thua, bao nhiêu dự định thành công cốc, sứ giả đành lại lặn lội quay về.

Trương Lỗ bỏ chạy, Tào Tháo chiếm luôn Nam Trịnh, được cả lương thực, châu báu, toàn bộ kho tàng. Tào Tháo tán thưởng đức hạnh của Trương Lỗ trước mặt những người lính già trông nom kho tàng, đặc cử sứ giả đến vùng rừng núi uý lạo Trương Lỗ.

Phải mất gần một năm trời mới lấy được Hán Trung. Binh sĩ chinh chiến nơi xa, ai cũng có nguyện vọng được trở về. Tháo mời các mưu sĩ đến bàn việc hồi triều và cai trị khu vực Hán Trung.

Các mưu sĩ chủ chốt đã đến đông đủ, Tháo nói những dự định của mình, để mọi người cùng bàn quyết sách.

Tư Mã Ý nói:

- Trương Lỗ đã bỏ chạy, sống chui lủi trong xó rừng, Hán Trung bình định xong. Nhưng Lưu Bị ở Ích Châu chắc không muốn bỏ mảnh đất màu mỡ này. Chúa công nên để một đạo quân tinh nhuệ đồn trú ở đây.

Lưu Hoa nới:

- Kẻ thù lớn nhất của Hán Trung chính là Lưu Bị. Lời của Trọng Đạt nói rất phải. Lại có Trương Lỗ nhiều năm ở Hán Trung, các thế lực khác đều nghe lời ông ta. Thừa tướng nên chiêu an mà sử dụng.

Tháo ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Lưu Bị trước mắt chưa dám xuất quân. Việc gọi hàng Trương Lỗ cũng không khó. Nhưng phái thực lực, cùng các phú hộ ở Hán Trung luôn có thể kích động Trương Lỗ làm phản, Lỗ không nghe không được. Nhân Lạc Dương, sau chiến tranh huỷ diệt, không còn ra một thành phố nữa, ta muốn di họ về Lạc Dương vừa để xây dựng lại thành phố, vừa để quản lý được họ tốt hơn, chư vị thấy thế nào?

Ai nấy đều tán thành, và bắt tay vào việc ngay. Đến tháng chín, Tào Tháo cho dùng vàng bạc, châu báu mua chuộc bảy vị tướng tháp tùng bên cạnh Trương Lỗ ở Đại Ba Sơn, cả bảy vị này đều về theo Tào Tháo. Bản thân Trương Lỗ chần chừ cho đến tháng mười một, rồi nhờ vào những bức thư vừa khẩn thiết vừa thôi thúc của Tháo, mới cùng các mãnh tướng là Bàng Trực, Trình Ngân, Hầu Thiên đến đại bản doanh của Tháo ở Nam Trịnh xin hàng.

Tháo dẫn văn võ bá quan ra ngoài đón tiếp. Trương Lỗ nhìn thấy một vị mình mặc án bào, hai mắt trông rất có thần, râu dài, người bé nhỏ, cùng mọi người đi đến, liền biết đó là Tào Tháo, Trương Lỗ vội đến quì xuống trước mặt nói:

- Thừa tướng! Trương Lỗ mắc tội, nay đã đến!

Tháo bước lên trước, đỡ Trương Lỗ dậy, và nói:

- Đứng dậy! Đứng dậy! Lão phu chờ sốt cả ruột!

Trương Lỗ được Tào Tháo đỡ dậy, cả hai cùng vào trong trướng. Bá quan đã mổ bò, giết lợn, cất rượu, khoản đãi Trương Lỗ và lũ bộ hạ từ trong rừng sâu

Tháo tự tay chuốc rượu cho Trương Lỗ. Mọi người trò chuyện vui vẻ.

Hôm nay, Tháo phong cho Trương Lỗ làm Trấn nam tướng quân, Lương trung hầu, ấp vạn hộ. Năm người con Trương Lỗ đều là liệt hầu. Mưu sĩ Diêm Phố có hành vi ngăn cản Trương Lỗ quy hàng, nhưng Tháo cho Phố là người kiên định, lo liệu những điều tốt lành cho chủ soái, lại biết đồng cam cộng khổ làm hết sức mình, nên cũng được phong liệt hầu.

Phương châm "không tính nợ cũ" của Tháo, đã khiến cho các vị thủ lĩnh quận, huyện đã giúp đỡ Trương Lỗ trước đây lấy làm an tâm. Trăm họ ở Hán Trung cũng yên tâm bắt tay vào lao động sản xuất.

Đầu tháng mười hai, Tào Tháo thu xếp xong mọi việc ở Hán Trung, để lại họ Trương cùng năm ngàn tinh binh đóng quân phía ngoài Nam Trịnh, còn tất cả về triều. Tào Tháo chinh phạt Trương Lỗ, trong thời gian trước khi lấy được Dương Bình, Tháo còn khoẻ, ngồi xe cưỡi ngựa bao giờ cũng ở hàng đầu, tự mình lội suối, trèo đèo, từ chối mọi sự giúp đỡ. Mà nay, trên đường về đã cảm thấy mệt mỏi, chỉ nằm suốt trong xe, đôi lúc thở dài thườn thượt: "Già rồi, đã thành vô dụng!".

Tháo về đến Nghiệp Thành. Trưởng quan hành chính ở Hán Trung do Tháo chỉ định là Tập Tuỷ bắt đầu cho di chuyển số dân giàu có từ Hán Trung về Lạc Dương.

Hán Hiến đế cũng đến Nghiệp Thành chúc mừng Tào Tháo. Hành động của Hiến đế gây nên một làn sóng bất bình trong giới chính trị ở phương bắc. Các sĩ đại phu, những người có học cho rằng làm như vậy là hạ thấp quyền uy của Hiến đế. Người ta chỉ thầm chê trách Tào Tháo. Ngược lại trong doanh trại Tào, phái quân nhân trẻ, những văn sĩ cho rằng Hiến đế là hữu danh vô thực. Tháo nên nhân cơ hội này mà xưng đế. Lưu Tý trong số này đã viết như mong Tháo sớm có hành động. Tháo đã trả lời công khai bày tỏ:

- Không có vị vua nào không biết rõ bề tôi, bề tôi cũng hiểu vua, nếu có người cho rằng ta đủ năng lực làm việc của Chu Văn Vương, có thể họ đã nhầm rồi!

Nhưng trong những trường hợp khác, Tháo lại thể hiện quyết tâm "thờ phụng Thiên tử" đến cùng. Những ngôn từ mâu thuẫn của Tháo làm cho cả hai phía, người trung với Triều đình cũng như người trung với Tháo, không hiểu ra sao cả. Song có một điều ai cũng hiểu: Hiến đế chỉ là con bài nằm trong tay Tháo do Tháo điều khiển.

Đầu tháng mười hai năm Kiến An thứ hai mươi, khi Tháo chuẩn bị đưa quân về Nghiệp Thành, Lưu Hoa và Tư Mã Ý khuyên Tháo thừa cơ đánh vào Ích Châu. Tư Mã Ý nói:

- Lưu Bị dùng mẹo lừa, cố cướp lấy Ích Châu của Lưu Chương, nhân dân Thục còn chưa qui phục. Trước mắt, phòng tuyến của Lưu Bị xa với Giang Lăng, quân lực phân tán, đây là cơ hội tấn công tốt nhất. Chúa công vừa phá được Hán Trung, chấn động cả Ích Châu, nên tiến binh đến đánh cho mau. thì đất này tất phải vỡ. Cổ nhân đã nói: "nắm vững thời cơ thì có thể thắng". Dịp này, Chúa công chớ nên bỏ lỡ.

Tháo rất tâm đắc với những lời của Tư Mã Ý. Nhớ lại những năm tháng trẻ trung mà mừng rỡ. Nhưng thắng lợi vừa qua ở Hán Trung là nhờ vào may mắn. Nhất là đánh vào Ích Châu đâu có đơn giản!

Bởi vậy Tháo

- Trọng Đạt nói rất có lý. Thời trẻ, chính ta cũng ôm ấp nguyện vọng thống nhất đất nước. Thế mà đến hôm nay, vẫn thưa được như nguyện. Nỗi khổ nhất của con người là không biết thế nào cho đủ, đã được Lũng lại còn mong được Thục!

Lưu Hoa biết ý Tào Tháo nhưng vẫn cứ khuyên:

- Tư Mã Trọng Đạt nói phải đấy! Nếu để chậm, có Gia Cát Lượng lo việc trị nước; các tướng Quan, Trương khoẻ trùm ba quân, trông coi trận mạc; dân Thục lại qui thuận. chia nhau ra giữ các nơi cửa ải, thỉ không sao lay chuyển được nữa đâu!

Tào Tháo yên lặng chỉ cười. Lưu, Tư Mã thấy vậy chuẩn bị cáo từ. Lúc đó Tháo gọi Lưu Hoa lại:

- Ngươi khuyên ta mau chóng tấn công Lưu Bị, vậy cứ cho thu thập tình hình đi đã, hôm sau hãng quyết định.

Bảy hôm sau, Tào Tháo cùng với Lưu Hoa, Tư Mã Ý, Trương Cáp, Hứa Chử đi săn bên ngoài thành Nam Trịnh. Vùng này có rất nhiều cầy hương, toả ra một mùi thơm, và thịt cũng rất ngon. Tào Tháo nhìn thấy một chú cầy hương non từ trong rừng chạy ra, nhưng Trương Cáp nhanh mắt hơn, nghe đánh "pằng" một tiếng, chú cầy hương đã ngã, mọi người vỗ tay tán thưởng. Chập tối, khi mọi người chuẩn bị ra về, có một Hiệp uý dẫn một người nước Thục, gọi là gian tế đến gặp Tào Tháo, Tháo lệnh cho đưa người đó về doanh trại.

Dưới ánh nến, Lưu Hoa, Tủ Mã Ý khoản đãi tên gian tế, chờ cho cơm no, rượu say, Tư Mã Ý mới hỏi:

- Thừa tướng thích ngươi, ngươi vì Thừa tướng mà vất vả. Nếu ngươi nói đúng tình hình bên Thục, thì chúng ta sẽ phong quan tiến chức cho.

Tên người Thục, mắt đảo quanh rồi ấp úng, nói:

- Tiểu nhân hàm ân Thừa tướng cho sống, nếu không thật lòng thì quả không bằng loài chó má. Ích Châu sau ngày bị Lưu Bị chiếm đóng, chấn động vì Hán Trung thất thủ, nên không ngày nào là không có, có, có mười mấy cuộc biến loạn. Tuy rằng Lưu Bị đàn áp đẫm máu, nhưng vẫn không khống chế được tình hình.

Lưu Hoa thấy hắn thao thao bất tuyệt, con mắt đung đưa, liền thấy nghi hoặc, nhưng không để lộ ra ngoài, và sai người dọn chỗ cho tên gian tế nghỉ.

Lưu Hoa cùng Tư Mã Ý đến bẩm báo với Tào Tháo. Tháo đang gạt cái bấc đèn, sau mới quay lại hỏi Lưu Hoa:

- Nhà ngươi nghĩ thế nào về chuyện này?

Lưu Hoa đáp:

- Nước Thục đã ổn định rồi, không thể đánh được nữa.

Tào Tháo lại hỏi Tư Mã Ý, Ý chưa nói gì thì Tháo đã nói tiếp:

- Chúng ta cứ để cho hắn tự do, nếu đêm nay hắn trốn, thì đó là những tin tức giả.

Hôm sau, tên kia đã trốn thật. Thế mới biết Tào Tháo xử sự như thần. Ý luôn ming thán phục.

Đủ thấy khả năng xem xét việc quân của Tào Tháo hơn hẳn những người khác. Có điều, bây giờ đã khác trước: ngọn đuốc bá chủ của Tháo có mờ đi, có thể vì hình thế đất nước chia ba đã rõ. Sau này, Tháo không chú ý mấy đến việc quân nữa. Điều đó minh chứng rằng Tháo không muốn bá chủ thiên hạ nữa hoặc muốn nhưng không làm nổi.

*

Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, Tào Thán được phái trẻ và giới võ quan trung thành tiến cử, yêu cầu Hán Hiến đế Lưu Hiệp tấn phong chức Ngụy vương. Số sĩ đại phu trung thành với Triều đình được tin, cảm thấy bất mãn. Thôi Diễm công khai chỉ trích Tháo có âm mưu cướp quyền. Diễm nói:

- Từ năm Kiến An thứ mười lăm, Tào công đã nói về lý tưởng bình sinh của mình ở đài Đồng Tước, tôi còn nhớ mấy câu..."Ta nay, thân là tể tướng, quyền cao chức trọng, vượt quá sở nguyện bình sinh rồi... nay có người hoài nghi ta, quyền thế quá lớn, quên mất mệnh trời, có dã tâm khác. Thực ra đó chỉ là những xét đoán chủ quan của họ mà thôi..." Đại ý là như vậy. Nhưng vừa rồi Tháo từ Tể tướng phong đến Ngụy quốc công. Tuân Úc có chết cũng chẳng ngăn cản được việc tiến phong. Bây giờ lại đòi tiến tước Ngụy vương! Như thế phải chăng là nói một đằng làm một nẻo?

Mao Giới, Hoà Hiệp, Hoàn Giai phụ hoạ theo. Số sĩ đại phu thân với Tháo cũng không vừa. Hai bên đấu khẩu, tranh luận với nhau không thôi.

Tháo nghe tin Thôi Diễm bôi nhọ mình, giận không biết để đâu cho hết bèn rút kiếm chặt đứt một góc bàn, và nghĩ rằng: "Mạnh Đức ta thuận ứng thiên vận, quý trọng nhân tài, ngang dọc mấy chục năm trời, chưa từng thấy có thuộc hạ nào lại dám ngang nhiên xỉ vả mình. Năm đó, Thôi Diễm là cái thá gì ở chỗ Viên Thiệu, về với ta mới được trọng dụng, nay lại lấy oán báo ân, thật là phi lý". Tháo nghĩ lúc chiêu mộ Thôi Diễm, cho Diễm đề bạt nhân tài. Rõ ràng là Thôi Diễm có ảnh hưởng với họ, e rằng lời nói của Diễm sẽ gây thành một làn sóng chính trị! Tháo nẩy ra ý muốn "giết" Thôi Diễm.

Đêm đó, Tháo trằn trọc không sao ngủ được. Buổi đầu sáng nghiệp, Thôi Diễm có công lớn, là một cánh tay đắc lực không nỡ giết đi. Nhưng đại thể chính trị, ý chí của Tháo không thể kiểm soát được nữa. Hậu quả lời nói Thôi Diễm lần này còn nặng nề hơn hậu quả do Tuân Úc gây ra lần trước. Hôm sau, những người ủng hộ Tháo tụ tập ở Ngụy phủ, nhan nhao đòi trừng phạt Thôi Diễm. Đêm qua nghĩ đi nghĩ lại Tháo đã định giết Thôi Diễm, cộng với nhiều lời kích động của mọi người hôm nay, khiến Tháo mất cả vẻ bình tĩnh thường ngày, giọng Tháo rõ ràng là hết sức phẫn nộ:

- Ta đãi Thôi Diễm không bạc, trước đây hắn bất đắc chí, ta phát hiện ra hắn có tài, rồi trọng dụng. Ta thực không hiểu làm sao, quyền chức cao như vậy mà không biết đến vận mệnh của nước nhà! Ta cho hắn quyền bính, ta cũng là người tước đoạt quyền binh ấy.

Tháo hạ lệnh cho Thôi Diễm mấy chữ:

"Cô nghĩ tình xưa, không nỡ xử hạ sách. Cô không ngờ nhà ngươi ngu tối, vẫn thưởng cho ngươi chén rượu độc này. Được chứ!".

Thôi Diễm đọc xong mấy chữ mà ứa nước mắt. Cái chết của Tuân Úc như hiện ra trước mắt. Diễm biết đờiết, liền uống chén rượu mà sứ giả đưa đến.

Những lời Thôi Diễm đả kích Tào Tháo gây nên một làn sóng chính trị. Những người có học của hai phía châm chọc lẫn nhau, nêu lên đủ cái xấu, cái tốt của Triều đình và của Tào Tháo. Được tin Tào Tháo đầu độc Thôi Diễm, "phái tôn vương" trong doanh trại Tào hết sức bất mãn.

Thượng Thư Mao Giới bất bình về chuyện của Thôi Diễm, lấy tư cách là một lão thần, ông đòi minh oan cho Thôi Diễm. Mao Giới là bạn của Tháo từ thời sáng nghiệp. Lúc Tào Tháo khởi binh, chính ông đã giúp Tháo đề ra kế hoạch "mượn tiếng Thiên tử, sai khiến chư hầu" rất có hiệu quả. Tháo cũng nhờ "thờ phụng Thiên tử" làm khẩu hiệu chính trị mới thu phục được lòng người ở phương bắc. Tháo tiến cử Mao Giới với triều đình làm đến chức Thượng thư.

Lúc này người bạn cũ cũng đâm cho một nhát, làm Tháo hết sức kinh ngạc. Các tướng soái trung với Tào Tháo cho rằng Mao Giới là người bảo thủ, cũng phỉ báng, công kích Mao Giới. Tào Tháo tức giận cho bắt Mao Giới giao cho Ty thẩm nghị.

Thị trung Hoàn Giai, Hoà Hiệp xin cho Mao Giới, Tào Tháo mới nể tình cũ miễn cho tội chết. Nhưng để hạ ưu thế của "phái tôn vương", Tào Tháo hạ lệnh đuổi Mao Giới làm thứ dân, không dùng nữa.

Qua các sự kiện: bức tử Tuân Úc, đầu độc Thôi Diễm, phế bỏ Mao Giới, chứng tỏ quyền thế Tào Tháo rất mạnh và Tháo đã xa rời lý tưởng sáng nghiệp ban đầu của mình.

Khuynh hướng của Lưu Hoa cùng tầng lớp có học trẻ không tôn thờ Hán triều, muốn thúc đẩy Tào Tháo xây dựng một triều đình mới - triều Ngụy. Nhưng Tháo vốn không bao giờ muốn tuyên bố đường lối với thiên hạ. Tháo chỉ muốn làm một "Chu Văn Vương", hy vọng con của mình sau này sẽ là "Chu Vũ Vương".

Tháo kể với Tư Mã Ý những thành công trong nhiều năm chinh chiến của mình, và đã không có một kế hoạch lâu dài về mặt chính trị. Vì thế, thường xẩy ra những làn sóng phản đối từ phía sau làm hao tổn không ít sức lực của Tháo. Hiện nay tuổi đã cao, đường chinh chiến nhiều gian nan vất vả, nên Tháo muốn ở lại yên việc nhà và chăm lo bồi dưỡng những nhân tài về chính trị, quân sự cho đất nước.

*

Khi Tháo đang xử lý làn sóng chính trị chỗ Thôi Diễm và Mao Giới, thì nhận được báo cáo từ Hán Trung gửi đến, Hạ Hầu Uyên nói khả năng lại có tranh chấp. Tháo tập trung sức lực xử lý những văn kiện từ tiền phương gửi về như vậy.

Từ khi Tháo rời khỏi Hán Trung, nhiệm vụ phòng thủ được giao cho ba tướng Hạ Hầu Uyên, Từ Hoảng và Trương Cáp, là ba đạo quân tinh nhuệ nhất của Tào Tháo.

Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, Trương Cáp vượt qua Ba Sơn đến vùng Ba Trung. Vùng này là mảnh đất phì nhiêu từ lâu Lưu Bị đã nhòm ngó. Từ khi Tào Tháo còn tác chiến với Trương Lỗ, Lưu Bị đã cử tướng Hoàng Quyền, vốn quen thuộc vùng này, đến chiếm vùng núi Ba Sơn, đánh bại bộ lạc người Hồ, quân Lưu Bị có vẻ muốn tấn công Hán Trung. Để tỏ ra sức mạnh của mình, Trương Cáp dẫn quân tấn công Hoàng Quyền và động viên dân chúng dời vào Hán Trung, lấy chỗ quyết chiến với quân Thục. Trương Cáp dẫn quân hành động mau lẹ, thẳng mấy chốc phá được sào huyệt của Hoàng Quyền, liên tiếp chiếm được mấy vùng trọng điểm quân sự là Mng Đầu, Đãng Thạch.

Trên đường đi Thành Đô luôn có kỵ binh truyền tin, Lưu Bị hốt hoảng tính rằng: nếu Trương Cáp lấy Ba Trung làm căn cứ, mở rộng tới vùng Lãng Trung, như một cái gai cắm vào đất Thục, không nhổ không xong. Lưu Bị liền phái Thái thú Ba Tây là Trương phi ra đối địch với Trương Cáp.

Trương phi lớn tuổi hơn Trương Cáp, nhưng sức khoẻ thực phi thường. Trương Phi bề ngoài trông thô lỗ, nhưng tâm tư thì thấu đáo. Trận đánh ở cầu Trường Bản năm xưa, bằng uy danh trùm lấp ba quân, Trương Phi dùng kế nghi binh, chặn đứng quân Tào, cứu thoát Lưu Bị.

Trương Phi biết mình ít quân, nên chia thành từng nhóm nhỏ, khi có khi không, khi thì tập trung đầy đủ, bằng lối đánh du kích quấy phá quân Trương Cáp. Trương Cáp cậy mình quân nhiều thế mạnh, tưởng Trương Phi không dám đối đầu, nên sinh kiêu ngạo, cứ cho quân réo "Liêm Pha già" mà chửi.

Trương Phi bỏ mặc những lời khích bác, cứ cố thủ chỗ hiểm, hai bên đối địch hơn năm mươi ngày, tận đến lúc lương thực của Trương Cáp đã cạn, binh lính phải ăn rau rừng, chén cả ễnh ương, chẫu chuộc. Lòng dạ Trương Cáp rối bời, chỉ muốn cùng Trương Phi tốc chiến, tốc thắng.

Biết được tin ấy, Trương Phi liền cho dẫn hơn một vạn người, ngựa, giả vờ như đang hành quân theo lối tắt đến đánh úp Trương Cáp.

Trương Cáp được thám mã báo tin, cho rằng Phi lợi dụng lúc khó khăn định đánh úp, liền tương kế tựu kế, rút toàn quân ra khỏi trại đuổi theo hòng đánh tập hậu.

Nhưng khi quân Trương Cáp tiến vào vùng Ngoã Khẩu thì quân Trương Phi đã biến mất tăm. Ngoã Khẩu địa thế hiểm trở, đường vào là con suối cạn khá dài, chỉ có cỏ khô che khuất đường đi, hai bên là vách đá cao hơn chục trượng, ngay đến loài khỉ cũng khó leo lên tới đỉnh. Trương Cáp dẫn quân đi được một lúc, sực thấy nguy hiểm liền truyền lệnh:

- Hậu quân đổi làm tiền quân, rút ngay tức khắc.

Nhưng mọi việc đã muộn. Hậu quân đã bị bọn lính thiện xạ mai phục bắn tên ra như mưa. Đằng kia tiến đến, đằng này lùi lại, quân Trương Cáp co cụm vào giữa suối vô cùng hỗn loạn. Đúng lúc đó, trên kia xuất hiện hai toán người ngựa, trên tinh kỳ nhìn có chữ "Trương" trông loá cả mắt. Trương Phi vung tay trỏ xuống suối, lập tức gỗ, đá chuẩn bị tự bao giờ, lăn xuống cứ ầm ầm, chấn động cả một vùng; tiếp đó, tên cứ nhằm vào lũ quân Tào mà bắn, có đến cả ngàn đứa trúng tên.

Trương Cáp quất ngựa lồng lên, chạy miết vào một khe núi, thoát khỏi lũ quân truy kích. Cáp cùng mười tên thân binh liều mạng chạy đến một mỏm núi, lúng túng như cá mắc lưới, cuối cùng cũng tìm được đường chạy về chỗ Hạ Hầu Uyên đóng quân.

Lần đó, Trương Phi thắng được mãnh tướng của Tào Tháo là Trương Cáp, giết và gọi hàng được hàng vạn người ngựa bên Tào.

Hạ Hầu Uyên thấy Trương Cáp nướng sạch hàng vạn quân lính, liền tức giận gọi đao phủ đem Trương Cáp đi chém đầu, còn mắng cho mấy câu.

- Mày kiêu ngạo ta đây, nướng sạch lũ tinh binh. phụ công Thừa tướng uỷ thác, còn mặt mũi nào trông thấy tao n

Quách Hoài can rằng:

- Ba quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Trương Cáp tuy là người có tội, nhưng trước đây có nhiều công lớn, !à người Ngụy vương yêu mến, giết đi không tiện. Nên để hắn lấy công chuộc tội, còn có lợi cho chúng ta.

Hạ Hầu Uyên bớt giận, tạm hoãn tội chết cho Trương Cáp lệnh đem hạ ngục. Sau đó Hạ Hầu Uyên viết thư về bán tin buồn cho Tào Tháo.

Tháo không ngờ Trương Cáp lại thua trận. Để ổn định lòng quân ở Hán Trung, Tháo viết cho Hạ Hầu Uyên, ý nói: "Thắng bại là chuyện thường trong việc quân. Trương tướng quân bại trận là do chủ quan khinh địch, cần phải đề phòng, tăng cường cánh giác v. v.." Lúc đó Tào Tháo có ý muốn đến Hán Trung đốc chiến, tiếc là ở phía đông Tôn Quyền lại động binh. Nên Tào Tháo đành lệnh cho Hạ Hầu Uyên cố thủ, quyết không nóng vội, manh động. Tào Tháo ra đốc chiến ở phòng tuyến phía đông.

*

Năm Kiến An thứ hai mươi, sau khi đánh bại quân Tôn Quyền, doanh trại của Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến trở thành cục diện đối địch giữa Ngụy và Ngô. Từ khi Tôn Quyền xuýt mất mạng ở Hợp Phì và mất đi một số tưởng lĩnh tài ba thì quyết tâm báo thù trong quân Đông Ngô ngày càng mạnh. Số quân Đông Ngô bố phòng ở Nhu Tu sẵn sàng xông lên phía bắc.

Tào Tháo tin rằng Trương Liêu có thể chống lại quân Đông Ngô tiến công, tuy binh lực của Trương Liêu ít ỏi. Nhưng để buộc quân Đông Ngô phải rút, nói cách khác, để chấm dứt cuộc chiến liên miên với Tôn Quyền, năm Kiến An thứ hai mươi hai, Tháo lại dẫn đại quân nam hạ. Đại quân của Tháo vô cùng hùng hậu, tỏ rõ quyết tâm đè bẹp Tôn Quyền bằng vũ lực. Các cánh quân gồm có: Phục ba tướng quân Hạ Hầu, Nam quân đô đốc Tào Nhân, còn điều cả quân của Tử Hoảng ở Hán Trung về hợp cùng quân Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến. Toàn quân lên đến hơn hai mươi vạn người.

Mây đen phủ kín bầu trời Nhu Tu, chiến tranh lại sắp nổ ra.

Được tin Tào Tháo dẫn đại quân đến, Tôn Quyền lệnh cho thuỷ lục đại quân thiện chiến nhất kết hợp ở cửa Nhu Tu. Cử Lã Mông đại tướng hàng đầu của Đông Ngô phòng thủ tuyến một; tướng trẻ Lăng Thống, Cam Ninh dẫn quân chủ chiến theo sát Lã Mông. Ngoài ra còn biên chế thêm các đạo quân do Chu Thái nổi danh dũng mãnh và trung liệt, Vu hổ lệnh Từ Thịnh, Tả hộ tướng Tưởng Khâm, và Đổng Tập danh tướng ở Xích Bích, thống lĩnh. Thế trận to lớn, hùng mạnh chưa từng thấy ở Đông Ngô. Thực lực quân Tôn Quyền so với quân Tào cũng là kẻ tám lạng người nửa cân.

Lần này dẫn quân nam hạ, không có các mưu sĩ Lưu Hoa, Tư Mã Ý đi theo. Trước khi lên đường Tháo nói với mưu sĩ Lưu Hoa:

- Đi lần này, chỉ sợ có kẻ lại thừa dịp dấy lên phong trào này. Mong ngươi ở lại, diệt trừ mọi khả năng xấu xuất hiện, phải bóp chết chúng, từ trong trứng nước.

Lưu Hoa gật đầu, hiểu ý.

Tháng hai, vạn vật hồi sinh, nét xuân tươi tắn. Tôn Quyền và Tào Tháo đóng quân ở Nhu Tu, doanh trại chi chít suốt mấy dặm đường. Không khí mùa xuân tinh khiết và mát mẻ, chim chóc ríu rít. Không kể gì đến cuộc chiếkhốc liệt sắp xẩy ra, thiên nhiên vẫn phô diễn một cảnh tượng đẹp đẽ vô cùng.

Tào Tháo cử Nhạc Tiến dẫn quân tiên phong đến cửa sông Trường Giang. Tôn Quyền sai Lã Mông chỉ huy tiền tuyến cùng Từ Thịnh và Đổng Tập đến nghênh chiến.

Trên miền thượng du, tuyết bắt đầu tan. Mực nước sông Trường Giang dâng cao, sóng nước cuồn cuộn. Chiến thuyền của Đông Ngô to lớn, vững chãi, chiếm phần ưu thế trên mặt sông. Quân Tào không quen thuỷ chiến, khống chế vững chắc ở các cửa sông.

Từ Thịnh dẫn một ngàn quân, từ một vùng hẻo lánh, đổ quân lên bờ chiếm giữ một phần đất. Các cánh quân khác lục tục kéo đến, người ngựa chen chúc vào một nơi. Nhạc Tiến quan sát thấy, liền đưa quân áp đảo đến công kích. Quân Đông Ngô sợ quá, cho đóng chặt cửa doanh trại không dám ra nghênh chiến.

Để nâng cao sĩ khí, Từ Thịnh bàn với Đổng Tập, quyết định dẫn quân theo đường vòng tập kích vào quân của Lý Điển. Họ chia thành hai đường, Từ Thịnh dẫn mấy trăm dũng sĩ đánh trên mặt đất, Đổng Tập cho thuyền thuận theo dòng nước đến trước trại của Lý Điển. Khi Từ Thịnh như một luồng sét đánh xuống đầu Lý Điển, thì trên chiến thuyền, quân của Đổng Tập reo hò, chiêng trống ầm ĩ để trợ lực. Hai bên hỗn chiến một hồi. Nhưng Từ Thịnh ít quân, nên dù có chủ động, dũng cảm, lấy một chọi mười, giết được một ít quân Tào, cuối cùng vẫn đuối sức. Lý Điển lại cho thuyền to đâm vào thuyền nhanh của Đổng Tập cho chìm đi, còn lấy giáo dài đâm những tên lính trôi nổi trên mặt nước. Từ Thịnh thấy Đổng Tập đã chết, liền cố phá vây chạy thoát.

Tôn Quyền nghe tin quân tiên phong bất lợi, cử luôn Chu Thái đi tiếp ứng. Tào Tháo đã bố trục binh, Trương Liêu, Từ Hoảng xông ra ứng chiến. Tào Tháo đứng trên gò cao, thấy Tôn Quyền bị vây, Chu Thái liều thân tử chiến, áo bào nhuốm máu, tên cắm suốt hai lần áo giáp, mới cứu được Tôn Quyền ra khỏi vòng vây.

Được tin Tôn Quyền bị Trương Liêu, Từ Hoảng vây chặt, tính mạng nguy khốn. Lã Mông ra khỏi Nhu Tu, đánh ngựa, giục quân nhanh chóng đến cứu. Nhưng khi đến nơi đã thấy Tôn Quyền thoát nạn. Trương Liêu, Từ Hoảng thấy Lã Mông đến, vội cho quân ra nghênh chiến.

Lã Mông không còn lòng dạ nào mà đánh, quay ngựa đi luôn. Trương Liêu đâu có chịu bỏ qua, liền giương cung đặt tên, bắn phăng mất cái giải mũ của Lã Mông.

Lã Mông giận quá. từ xưa đến nay chưa từng chịu nhục bèn dừng quân lại, bày trận hình vuông, các xạ thủ phục ở dưới chân, còn mình thì xách dao xông lên một mỏm núi, cầm roi trỏ xuống mắng rằng:

- Trương Liêu! Dám cùng đấu với Lã mỗ để xem tài cao thấp.

Trương Liêu bảo Từ Hoảng áp trận, cầm kích xông lên trước.

Lúc đó đã gần hoàng hôn, chim chóc bay về tổ, ánh mặt trời đang chìm xuống phía tây, sương mờ đã trải dài trên mặt Trường Giang. Quân sĩ hai bên còn nhìn thấy từ trên mỏm núi hai con ngựa đang quấn vàn nhau, tiếng dao, kích va đập loảng xoảng, nghe đến rợn cả người.

Trong lúc Từ Hoảng đang chăm chú theo dõi cả hai người đấu với nhau, thì viên hiệu uý bên quân Ngô lén bắn một mũi tên. Mũi tên chỉ trúng tên lính cầm cờ đứng phía sau. Từ Hoảng giận quá, dẫn quân xông vào trận của đối phương. Quân Đông Ngô người ngựa đều ít, nên dù tên bắn ra như mưa, cũng ngăn được Từ Hoảng. Cuối cùng thì đại bại. Lã Mông liếc mắt, nhìn thấy cảnh ấy, và chỉ cần đãng đi một chút. Trương Liêu đã đâm trúng vai của Lã Mông. Mông thu dao, đánh ngựa phóng thẳng. Trương Liêu đuổi không kịp. Lúc sau nhìn ra thì Lã Mông đã lẩn vào trong rừng cây um tùm bên bờ sông.

Tào Tháo biết tin Lã Mông đi cứu Tôn Quyền, Nhu Tu khẩu bỏ trống. Tháo liền dẫn quân cùng Nhạc Tiến, Tào Chân, Tàn Hưu xông đến Nhu Tu. Quân Ngô có khả năng tan rã cả tuyến. Tướng giữ thành là Lăng Thống và Cam Ninh liều chết chống trả.

Nhu Tu khẩu nhiều năm ở trong tay Tôn Quyền nên có tường cao, hào sâu, trong thành chứa rất nhiều tên. Quân Tào đã mấy lần tấn công đều bị tên bắn xuống như mưa chặn lại, thương vong vô kể. Để cổ vũ sĩ khí, Nhạc Tiến cầm mộc, xách kiếm nhảy lên mặt thành, nhưng vẫn không sao phá được phòng tuyến, ngược lại, đã bị trọng thương vì tên bắn trúng đầu.

Tào Tháo tận mắt nhìn thấy quân lính dũng cảm chiến đấu nhưng bị chết như ngả dạ. Tháo đang nghĩ ngợi tìm cách phá thành thì thấy quân lính cảnh giới từ xa phóng ngựa về báo:

- Bẩm báo Ngụy vương, có một cánh quân Ngô kéo đến cứu viện.

Tào Tháo lo nhất điều đó. Bởi vì phá thành không xong, thương vong quá lớn, binh lính đang chán nản, viện binh mà tới thì quân trong thành càng hăng, họ đánh từ hai bên lại, quân ta tất nguy.

Tháo đang tính xem nên điều đạo quân nào đi nghênh địch, bỗng thấy quân bên phía Tào Nhân rối loạn, cục diện toàn tuyến biến đổi. Quân ta từ thế công chuyển sang thế thủ. Việc chiếm Nhu Tu trở thành ảo ảnh, lập tức Tháo điều kỵ binh của Tào Hưu đi chặn hậu, quân lính tập hợp nhanh chóng rút về

Quân Tào rút sạch sành sanh, còn lại mấy con ngựa chết và những binh khí bị gẫy. Ngay cả xác chết, quân Tào cũng có cách mang theo hết. Cam Ninh tấm tắc phục tài chỉ huy của Tào.

Bộ tướng của Tôn Quyền vừa đánh bại quân của Tào Nhân vừa từ hậu phương đến chi viện, là tướng trẻ Lục Tốn. Lục Tốn là con rể của Tôn Sách, thông hiểu binh pháp, lại tham mưu có tài. Lần đầu tiên ra trận đã chạm trán với quân Tào đầy kinh nghiệm, nhưng Tốn đã thắng.

Lúc tổng kết kinh nghiệm trong ngày, Tháo hết lời ca ngợi Lục Tốn. Tháo cảm thấy mệt mỏi. Mọi người vì thất bại nặng nề mà ủ rũ, nhất là Tào Nhân, còn cảm thấy xấu hổ nữa. Tháo đánh giá cao Tào Nhân, quả là Tào Nhân đã đánh nhiều trận, có nhiều chiến công hiển hách, mà nay lại chịu thua một viên tướng trẻ, trong lòng cảm thấy không phục. Nhân trình bày với Tào Tháo:

- Xin Ngụy vương lại cho một ít quân, mạt tướng khiêu chiến với Tôn Quyền, chém đầu Lục Tốn để an ủi vong linh chư tướng đã khuất.

Tháo nói:

- Trận đánh vừa qua, chuẩn bị chưa tốt nên phải chuốc lấy hậu quả như thế này. Nhiều lần ta đã nhấn mạnh. thấy được thì hẵng tiến, khó khăn thì nên lui, đừng ham cái lỏi bé mà gặp cái vạ lớn, trong cái lợi phải nghĩ đến cái hại... Nghĩ được mà làm cũng khó thật!

"Thấy được thì hẵng tiến, khó khăn thì nên lùi" là một chủ trương nhất quán của Tào Tháo. Chư tướng nghe xong mới hiểu được tâm trạng của Tháo

Tôn Quyền có thực lực. Lấy đá chọi với đá thì cả hai bên sẽ tổn thất nặng nề. Vừa qua Tháo bằng chiến thuật "sấm to mưa bé" để thăm dò lực lượng Tôn Quyền. Lúc này cả hai bên đều dàn trận nhìn nhau thực hành chiến tranh lạnh.

Tôn Quyền tự biết mình không thắng được Tào Tháo. Hơn nữa mâu thuẫn với Lưu Bị về vấn đề Kinh Châu ngày càng tăng, liên minh Tôn, Lưu đã vỡ. Chiến lược hiện nay của họ Tôn: bắc thì thân tình với Tháo, tây thì bài xích Lưu Bị. Bởi vậy ba tháng sau, Tôn Quyền cho sứ giả sang doanh trại Tào Tháo xin nghị hoà. Sứ giả dâng thư xin hàng lên Tào Tháo. Tào Tháo cũng sai sứ giả đến đáp lễ, tỏ tình hoà hiếu. Hai bên chính thức kết thúc cuộc chiến kéo dài hàng chục năm kể từ trận Xích Bích. Tào Tháo đưa hai mươi mấy đạo quân bố phòng ở Hán Trung, Tương Thành, Hợp Phì về Nghiệp Thành. Từ đó về sau, không dùng binh với Tôn Quyền nữa.

*

Trên đường dẫn quân về Nghiệp Thành, Tháo suy tính một kế hoạch riêng cho họ Tào. Tháo nghĩ một lượt về quá trình sáng nghiệp, về Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Thôi Diễm, Mao Giới, những người đi theo ngọn cờ khởi nghĩa cần vương, thờ phụng Thiên tử của Tháo. Họ là những người có cốt cách, trung thành đến mù quáng với vương triều nhà Hán dù biết nó đã đến lúc mãn chiều xế bóng. Tào Tháo đã "vĩnh biệt" họ.

Những ngày là Thừa tướng, Tháo đề bạt số người còn ít tuổi như Hoa Lâm, Lưu Hoa, Tư Mã Ý. Họ mạnh dạn phế bỏ Hiến đế, lập Tháo làm vương. Họ là những người chỉ thấy cái công và cái lợi, chưa được vừa ý Tháo; Tháo chỉ muốn là "văn vương" chưa là "vũ vương

Hôm Tháo về đến Nghiệp Thành, Tào Phi và các em cùng văn võ bá quan ra thành đón tiếp.

Tào Tháo từ trên xe bước xuống, Tàn Phi, Tào Thực... quì lạy vấn an. Tháo đỡ chúng dậy và ngắm nhìn chúng.

Tào Phi sắc thái bình tĩnh, dáng vẻ oai phong đường bệ. Tào Thực thì nét mặt hồng hồng, hơi thở có lẫn mùi rượu, thoáng có nét giận trên mặt Tào Tháo. Chẳng lẽ trước mặt mọi người lại trách mắng con, Tháo quay người lên xe. Các quan đi theo đưa Tháo về Ngụy vương phủ.

Tháo về Nghiệp Thành đã mấy tháng, nhưng chưa một lần đến Hứa Đô. Lưu Hoa được toàn quyền giải quyết mọi việc ở đó. Tháo muốn tĩnh dưỡng sau nhiều năm chinh chiến vất vả; muốn dồn tâm trí cho vấn đề họ tộc.

Tháng sáu. Tháo cho mời các quan tâm phúc ở Hứa Đô và Nghiệp Thành đều về Ngụy vương phủ nghị sự, bắt tay xây dựng một cơ cấu cho họ Tào.

Trên sảnh đường, Tàn Tháo ngồi chính giữa, bốn người con ngồi phía sau.

Lưu Hoa, Hoa Hâm, Tư Mã Ý, Dương Tu, Đỗ Kỷ, các văn thần, mưu sĩ ngồi bên trái, Vương Tất cùng các võ tướng ngồi bên phải.

Chờ cho mọi người yên trí, Tháo mới nói:

- Vào năm Kiến An thứ mười chín, để bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, ta có ban một lệnh ngắn để cầu hiền, ý nói: "người có đức chưa chắc đã có chí tiến thủ; người có chí tiến thủ, vị tất đã có đứ" và đơn cử như Trần Bình, Tô Tần kém đức, nhưng có tài thì cứ nên dùng. Bây giờ ta vẫn giữ ý kiến đó. Tuổi già đã đến, nay ta cầu hiền như người khát nước. Xin các vị hiến kế và tiến cử những nhân tài như vậy.

Các quan tâm phúc chưa bao giờ thấy có một hội nghị trịnh trọng như hôm nay, có các con của Tháo cùng dự. Hơn nữa nghe đến mấy chữ "tuổi già đã đến" Tháo nói thong thả và rõ ràng, các quan đều hiểu rằng Tháo cần cái gì.

Lưu Hoa nói:

- Ngụy vương chân thành với nhân tài, thật hiếm thấy. Ai cũng hiểu rõ nguyên tắc "có tài thì dùng" của Ngụy vương, nên nhân tài của miền bắc mới qui thuận. Nhưng "có tài thì dùng" vẫn để lại một tì vết gì đó.

Hoa Hâm tiếp lời:

- Đúng! Sử dụng người tài thì không ai bằng Tào công, nhưng có người lại không biết đó là sự đề bạt, tiến cử, rồi chịu ơn mà trả oán. hết lời phỉ báng như loại Thôi Diễm, tuy là có tài nhưng vô dụng.

Tư Mã Ý nói:

- Trọng Đạt này thật ngu muội, đề cử sai lầm. Thật là giận cho những kẻ uống nước mà không nhớ nguồn. Ngụy vương xử phạt nghiêm khắc như vậy là rất đúng!

Tháo biết mọi người đã hiểu được ý mình nên chỉ vào mấy đứa con rồi nói:

- Các vị phò tá ta giành hơn nửa phần thiên hạ, lập công lớn trong nỗi gian truân vất vả. Nhưng tuổi già đã đến rồi, đời ng1;i còn được mấy chốc? Mong các vị chỉ bảo cho con cái ta, để chúng biết đường trị quốc. Việc chọn nhân tài, ý ta là không câu nệ về phẩm hạnh. Xưa kia Y Chí xuất thân từ giặc giã, Quản Trọng ngồi trong xe tù của Hoàn Công, mà vẫn được trọng dụng, vận nước trở nên hưng thịnh; Tiêu Hà, Tào Tham giữ chức chủ bạ, Hàn Tín là tay du thủ, Trần Bình mang đầy tiếng xấu, người đời nhục mạ, nhưng họ vẫn giúp cho Hán Cao Tổ dựng nên đại nghiệp, bình thiên hạ!

Tháo quay lại nhìn mấy đứa con rồi nói tiếp:

- Tên tuổi Ngô Khởi được truyền tụng ngàn đời. Ông ta vì tham quyền tước mà giết vợ, mất ngàn vàng để được quan chức, mẹ chết không kịp đưa tang, đâu phải là người có đức hạnh, nhưng khi làm đại tướng thống lĩnh ba quân nước Ngụy, thì nước Tần đố có dám ho he; khi đến làm tướng nước Sở thì ba nước Hàn, Triệu, Nguy không dám bàn chuyện đánh xuống phía nam, thế mới biết, ông ấy là người quan trọng như thế nào...

Bài nói của Tào Tháo được chỉnh lý và phát hành vào năm Kiến An thứ hai mươi hai, gọi là "tiến cử người hiền không câu nệ phẩm hạnh".

Khi ra khỏi Ngụy vương phủ, Tư Mã Ý mời Dương Tu đến nhà mình dự yến.

Dương Tu thích vừa uống vừa bàn, bởi lúc đó tư duy mới linh hoạt. Tu thường vui vẻ với Tào Thực, vì thế có phần bị Tháo xem thường. Ý và Tu vừa uống được mấy chén thì câu chuyện trở nên rôm rả, xoay quanh buổi họp hôm nay. Dương Tu nói:

- Hôm nay Ngụy vương nói như vậy là để sắp đặt tả hữu cho đời sau. Nguỵ vương tuy lập Tào Phi làm thế tử, nhưng trong lòng lại thích Tào Thực hơn, ông đoán xem người giữ cơ nghiệp sau này sẽ là ai?

Ý là người thận trọng, nói năng chừng mực:

- Việc lập Tào Phi làm thế tử đã thành qui chế, khó lòng sửa đổi. Tào Thực thì giống cha, nhưng do uống rượu, phóng túng, Ngụy vương đã phải mắng mỏ. Hơn nữa, Tuân Du, Giả Hủ đã nhiều lần phân tích lợi hại của việc lập thế tử. Ngụy vương chắc đã suy nghĩ chín lắm mới nghe theo.

Hai người vừa uống vừa bàn, từ chuyện lập thế tử sang đến chuyện nhân sự trong vương phủ, tới lúc say khướt mới thôi.

Đêm đó, Tào Tháo cũng thao thức vì chuyện nhân sự trong phủ. mãi đến canh ba vẫn chưa chợp mắt.

Bấy giờ mùa hạ, trong phòng ngột ngạt, Tháo chắp tay sau lưng bước ra khỏi phòng, đến vườn hóng mát. Trong vườn, hoa thơm ngào ngạt, những con đom đóm bay qua bay lại. Một tên thị nữ đem đến đặt ở khoảng trống một chiếc ghế đu cho Tháo, rồi cung kính đứng bên nghe sai bảo.

Bầu trời không trăng, không sao, không khí hầm hập. dáng chừng sắp có một cơn mưa mùa hạ.

Người già thường hay hồi tưởng những năm tháng đã qua, những lúc "cầm gươm trên lưng ngựa". Tình cảnh ba mươi năm về trước, nhất là sau chiến thắng Quan Độ, các chiến tướng tụ hội, mưu sĩ các nơi đổ về. Đi đến đâu là thu hút nhân tài ở đó. Lúc đóng quân ở hai châu Duyên, Dự, các danh sĩ vùng Trần Lưu, Nhữ Nam, Dĩnh Châu đổ về như Quách Gia, hai họ Tuân, Đỗ Kỷ, Tôn Tư; ở hai châu Dương, Từ miền đông, không ít danh sĩ mến mộ tài danh của Tào mà tìm về như Lưu Hoa, Tưởng Tế, Hồ Chất ở Dương Châu, hoặc như Trần Quần ở Từ Châu.

Bỗng tên thị nữ cắt ngang dòng suy nghĩ của Tháo:

- Khởi bẩm Ngụy vương, xin Người vào nhà, trời sắp có mưa.

Tháo ngẩng mặt nhìn lên, bầu trời u ám, có những tia chớp lướt qua, có những tiếng sấm ầm ầm từ xa vọng tới. Cây cỏ trong vườn đung đưa trước những cơn gió, hình như đang chờ đợi một cái gì đó khác thường sắp tới.

Tháo và thị nữ vừa bước lên thềm thì trời đã đổ mưa. Trên không, tiếng sấm vang rền, từng tia chớp như những con rắn khổng lồ xẹt qua sáng loáng. Mưa càng to, gió càng dữ, rèm che trong các căn phòng căng phồng như những cánh buồm căng gió.

Chớp giật, sấm vần, gió lớn, thiên nhiên ngày ngày hung dữ.

Tào Tháo, tâm thần bất định, đang giương mắt tìm kiếm tia chớp đã qua. Tia chớp như một ngọn dao chăng? Nếu như bầu trời là một cơ thể sống động, thì tia chớp kia đã làm cho tan nát mất rồi!

Sinh ra trong thời loạn, người anh hùng muốn cho đôi tay không nhuốm máu, liệu có được không? Tháo bỗng nhớ đến Tuân Úc, đến Thôi Diễm, Khổng Dung. Tháo không sợ những "oan hồn" đó. Tháo nhớ lại những lời đả kích của Khổng Dung mà căm thù. Khổng Dung chết là đáng đời. Nhưng Tháo không thể nào quên được Tuân Úc.

Suốt đêm Tháo không ngủ. Những tâm tư của Tháo cũng nặng nề như bầu trời đêm qua vậy.

Chẳng mấy chốc trời sáng, mưa ngừng. Tháo mở cửa nhìn ra vườn. Sau một trận mưa bầu trời như trong sáng hẳn lên. Khí trời thoáng đãng. Những tia nắng ban mai thật xán lạn, chim chóc ríu rít, cây cỏ như xanh tươi hơn. Tháo thấy lòng mình thanh thản trở lại. Lúc này trong đầu óc lại xuất hiện một bên là: Giả Hủ, Lưu Hoa, Tư Mã Ý, Tân Bình, Dương Tu, Hoàn Giai, Vương Diễm, Dương Bái và những đại thần văn nhân và một bên là Tào Nhân, Tào Hưu, Tào Chân, Tào Duệ, anh em Hạ Hầu Uyên, Từ Hoảng, Vu Cấm, Trương Liêu và các võ quan.

Tháo hít thở một hơi dài và tự nhủ thầm: Họ Tào có biết bao nhiêu nhân tài, lòng dạ trung trinh, thì liệu đất nước này còn có gì nằm ngoài tầm tay của họ?

Tháo cảm thấy phấn chấn, cho gọi ban nhạc đến, đàn hát bài ca làm mấy chục trước.

Thanh thanh áo ai

Lòng trông vời vợi

Dành riêng cho ngươi

Bâng khuâng trọn thời

Tao tác hươu nai

Ăn trái vườn ngoài.

Cùng ta khách quý

Múa hát đàn say.

Vằng vặc gương trăng

Bao giờ trăng khuyết?

Ưu tư dâng dâng

Đòi cơn không ngớt

Trèo đèo vượt suối

Khó nhọc vẫn đầy

Sum vầy chia sẻ

Tình xưa khôn khuâng.

Nguyệt tỏ sao thưa

Hướng nam chim lượn

Đã mấy vòng đưa

Tổ ấm nơi nao?

Núi chẳng ngại cao

Sông chẳng ngại sâu

Chu công giải tỏ

Thiên hạ tâm đầ

(Cung Khắc Lược dịch)

Tháo cất can tiếng hát, quên mất là đêm qua không hề chợp mắt....

Bảy ngày sau, Giả Hủ, Lưu Hoa, Tân Bình cho ban bố khắp nơi bài "cầu hiền không câu nệ về phẩm hạnh" của Tháo, làm chấn động khắp nơi.

Theo ý kiến của Tào Tháo, các quan chức trong Ngụy phủ nhanh chóng trở thành tả, hữu của họ Tào.

Văn quan có: Giả Hủ, Lưu Hoa, Trương Ký, Vương Diễm, Chung Do, Hình Trinh, Tư Mã ý, Đỗ Kỷ, Tưởng Tế, Hồ Chất...

Võ tướng có: Anh em họ Tào và các võ tướng: Tào Nhân, Tào Hồng, Từ Hoảng, Lý Điển, Khiển Thác...

Xác định được tả hữu như vậy, coi như xong một việc lớn, Tháo thấy trong lòng thanh thản hơn. Lần đầu tiên, Tháo để tâm vào lĩnh vực chính trị. Tuy vậy, Tháo vẫn canh cánh một nỗi lo bên lòng, Tháo thổ lộ với Lưu Hoa:

- Ta, Lưu Bị và Tôn Quyền, nằm trong các cục diện khác nhau. Riêng ta là khó khăn nhất. Lưu Bị luôn nêu cao ngọn cờ là hậu duệ nhà Hán. Tôn Quyền thì ba đời cai trị Giang Đông, dân Ngô thường gọi ông ấy là vương. Ta sống dưới triều Hán, một triều đại hữu danh vô thực, nhưng lòng trung của người dân có tính thâm căn cố đế, bởi vậy, tai hoạ có thể từ đấy mà ra, cần phải đề phòng.

Lưu Hoa là mưu quan trọng trong những năm cuối đời Tháo. Khác hẳn các mưu sĩ kia chỉ biết lập công cầu lợi, Lưu Hoa thông cảm với những nỗi khổ tâm của Tháo. Tháo thấy thích thú nên hay tâm sự. Tháng tám, bài "cầu hiền không câu nệ về phẩm hạnh" được ban bố đã có một tác dụng lớn. Tào Tháo có thêm nhiều nhân tài, phân phối đến làm việc ở chỗ Tào Phi, Tào Thực. Như vậy, tả hữu ở phủ Tào dần dà được bổ sung và vững chắc.

Để các con có dịp tiếp xúc vòi tướng soái, Tháo thường tổ chức những buổi săn bắn, những chuyến đi đến các châu U, Tinh, đến Tương Thành, Hợp Phì...

Tào Tháo nhận xét về bốn người con rất tinh thế. Tháo cho Tào Phi là "Thâm trầm thành thục, văn võ toàn tài", Tào Chương: "râu vàng mãnh tướng"; Tào Thực: "tuỳ tiện, ít vận động, hay quá chén"; Tào Hùng "bình thường bậc trung". Thực tế gần đúng như vậy, quả là "không ai hiểu con bằng cha".

Tào Chương có phần giống cha nhiều hơn. Hình dáng bé nhỏ, tính cách thô mạnh, giỏi cưỡi ngựa bắn tên, có thể tay không giết mãnh thú; mặt mũi đầy râu vàng khè, trông thật mạnh mẽ.

Tào Chương ham thích luyện võ, chẳng mấy khi sờ đến sách, đôi khi Tháo phải nhắc nhở đến mệt cả người.

Tào Tháo đã mấy lần cảnh cáo Chương:

- Con không chịu đọc sách, chỉ cưỡi ngựa bắn tên, sau này chỉ là kẻ dũng phu, sao có thể trở thành đại trượng phu chống trời đạp đất, nhất hô vạn ứng được?

Tào Chương nói ngay:

- Thưa cha, c chỉ muốn làm một đại tướng như Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh trấn thủ nơi quan ải, tung hoành ngang dọc, chứ đọc sách để làm gì?

Về sau Tào Chương đã đi đánh nhau với Ô Hoàn, lúc đầu là lính trơn, về sau lập được công to, được Tào Tháo thích thú.

Tào Phi, từ bé tính tình đã trầm tĩnh, bề ngoài thì nho nhã, đôn hậu. Được cha dìu dắt, chẳng mấy chốc đã biết lập chí, xác định lý tưởng. Phi thường được ở gần cha, tiếp thu được nhiều cái hay ở cả văn lẫn võ. Lên năm tuổi, Phi đã tập bắn tên, sáu tuổi luyện võ, cưỡi ngựa, còn được học về kiếm thuật rất chu đáo. Song song với nghề võ, Phi còn được học làm văn, kết quả đạt được mỹ mãn. Phi học thuộc "Kinh Thi", "Thuật Ngữ", nghiên cứu sâu về bốn quyển kinh, sử, tử, tập trong "Ngũ Kinh", "Sử Ký", "Hàn Thư", Chư tử bách gia từng đọc qua hết. Tào Tháo kỳ vọng ở Tào Phi rất nhiều, Phi hiểu rõ tâm tư của cha, nên hết sức chăm chỉ.

Tào Thực là con người tài hoa, ngay thẳng, ít để ý đến những chuyện vặt vãnh, không thích diêm dúa, ngựa xe, ưa yên tĩnh. Tháo rất quý đứa con này, nhưng thấy Thực thường thiên về tình cảm, nên không thể uỷ thác những việc to lớn.

*

Tháng chín, đầu thu, Tháo cùng Tào Phi, Tào Thực đến vùng của Khiển Thác ở miền bắc săn bắn. Khiển Thác vẫn là thủ lĩnh các dân tộc thiểu số miền bắc, trước đây qui thuận Tào Tháo. Thác là người trung thành trấn giữ phần lớn đất đai ở hai châu U, Tinh cho Tào Tháo.

Đư Ngụy vương đến săn bắn, tuy đã già, đầu tóc bạc phơ, nhưng Khiển Thác vẫn ra khỏi thành hàng trăm dặm để nghênh đón. Tay cầm tay, Tháo rất cảm động:

- Khiển Thác tướng quân! Mới mấy năm không gặp mà râu, tóc đã bạc phơ, thời gian chẳng biết chiều người!

Thác nói:

- Đại vương sáng suất, lão đương ích tráng, Thác đâu có sánh được?

Tháo đưa hai con gặp Khiển Thác, Thác tôn kính chúc tụng thiếu chủ.

Đêm đến, hai người ngồi riêng trong trướng uống rượu, Tháo hỏi trước:

- Phi và Thực là con của ta, ông có ý kiến gì về chúng, xin cứ nới thẳng ra.

Thác biết Tháo hỏi ý kiến về việc lập thiếu chủ nên trả lời rất rõ ràng:

- Thế tử lão luyện, trầm tĩnh, văn võ toàn tài đảm nhiệm được trọng trách.

Tào Tháo biết ý Thác cũng tán thành Phi, Tháo liền gọi Phi ra bái yết Khiển Thác.

Ngày hôm sau, mọi người vào rừng săn bắn, vui vẻ vô cùng.

Tháng mười, mấy cha con trở lại Nghiệp Thành. Nghỉ ngơi xong, họ lại đi tuần thú Tương Thành. Tháo cho Tào Phi đi theo. Lúc này giữa Tôn Quyền và Lưu Bị đã có những mâu thuẫn

Cha con Tào Tháo dừng lại ba ngày trong doanh trại Tào Nhân ở thành Tương Dương và tập hợp các tướng thân tín tuyến Hợp Phì là Từ Hoảng, Trương Liêu, Lý Điển đến bàn việc.

Khi các tướng về đến Tương Đương, Tháo mở tiệc khoản đãi, để Tào Phi có dịp tiếp xúc với họ.

Tào Tháo để Tào Phi ngồi ở ghế đầu, nhìn các tướng một lượt, rồi nói:

- Dạo mùa xuân, đánh nhau với Tôn Quyền mấy trận không phân thắng bại, về sau Tôn Quyền đầu hàng chúng ta. Nhưng yên lâu rồi sẽ có loạn, loạn lâu rồi lại yên, đó là quy luật vậy! Các vị trông coi tuyến này, quân tình nắm vững hơn ta, xin các vị phát biểu để cùng bàn kế sách.

Trương Liêu nói:

- Tôn Quyền đang xung đột với Lưu Bị ở Ích Châu nên tạm thời chưa thấy xâm phạm biên giới chúng ta.

Từ Hoảng bổ sung:

- Từ sau trận Xích Bích, Lưu Bị có âm mưu chiếm cứ Kinh Châu. Khi đó Tôn Quyền muốn đòi lại, nhưng theo kế của Lỗ Túc muốn dùng miếng mồi béo bở là Kinh Châu lôi kéo Lưu Bị cùng chống lại Ngụy vương. Oái oăm thay Lưu Bị gian trá thất tín, cho Quan Vũ giữ rịt lấy, chọc tức Tôn Quyền.

Tào Tháo hỏi:

- Chọc tức Tôn Trọng Mưu như thế nào?

Tào Nhân đáp:

- Cho mượn Kinh Châu vẫn là mưu của Lỗ Túc. Lưu Bị hứa rằng khi lấy được Ích Châu sẽ trả. Nay lấy được rồi lại lờ đi trì hoãn trả lại Kinh Châu. Lúc này Lỗ Túc ốm nặng. Tôn Quyền định bụng phải động binh. Mặt khác ở Kinh Châu, Quan Vũ đang mở rộng lực lượng, không đánh lên phía bắc thì cũng đánh xuống phía nam. Trước tình thế nguy hiểm Tôn Quyền điều Lã Mông đến giúp Lỗ Túc, tăng cường bố phòng ở cả hai phía, chiến tranh Ngô, Thục tất sẽ nổ ra.

Tháo hỏi Trương Liêu:

- Khi Lã Mông đi khỏi Nhu Tu, ai thay thế hắn?

Trương Liêu nói:

- Lão tướng Chu Thái đến.

Tào Phi bây giờ mới hỏi:

- Thực lực của Chu Thái thế nào ạ?

Liêu nói:

- Chu Thái đã tham gia không ít những chiến dịch lớn. Nghe nói thời trẻ từng theo lệnh của Tôn Sách trấn thủ Tuyên Thành. Một hôm có bọn sơn tặc đến bao vây, trong lúc Chu Thái đang đi tuần tra. Lúc nhận được tin, một mặt cho người đi cầu viện, mặt khác. Chu Thái dẫn mấy người quay về phá vỡ vòng vây của sơn tặc, chạy thẳng vào thành. Tôn Quyền lúc đó rất ít quân. Tuyên Thành sắp bị phá. Chu Thái lại phải phá vây, hộ vệ Tôn Quyền chạy ra khỏi thành. Bọn sơn tặc đổ đến vây kín, Chu Thái liều mạng quyết tâm cứu chủ, cho đến lúc không một tên lính nào, trên mình bị hàng mấy chục nhát dao. Từ đó, uy danh của Chu Thái chấn động cả Đông Ngô. Sau này khi cha của Tôn Quyền là Tôn Kiên đã chết dưới dao của Hoàng Tổ là bộ tướng của Lưu Biểu. Trong một trận chiến báo thù cho Tôn Kiên, Chu Thái đã giết chết Hoàng Tổ, làm cho Tôn Quyền vừa mến vừa phục. Chu Thái tuy ít học, nhưng đánh nhau thì vô cùng dũng mãnh, rất có trách nhiệm, nghiêm giữ quân lệnh, không một phút lơ là. Từ quân trở thành quan, nên Chu Thái rất hiểu lính, có thể ăn cùng mâm, nằm cùng giường, không quan khách, được binh sĩ mến mộ vô cùng.

Trương Liêu đánh giá Chu Thái rất cao, khiến Tào Phi phải thốt lên: "Thật là một vị tướng giỏi".

Tào Tháo cười lớn rồi nói:

- Chu Thái chỉ có thế. Các tướng lĩnh của ta còn nhiều vị hơn hẳn. Ngay như các vị ngồi đây cũng mạnh hơn Chu Thái.

Tào Phi biết mình lỡ lời, vừa nhìn cha vừa ngượng. Kể từ đó Tào Phi không nói một câu nào nữa.

Tháo hỏi Trương Liêu.

- Chu Thái xuất thân hèn mọn, được Tôn Quyền đề cao, cho làm tướng trấn thủ Nhu Tu, liệu các quan tướng xuất thân từ sĩ gia hào tộc có phục tùng không?

Trương Liêu bắt đầu kể:

- Đúng như điều Ngụy vương suy đoán. Được tin đó, mọi người trong Ngô đều thất kinh. Người ta cứ tưởng trấn thủ Nhu Tu phải là Từ Thịnh hoặc thân thích của Tôn Quyền là Chu Nhiên, nên chư tướng bất mãn. Một hôm, mượn tiếng là uý lạo chư tướng ở đó, Tôn Quyền mời mọi người đến dự tệc. Lúc rượu được vài tuần, Quyền lệnh cho Chu Thái nói rõ lai lịch của từng vết thương trên người. Nghe nói lúc đó, Tôn Quyền rất xúc động, nói với Chu Thái "Ấu Bình (tự của Chu Thái), người trung thành với ta khác nào anh em ruột thịt, hy sinh thân mình, bị ngần ấy vết thương, da như dao khắc, minh chứng cho tấm lòng ngươi. ta không giao gánh nặng ngàn cân ở Nhu Tu cho ngươi thì biết lấy gì nói được tình cảm cốt nhục của ta".

Chờ cho Trương Liêu nói xong, Tháo nói:

- Lòng trung thành của mãnh tướng Chu Thái thật hiếm có. Tôn Quyền khéo biết dùng người có thể giữ được cơ nghiệp của cha anh.

Sau đó, Tào Tháo, Tào Nhân mở tiệc khoản đãi mọi người. Khi rượu được vài tuần, Tháo tay cầm chén rượu đứng dậy nói với chư tướng:

- Các vị tuần thú biên cương, quân cơ gấp gáp, cơm hầm rượu nhạt, gian nan vất vả. Hôm nay chúng ta thoải mái, cùng uống cùng vui, ta xin chúc mọi người một chén.

Nói rồi, Tháo ngửa cổ uống một hơi hết chén rượu.

Từ Hoảng cũng nâng chén đứng dậy nói với Tào Tháo, Tào Phi:

- Chẳng giấu gì Chúa công, đã mấy tháng nay Công Minh này rượu không dính môi, lưỡi không biết mùi tanh. Hôm nay tụ hội được cơm no, rượu say. Chúa công đường xa vất vả, Công Minh xin kính một chén.

Lần lượt các tướng đều chúc mừng Tháo, mãi đến tận khuya. Trương Liêu nói:

- Đại vương, cho tôi múa kiếóp vui được chứ?

Tháo đồng ý. Thế là đường kiếm của Trương Liêu vun vút trên không, lúc ẩn lúc hiện, đánh đông kích tây, trông thật đẹp mắt.

Từ Hoảng cũng rút kiếm ra nói:

- Văn Viễn, để Công Minh cùng giúp một tay.

Thế rồi, người đâm kẻ đỡ, trái đánh phải ngăn. Có lúc hai thanh kiếm bổ vào nhau, quyện lấy nhau như hổ vờn, rắn quấn. Tháo vuốt râu, cười nói:

- Ta cũng gọi đội ca kỹ ra góp vui vậy.

Nói xong, vỗ tay ba cái, từ trong bức rèm phía sau bước ra sáu thiếu nữ: hai cô với đàn cầm, một cô ôm đàn tranh. Rồi tiếng đàn thánh thót, một giọng ca vang lên, lảnh lót như tiếng chim, khi trầm lúc bổng xao xuyến lòng người. Hai cô khác trình diễn những điệu múa uyển chuyển, người xem phải ngây ngất, nửa như tỉnh nửa như say, chẳng nhớ mình đang ở đâu nữa... Gà đã gáy lần thứ hai mà tiệc vẫn chưa tan. Các thiếu nữ hát lên một khúc nhạc buồn mà ai cũng biết. Đó là lời thơ của Tháo được phổ thành bài ca. Mọi người cầm đũa, gõ vào mâm làm phách cũng hát theo.

Thần rùa trường thọ

Còn do có thời

Cưỡi sương trăn múa

Dù mai cát v

Ngựa cả trong tàu

Chí ngoài nghìn dặm

Tráng sĩ cuối đời

Hùng tâm không cạn

Cái hẹn đầy vơi.

Mặc việc của trời!

Ấy phục di dưỡng

Khá được muôn đời...

(Cung Khắc Lược dịch)

Tiếng hát của Tháo làm mọi người xúc động, ứa nước mắt. Tào Nhân, Trương Liêu, Từ Hoảng, Lý Điển hát đi hát lại mãi câu: "ngựa cả trong tàu, chí ngoài nghìn dặm. Tráng sĩ cuối đời, hùng tâm không cạn...".

Phương đông đã dần sáng, mọi người đã say mèm. Tào Phi cùng các ca kỹ phải dìu Tào Tháo vào phòng trong. Bọn thân binh phải cõng các ông tướng về phòng khách nghỉ ngơi.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-31)


<