← Hồi 4 | Hồi 6 (c) → |
Mấy ngày qua, gió từ Đầm Thị Nại đột nhiên trở lạnh. Cùng với gió, mưa xuống nhỏ hạt, lất phất và dai dẳng. Năm nào có gió lạnh và mưa nhiều như vậy, người ta cho là điềm chẳng lành, sẽ có chuyện lạ xảy ra trong dân gian.
Quan Tổng đốc Nguyễn Đà không tin như vậy, ông cho rằng, thời tiết xoay chuyển, gió đổi theo mùa. Gió mưa nằm trong sự chuyển vận của trời đất. Hơn nữa, bao năm qua, dân chúng sống an lạc dưới sự chăm sóc của ngài, một người văn võ kiêm toàn. Nếu có chuyện lạ xảy ra, quan Tổng đốc tin rằng, phải là điềm may mắn.
Tuy suy nghĩ như vậy nhưng quan Tổng đốc cảm thấy không yên, ông thường bị cơn nhức đầu, buốt từ phía trước trán, lan qua hai thái dương đến sau ót. Mỗi lần ông xoay đầu, cơn đau nhức tăng lên dữ dội. Cùng lúc với cơn đau, mạch máu hai bên thái dương cứ nhồi phập phồng.
Càng bị cơn nhức đầu hành hạ, Nguyễn Đà càng sợ hơn. Nỗi lo hình như không phải vu vơ, mà ông biết rõ, do những nguyên nhân phát xuất từ bao nhiêu năm qua.
Năm nay, Nguyễn Đà đã hơn năm mươi tuổi. Già rồi, ông biết rõ, ở vào giai đoạn mà công danh và sự nghiệp lên cao nhất trong cuộc đời, cũng là lúc sức khỏe ông bắt đầu suy kiệt.
Nguyễn Đà nhìn qua cửa sổ. Trời đất u ám, ảm đạm. Gió lạnh và ẩm ngoài kia thổi rít từng cơn. Gió luồn qua khung khe cửa, rít, và lạnh quái quỉ.
Tuy bác bỏ những lời đồn đãi của dân chúng, Nguyễn Đà không thể quên những điềm xấu mà dân gian thêu dệt. Ông nhìn mông lung qua khung cửa.
Gió rít không ngừng, lạnh buốt.
Lạ thật. Nguyễn Đà lẩm bẩm. Những cái mụn trên trán, hai bên gò má, dưới cằm, mọi khi nhỏ li ti, tự dưng mấy ngày nay, chúng sưng lên, nổi mủ, đỏ hum húp.
Nguyễn Đà vốn người xấu tướng. Dáng ông nhỏ thó, hơi thấp nếu so với chiều cao trung bình, da sạm đen, mặt đầy mụn. Những cái mụn, khi to, khi nhỏ, phát sinh từ dạo Nguyễn Đà mới lớn.
Đối với mọi người, mụn mặt chỉ nổi lên một thời rồi lặn đi. Nhưng với Nguyễn Đà, mụn cứ bám lấy mặt ông, từ dạo đó cho tới bây giờ. Có lúc, mụn sưng to làm mủ, nhức nhối, đến nỗi, ông phải mời lương y đến điều trị. Thông thường, chúng nổi đều trên mặt, hết cái này đến cái khác. Vì thế, dù làm đến Tổng đốc một tỉnh, Nguyễn Đà không bỏ được thói quen, ngồi nặn mụn.
Mặt Nguyễn Đà vuông nhưng càm không bạnh, mũi không cao, cặp môi vừa đen vừa dày, tóc đen mốc, nhám cứng, tua tủa.
Mắt Nguyễn Đà tuy to nhưng lộ, chân mày dài mà không đen. Khuôn mặt Nguyễn Đà đầy mụn mà thân hình thấp nhỏ, nên ông làm đến Tổng đốc mà thiếu oai phong, không có dũng khí.
Nguyễn Đà nhìn vào gương đồng, cố ép tóc hai bên đầu cho sát lại, nhưng chúng cứ ngang chướng chĩa ngược lên. Vuốt tóc một lúc, Nguyễn Đà đột nhiên nổi giận, quát:
- Bây đâu.
Có tiếng dạ ran. Lập tức một người, từ phía sau màn cửa, bước ra, lom khom đi tới. Người ấy đi, lưng còng, cúi mặt, hai tay chắp lại. Rõ ràng, người này đã từng trải trong chốn quan trường.
Nguyễn Đà lớn giọng hỏi:
- Tùy Hầu, bức tranh đó như thế nào?
Người hầu cận, Tùy Hầu cung kính đáp:
- Kính thưa đại nhân, đẹp và oai hùng lắm.
Nguyễn Đà nhếch mép cười:
- Ta muốn hỏi, mặt của người trong tranh ra sao?
- Thưa...
- Ngươi cứ nói.
- Dạ, khuôn mặt trong tranh vẫn còn như thế.
- Nó không chịu sửa đổi hay sao?
Tùy Hầu cúi móp người, run giọng đáp:
- Thưa ngài, tiểu nhân đã dùng mọi cách khảo hình mà chúng vẫn không tuân phục.
Nguyễn Đà gằn giọng hỏi:
- Thế thì chúng muốn gì?
Tùy Hầu sợ hãi, đáp:
- Ông ta nhất định không chịu sửa lại bức tranh.
- Ngươi có nói cho nó biết. Nếu nó chịu sửa khuôn mặt trong tranh sẽ được trọng thưởng năm chục lượng vàng hay không?
Tùy Hầu kính cẩn gật đầu:
- Thưa ngài, tiểu nhân hết tra khảo rồi dỗ dành. Tiểu nhân bảo hắn rằng, chỉ sửa lại mấy cái mụn trên mặt thôi. Chỉ sửa lại có mấy cái mụn mà được cả năm chục lượng vàng. Nhưng hắn nhất định không chịu làm.
Nguyễn Đà bực bội hỏi:
- Còn bài văn chép lại tiểu sứ của ta đã xong chưa?
- Thưa đại nhân, bài tiểu sử đã xong rồi.
- Phần công đức trong thời làm quan của ta, nó có chép lại hay không?
Tùy Hầu run sợ, móp người xuống:
- Tiểu nhân đã đánh đập rồi cố thuyết phục nhưng hắn không chịu nghe theo. Hắn nói rằng...
Viên hầu cận nói đến đây đã líu lưỡi. Hắn lập bập mãi vẫn không ra lời.
Nguyễn Đà nổi giận, hét lớn:
- Nó nói diều gì?
- Dạ, tiểu nhân không dám lặp lại.
- Ta cho phép, ngươi cứ nói.
- Thưa đại nhân, hắn nói rằng, ở đời có ba diều xằng bậy, không có tài mà đòi trèo cao, không có công mà ham hưởng bổng lộc nhiều, không có đức mà muốn người đời tuân phục.
Nguyễn Đà đứng phắt dậy, giận đến tím mặt:
- Bọn láo, dám mang lời lẽ thánh hiền để nhạo báng tạ Nó còn nói gì nữa không?
- Dạ, tiểu nhân không dám...
Thấy thuộc hạ quá sợ hãi, Nguyễn Đà phải ngồi xuống, dịu giọng:
- Ta không trách phạt ngươi, cứ nói hết cho ta nghe.
Tùy Hầu lắp bắp:
- Hắn nói rằng, đại quan tuy có tài đó nhưng công ít và đức mỏng, tại sao phải chép vào sử sách những điều không thật. Hắn còn quyết liệt cho rằng, cái chết cũng không thể bắt hắn viết sai sự thật huống chi một trăm lượng vàng ban thưởng.
Nguyễn Đà đứng lên, im lặng nhìn qua cửa sổ.
Mưa vẫn rơi lất phất ngoài kia. Gió len qua khe cửa lay tấm mành mành kêu lạch cạch không ngừng.
Tùy Hầu quì móp dưới sàn, không dám nhúc nhích. Kinh nghiệm trong đời hắn cho biết, những khi quan Tổng đứng im lặng là lúc đáng sợ hơn cả. Lúc quan nổi giận, đập bàn, hắn còn có thể van xin và cầu khẩn được. Nhưng khi quan im lặng, chỉ có cách là nín thinh, quì móp và chờ đợi.
Thời gian trôi qua chừng tàn nửa cây nhang. Tùy Hầu mệt quá, hai đầu gối đau buốt và ống chân tê dại.
Thời may, Nguyễn Đà quay lại, tằng hắng, rồi xuống giọng:
- Ngươi đứng dậy đi.
- Dạ.
- Truyền lệnh của ta, cạo đầu chúng nó, tháo giày, bắt đi bộ về làng. Cấm tuyệt, không cho ai giúp đỡ, bất cứ kẻ nào tìm cách giúp chúng, sẽ bị tội khảo hình và chung thân.
Giọng Nguyễn Đà đanh thép và lạnh lùng. Tùy Hầu không dám nhìn lên nhưng qua bao nhiêu năm, hắn đã biết quan Tổng đốc đang trợn mắt, cắn chặc hàm răng, quai hàm bạnh lại. Bất cứ một lời nói hay cử chỉ nào, dù vô ý, cũng có thể xem như xúc phạm quan Tổng đốc, và dĩ nhiên, kẻ không may mắn ấy sẽ chịu nhiều tai ương.
Biết vậy, Tùy Hầu im lặng quì móp dưới sàn. Hắn không dám cử động, thậm chí đến chẳng dám thở mạnh.
Chờ khá lâu, không thấy người hầu cận nhúc nhích, Nguyễn Đà nguôi ngoai giận, dịu giọng nói:
- Ngươi còn chần chờ gì nữa.
Tùy Hầu lật đật nhõm dậy:
- Thưa ngài, tiểu nhân thi hành ngaỵ Trước khi đi, tiểu nhân có chuyện này cần bẩm với ngài.
Nguyễn Đà lấy làm hài lòng vì thái độ phục tòng của thuộc hạ:
- Được, ngươi cứ nói.
- Thưa ngài, tiểu nhân biết có một người có thể giải quyết chuyện này.
- Ngươi nói đi.
- Người này thông hiểu mọi chuyện trên đời, có thể tìm ra căn nguyên để giải quyết vấn đề cho đại nhân.
Nguyễn Đà vui vẻ gật đầu:
- Tốt lắm, người cho người gọi hắn đến đây.
Tùy Hầu lưỡng lự một lúc rồi nói:
- Người này không thể mời được.
Nguyễn Đà trợn mắt, giận dữ hỏi:
- Tại sao? Hắn là ai?
- Người này ở xa, lại lánh mặt thế nhân. Ngài phải thân hành đi mới được.
Nguyễn Đà nhíu mày, lấy làm khó chịu:
- Hắn là ai mà làm cao như vậy?
Tùy Hầu cúi đầu đáp:
- Người này làm việc không vì tiền, không vì danh, không vì lợi. Không có diều gì trên thế gian có thể sai khiến ông ấy được.
Nguyễn Đà nhếch mép, cười sắc lạnh:
- Ngươi nói có thật không? Trên đời có kẻ như thế sao? Thế hắn sống bằng thứ gì?
Tùy Hầu lễ phép đáp:
- Người này sống ẩn trên núi cao, sống cùng đất trời, ăn rau cỏ mà trường thọ.
Nguyễn Đà bật cười:
- Ngươi chỉ nghe lời đồn nhảm.
Tùy Hầu cúi đầu, không dám cãi, chỉ nhỏ nhẹ nói:
- Tiểu nhân chỉ nghe người ta bảo thế. Người này ngồi một chỗ mà biết hết mọi chuyện trên thế gian.
Nguyễn Đà thấy thần sắc cung kính của viên hầu cận, không ngăn nổi tính hiếu kỳ, liền hỏi:
- Thế hắn dùng cách gì để biết chuyện thiên hạ?
- Thưa đại quan, người này không cần biết ngày sinh tháng đẻ không coi tướng, không xem chỉ tay, thậm chí đến không nhìn mặt.
- Như vậy, hắn căn cứ vào điều gì để biết chuyện người ta?
- Thưa đại nhân, người này chỉ nhìn bóng.
Nguyễn Đà bật cười:
- Nhìn bóng để đoán chuyện người. Ngươi tin điều đó hay sao?
Tùy Hầu cung kính đáp:
- Tiểu nhân chưa gặp người này bao giờ. Tiểu nhân chỉ được những người trong họ hàng và quen biết kể lại cho nghe mà thôi.
Nguyễn Đà hoài nghi hỏi:
- Người ta nói về hắn như thế nào?
- Thưa đại nhân. người này thông biết mọi chuyện trong thiên hạ, chưa bao giờ nói sai. Ông ấy ăn rau cỏ, sống cùng gió mưa.
Tên của hắn là gì:
- Tiểu nhân không biết, chỉ nghe thiên hạ gọi ông ta là Thầy Bắt Bóng.
Nguyễn Đà ngửa mặt lên trời cười:
- Được, ta sẽ đi gặp hắn. Ngươi chuẩn bị lên đường.
Nguyễn Đà không đi ngựa mà dùng kiệu. Quan Tùy Hầu cho lựa bốn tráng đinh lực lưỡng để khiêng kiệu. Quan Tổng đốc giả làm một phú ông, cả bọn quan quân hóa trang làm người hầu.
Đường lên núi Bích Kê quanh co, hiểm trở. Trời mưa lầy lội. Đường dậy bùn trơn trợt. Đoàn người ngày đi đêm nghỉ. Bốn tráng đinh phải bám chân mà đi. Mới qua một ngày đầu mà bàn chân của họ đều rướm máu. Họ biết quan Tổng đốc rời dinh, giả làm thường dân để lên núi, hẳn nhiên chuyện này phải quan trọng.
Bốn người đều biết, sơ sẩy để rớt kiệu, gây thương tích cho quan Tổng đốc, tội đáng rơi đầu.
Di dọc theo dãy núi Kim Sơn đã hết ba ngày. đoàn người qua khỏi quận Hoài Nhơn, đoàn người theo đường mòn men nhánh núi này.
Thêm một ngày nữa, khi qua vùng Lại Khánh, núi cao dựng. chất ngất.
Tùy Hầu bước gần lại kiệu, hỏi nhỏ:
- Thưa đại quan, chúng ta có nghỉ ngơi không?
Nguyễn Đà khoác màn, nhìn cảnh núi non trùng điệp, lưỡng lự hỏi:
- Đã tới núi Bích Kê phải không? Nhà ông ta ở phía nào?
Tùy Hầu chỉ tay về phía hai ngọn cao nhất:
- Đó là ngọn Chớp Chài và Hòn Cao của núi Bích Kệ Hai ngọn núi này đứng song song gần nhau. Ngọn Chớp Chài ở phía Nam, còn Hòn Cao ở phía Bắc, nhìn xuống biển Đông. Nhà Thầy Bắt Bóng ở lưng chừng ngọn Hòn Cao.
Nguyễn Đà thấy hai ngọn núi cao ngất. Cả hai ngọn đều cao hơn sáu trăm thước. Mặt Bắc nhìn xuống sông Lại Dương quanh co, uốn khúc. Mặt Đông đi sát biển, nhìn xuống, chỉ thấy nước xanh ngắt một màu, mênh mang vô tận. Mặt Nam quay về cánh đồng Phù Mỹ bao la và đầm Trà Ô láng lai, êm ả. Mặt núi xoay ra biển, dốc đứng, cheo leo nhưng có nhiều cây cối. Mặt quay vô đất liền thai thoải hơn nhưng khô cằn, trơ trọi.
Nguyễn Đà thấy cảnh trời đất mênh mông, bao nhiêu sự bực bội trong lòng chợt lắng dịu. Ông muốn dừng chân nghỉ ngơi nhưng biết chung quanh chẳng có dân cư ngụ. Hơn nữa, sự nôn nóng gặp Thầy Bắt Bóng cứ thúc dục trong lòng, ông liền nghiêm giọng:
- Chúng ta tiếp tục đi, phải gặp ông ấy trong ngày hôm nay.
Đoàn người vừa dừng chân, chưa kíp nghỉ ngơi lại phải cất bước lên đường.
Nhà Thầy Bắt Bóng ở lưng chừng ngọn núi Hòn Cao, phía quay ra biển. Nhà cất đơn sơ, làm bằng phên tre, lợp lá. Nhà chia làm ba gian. Phía ngoài là chỗ tiếp khách, có hai cửa thông ra phía sau. Một bên là nơi làm việc. Một bên là chỗ nghỉ ngơi, vừa là nhà bếp, vừa là phòng ngủ.
Khi đoàn người của quan Tổng đốc đến nơi, trời đã quá trưa.
Mưa tạnh từ hôm qua nên cảnh vật tươi mát. Quan Tùy Hầu cho hạ kiệu ngoài sân rồi đích thân mang tặng phẩm, cúi đầu bước qua cửa.
Trong nhà vắng lặng. Tùy Hầu chỉ thấy một đứa trai chừng mười sáu tuổi, đứng buông thõng hai tay, im lặng chờ đợi.
Tùy Hầu biết người này tên Côn, tớ trai của Thầy Bắt Bóng.
Từ bao nhiêu năm qua, Thầy Bắt Bóng chỉ sống cô độc với đứa tớ trai này.
Thằng Côn vốn xấu xí, dị dạng từ thuở mới sinh ra đời. Gia đình Côn ở dưới chân núi. Từ nhỏ, lúc sinh ra, Côn đã tỏ ra quái dị. Nó chỉ có một mắt bên trái. Mắt bên phải có cái hốc mà không tròng. Nó bị sứt môi, đường chẻ môi trên đi vào lỗ mũi trái. Do dó, môi miệng mũi của Côn thông nhau, trống phọc. Thân hình Côn ốm yếu. Lồng ngực nó bị lép bên trái, gồ lên bên phải. Tay trái teo nhỏ nên nó chỉ làm việc với tay phải. Chân trái Côn cũng tật nguyền. Chân này vừa ngắn vừa nhỏ. Các ngón chân dính vào nhau. Khi bước đi, cánh tay trái đung đưa còn tay phải quơ tới lui để giừ thăng bằng. Vì thế mà dáng đi của Côn khập khểnh. Côn lại nhìn nghiêng vì con mắt còn lại bên phải bị lé. Gia đình Côn biết khó có thể nuôi sống thằng bé nên đã đem nó cho Thầy Bắt Bóng từ mới lọt lòng. Thầy đã nuôi nó bằng nước cháo với đường.
Do đó, thằng Côn vốn đã dị dạng, lại thiếu ăn nên người nó ốm tong, chỉ có da bọc xương.
Mặc dù bộ dạng xấu xí nhưng Côn rất khôn lanh. Nó siêng năng, một mình quán xuyến mọi việc, từ chuyện trong nhà, nấu ăn, quét dọn, cho đến bên ngoài, trồng trọt và chăn nuôi.
Người còn lại trong nhà là Thầy Bất Bóng. Người ta không biết tên thầy là gì. Họ chỉ biết thầy sống cô độc trong căn chòi lá trên núi với đứa tớ trai. Họ căn cứ vào công việc của thầy mà gọi là Thầy Bắt Bóng.
Thầy giúp cho thiên hạ mà không nhận tiền thù lao nên người ta mang cho thầy thức ăn và quần áo. Thầy chỉ nhận chút ít, phần còn lại, phân phát cho dân nghèo.
Người ta không biết Thầy Bắt Bóng già hay trẻ, chẳng rõ thầy bao nhiêu tuổi. Dân chúng cho rằng thầy già lắm vì các bô lão trong làng đều biết Thầy từ lâu. Dân làng cũng không biết mặt mũi Thầy ra sao. Quanh năm, Thầy Bắt Bóng mặc quần áo vải thô, quấn khăn che mặt kín mít. Người ta truyền miệng rằng, Thầy mắc bệnh hủi, lở loét khắp người.
Tùy Hầu chờ một hồi lâu vẫn không thấy thằng Côn cử động hay nói năng gì. Hắn bèn chấp hai tay, hướng mặt vào trong, kính cẩn nói:
- Chúng tôi là những người ngưỡng mộ tài nghệ và công đức của Thầy, hôm nay lặn lội đến đây để nhờ Thầy giúp đỡ đôi lời.
Tùy Hầu vừa dứt lời thì thằng Côn chỉ tay vào chiếc bàn ở giữa nhà, cất giọng khàn đục, âm ngọng nghịu:
- Khách quan để quà ở đó. Ai là người muốn gặp Thầy?
Tùy Hầu cúi đầu đáp:
- Ông chủ tôi muốn gặp Thầy.
Thằng Côn hỏi tiếp:
- Ông chủ ở đâu?
Tùy Hầu liền đáp:
- Chủ tôi còn chờ ngoài kiệu.
Côn nói như ra lệnh:
- Mời ông chủ vào.
Thằng Côn vừa dứt tiếng thì Nguyễn Đà đã bước qua ngưỡng cửa. Ông dừng lại ở đó, quan sát chung quanh. Trong nhà Thầy Bắt Bóng trống trơn. Giữa phòng khách chỉ có một cái bàn và một cái băng gỗ cũ kỹ, đã mục hết mấy chân. Nền nhà bằng đất. Vách lá loang lỗ. Chân vách đã mục nát.
Sự đơn sơ và nghèo nàn của Thầy Bắt Bóng làm Nguyễn Đà cảm thấy xao xuyến. Ông hoài nghi về lời đồn của dân chúng.
Một người có khả năng như Thầy Bắt Bóng, nổi tiếng, được thiên hạ kính nể, sao lại sống trong một căn nhà thảm hại như thế này.
Còn đứa tớ, nói năng như kẻ man di, mọi rợ.
Trông nét mặt của quan Tổng đốc, Tùy Hầu biết ý, liền bước lại gần, nói nhỏ:
- Thưa đại nhân, dù sao chúng ta đã đến nơi rồi.
Nguyễn Đà trầm ngâm suy nghĩ. Càng suy nghĩ ông càng chán nản.
Tùy Hầu đứng khép nép một bên, không dám nói gì nữa.
Trong lúc mọi người đang phân vân, bỗng nhiên có tiếng nói từ sau bức vách vọng ra:
- Đại nhân đã không quản ngại đường xa, trải qua nhiều ngày cực khổ mới đến đây. Kẻ hèn này cảm động và tủi thẹn lắm. Nếu đại nhân không muốn gặp mặt, xin cho kẻ này mời một chút trà để tỏ lòng cảm kích.
Giọng Thầy Bắt Bóng thật sắc, lời rõ từng chữ, âm như xoáy vào tai những người hiện diện. Cách nói không cầu kỳ nhưng vẫn lịch sự, vừa tỏ ý chào mừng khách mà cũng vừa lộ vẻ bất cần.
Nguyễn Đà vốn đã quen nghe lời xưng tụng. Trong đời chưa có ai dám khước từ một lời yêu cầu nào của ông. Chỉ có người van xin và lạy lục - Nguyễn Đà, chứ ông không hề cầu khẩn ai.
Tuy trong lòng bực bội, Nguyễn Đà cố đè nén, giữ giọng bình thản:
- Tôi nghe người đời xưng tụng Thầy là người thông thiên đạt địa, quán triệt quá khứ và vị lai. Thầy ngồi một chỗ mà biết mọi chuyện của thiên hạ. Hôm nay, tôi không ngại đường xa để đến đây để xin Thầy chỉ dạy cho đôi điều.
Giọng nói từ sau bức vách đáp lại:
- Đại nhân đã có lòng thương tưởng, kẻ hèn này quyết tận lòng phục vụ cho ngài.
Nguyễn Đà cảm thấy vừa lòng về những lời của Thầy Bắt Bóng. Ông gật đầu, hỏi:
- Tôi đến chỉ xin Thầy giải đáp cho vài điều rồi đi ngay, không dám quấy rầy Thầy lâu. Bây giờ, tôi phải làm gì?
Thầy Bắt Bóng nói vọng ra:
- Côn, sao không mời đại nhân.
Thằng Côn liên bước tới đưa tay mời Nguyễn Đà đi vào khung cứa có phủ màn đen.
Bên trong tối lờ mờ, ánh sáng phía ngoài chỉ hắt vào được khoảng phân nửa phòng ngoài.
Nguyễn Đà bước vào trong, vội đứng dừng lại, vì trong phòng tối quá Trong khi ông đang lưỡng lự, chưa biết phải làm sao, chợt phía sau bức vách có liếng một vật, hình như là chung trà, rơi vỡ toang trên nền đất.
Nguyễn Đà đưa tay ra trước mới biết trước mặt ông có tấm màn đen. Sau tấm màn ấy có một người. Ông biết người ấy là Thầy Bắt Bóng.
Sau tiếng vỡ của chung trà, trong phòng vẫn tối om và im lặng ngột ngạt, ngoại trừ hơi thở nặng nề của Thầy Bắt Bóng.
Hơi thở nhẹ dần rối tiếng Thầy Bắt Bóng cất lên, giọng hoảng hốt:
- Đại nhân không phải là người bình thường. Xin tha tội, nếu Đại nhân là bậc thiên tử, kẻ hèn này đã tiếp đón không đúng cách.
Giọng Thầy Bắt Bóng thảng thốt, khác hẳn giọng trầm tĩnh lúc ban đầu. Sự thay đổi giọng nói và kiểu cách hạ mình của Thầy Bắt Bóng làm cho Nguyễn Đà hồ nghi thêm. Ông nghiêm giọng hỏí:
- Thầy chưa thấy tôi, chưa nhìn mặt tôi, tại sao Thầy xưng tụng tôi quá nhiều như vậy?
Thầy Bắt Bóng vội đáp:
- Xin lỗi, chính thật, không phải tôi ám chỉ Đại nhân.
Nguyễn Đạt ngạc nhiên hơn, liền hỏi:
- Thế thì Thầy nói về người nào?
- Tôi muốn nói đến cái bóng của Đại nhân.
- Bóng của tôi?
- Thưa đúng, ánh sáng tuy mờ từ bên ngoài nhưng đủ cho tôi thoáng thấy cái bóng của Đại nhân trên vách.
Nguyễn Đà nhìn lại, lúc này mắt ông đã quen với bóng tối. Ông thấy ánh sáng lờ mờ từ bên ngoài soi bóng ông chập chờn, lờ mờ trên bức vách. Nguyễn Đà càng hoài nghi, cái bóng không có gì đặc biệt, tại sao thầy Bắt Bóng dám đại ngôn như vậy. Hay là Thầy chỉ khoa trương để lòe thiên hạ.
Nghĩ đến đây, ông cười nhẹ:
- Cái bóng của tôi vẫn là bóng tôi như tự thuở nào, nó có gì khác lạ đâu.
Giọng Thầy Bắt Bóng vừa u buồn vừa lãnh đạm:
- Cái bóng của Đại nhân đã theo ngài từ khi ngài được sinh ra đời. Bao nhiêu hoài bảo, ước muốn, tâm nguyện của ngài đều được cái bóng cưu mang. Chẳng qua Đại nhân nhìn bóng mà không thấy được cái bên trong của bóng nên không tự biết được mình. Tôi chưa thực sự thấy hết bóng của ngài, chỉ mới nhìn thoáng qua mà thôi...
Thầy Bắt Bóng ngưng một chút rồi thở dài, tiếp lời:
- Bây giờ, Đại nhân cho phép tôi làm việc.
Nghe những lời thành khẩn của Thầy Bắt Bóng, Nguyễn Đà bớt xem thường Thầy nhưng lòng nghi ngờ vẫn không suy giảm. Ông muốn biết sự việc sẽ đi đến đâu, liền hỏi:
- Bây giờ tôi phải làm sao?
Thầy Bắt Bóng lạnh lùng nói:
- Mời Đại nhân ngồi trên cái ghế bên cạnh nhưng ngài không được ngồi yên mà cử động, xoay chuyển liên tục.
- Tôi chỉ làm bao nhiêu việc như vậy sao?
- Đúng vậy, ngài cứ làm theo lời tôi dặn.
Rồi Thầy Bắt Bóng lên giọng:
- Côn đâu, sao không thắp đèn lên.
Thằng Côn đang đứng bên ngoài phòng khách, lật lật đi vào trong, lấy một cái đèn, mồi lửa lên. Nó đặt cái đèn nơi cửa, sau bức màn, phía trước Nguyễn Đà ánh đèn soi cái bóng của Nguyễn Đà chập chờn trên vách.
Thắp đèn xong, Côn lẳng lặng rút lui ra ngoài.
Bấy giờ, Thầy Bắt Bóng nghiêm giọng nói:
- Xin mời đại nhân cử động.
Nguyễn Đà ngồi trên cái ghế không có lưng dựa và tay gác. Ông làm theo ý muốn của Thầy Bắt Bóng, xoay chuyển liên lục, lúc quay ra trước, khi xoay ra sau, khi nghiêng, lúc ngửa, lúc cúi.
Trong phòng im lặng hoàn toàn. Chỉ có tiếng mấy chân ghế lỏng khớp, hở chêm, kêu kèn kẹt.
Sự việc diễn ra đều đặn và buồn chán như thế được một lúc, hơi thở của Thầy Bắt Bóng càng lúc càng nặng nề hơn. Thêm một hồi lâu, Thầy thở mệt nhọc, phát âm khèn khẹt như bị nghẹt đường thở, rồi đột nhiên Nguyễn Đạt nghe tiếng Thầy Bắt Bóng ú ớ:
- Côn... Côn...
Sau đó có tiếng người ngã xuống nền đất. Tiếng kêu huỳnh huỵch, nặng nề.
Nguyễn Đà biết Thầy Bắt Bóng đã ngã xuống đất nhưng không biết lý do tại sao. Ông không còn nghe tiếng thở của Thầy Bất Bóng nữa.
Thằng Côn khoác màn chạy vào, hoảng hốt kêu lên:
- Thầy... Thầy tỉnh dậy mau.
Nguyễn Đà hé màn nhìn qua, thấy thằng Côn đỡ Thầy Bắt Bóng lên.
Phòng tối mờ, Nguyễn Đà không thấy rõ sắc diện của Thầy Bắt Bóng, chỉ nghe hơi thở ông ta thoi thóp như sắp đứt hẳn.
Thằng Côn vừa khóc vừa kêu gào:
- Thầy y ơi! Đừng chết. Thầy ơi! Đừng chết.
Côn cứ khóc và lập đi lập lại mấy chữ đó mãi khiến Nguyễn Đà bực bội. Ông định quát bảo nó câm họng thì Thầy Bắt Bóng đột nhiên cựa quậy rồi ngồi dậy. Thầy ngồi điềm nhiên, giọng tỉnh táo:
- Côn, im đi! Thầy có chết bao giờ.
Thằng Côn nín bặt, nhìn Thầy Bắt Bóng trân tráo một hồi rồi lẳng lặng đi ra ngoài.
Nguyễn Đà không thấy được mặt Thầy Bắt Bóng vì tấm khăn che hết cả mặt ông tạ Nguyễn Đà chỉ thấy đôi mắt sáng long lanh. Ông cảm thấy ngạc nhiên vì Thầy Bắt Bóng không có vẻ gì là người vừa mới bất tỉnh. Ông lo lắng hỏi:
- Thầy không sao chớ?
Thầy Bắt Bóng lắc đầu:
- Tôi khõe như bình thường. Vừa qua tôi chỉ bị kích ngất vì xúc động quá Nguyễn Đà ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Mỗi lần Thầy bói cho người nào cũng phải té xỉu vậy sao?
- Không! Đây là lần đầu tiên trong hơn ba mươi năm, tôi mới bị xúc động nhiều như vậy. Chẳng qua...
Thầy Bắt Bóng ngưng bặt. Hình như Thầy vẫn còn bị cơn xúc động chi phối tâm thần.
Nguyễn Đà tò mò hỏi:
- Thầy xem như vậy đã xong chưa?
Thầy Bắt Bóng gật đầu:
- Bao nhiêu đó đủ rồi. Bây giờ, tôi muốn biết đại nhân muốn hỏi điều gì?
Nguyễn Đà thấy thái độ Thầy ngập ngừng, không biết chuyện tốt hay xấu. Cảnh thầy Bắt Bóng xúc động đến ngất xỉu, chứng tỏ sự việc chẳng phải tầm thường.
Suy nghĩ như vậy nhưng ông cố giữ bình tĩnh, điềm nhiên nói:
- Tôi đến đây để nhờ Thầy chỉ dạy. Thầy cứ nói sự thật, không có chuyện gì trở ngại cả.
Thầy Bắt Bóng vẫn e ngại:
- Xin Đại nhân hứa không phiền giận và không bắt tội kẻ hèn này.
Nguyễn Đà gật đầu:
- Tôi xin hứa với Thầy.
Thầy Bắt Bóng cẩn thận nói:
- Đây chỉ là lời đoán mò cho vui vậy thôi. Đại nhân nghe xong xin bỏ qua cho.
Nguyễn Đà đồng ý nói:
- Tôi đã hứa với Thầy rồi.
- Vậy đại nhân muốn hỏi điều gì?
- Điều tôi muốn biết, tại sao tôi giữ quyền cao chức trọng trong hơn hai mươi năm qua, chăn dắt trăm họ, trên tuân phục triều đình, dưới hết lòng với dân, không nề hà gian lao cực khổ. Dân chúng sống yên lành, sung túc. Vì sao người đời vẫn không phục tôi?
Thầy Bắt Bóng cúi đầu, nhỏ nhẹ đáp:
- Đại nhân giữ chức cao, quyền hạn lớn, không tham ô, trên dưới phân minh nhưng người dân không phục ngài chỉ vì một kẻ chận đứng đức độ của ngài.
Nguyễn Đà nghe qua, rùng mình kinh hãi. Ông nắm quyền cao, đứng đầu một tỉnh. Nếu có người cản trở ông, kẻ đó phải ở xa, tận trong triều đình.
Thấy Nguyễn Đà lặng thinh, Thầy Bắt Bóng khẽ nói:
- Thưa đại nhân, ngài có cần biết thêm nữa không?
Nguyễn Đà nôn nả nói:
- Thầy cứ nói tiếp.
- Kẻ cản trở Đại nhân, không ở đâu xa, lúc nào cũng ở bên cạnh ngài.
Nguyễn Đà liên tưởng ngay đến những người chung quanh. Trong gia đình, vợ con và anh em trong họ, không ai có thể làm chuyện này được. Chỉ có một người, Nguyễn Đà nghĩ ngay đến quan Tùy Hầu.
Thầy Bắt Bóng trầm giọng:
- Xin Đại nhân đừng nghĩ oan cho những người vô tội.
- Vậy Thầy cho tôi biết kẻ đó là ai?
Thầy Bắt Bóng lạnh lùng nói:
- Kẻ đó là cái bóng của Đại nhân.
Nguyễn Đà giật mình. Câu trả lời của Thầy Bắt Bóng làm cho ông cảm thấy ngạc nhiên và nghi ngờ khả năng của Thầy.
Ông không lộ sự bực bội, nói qua giọng cười:
- Cái bóng của tôi là từ tôi mà ra.
Thầy Bắt Bóng nghiêm giọng:
- Nhưng chính nó là kẻ đã cản trở ngài.
Nguyễn Đà càng không thể tin được:
- Bóng của tôi lại cản trở tôi. Hừ? Thế thì tôi phải làm sao?
- Đại nhân hãy suy nghĩ cho kỹ. Nếu cái bóng đã cản trở Đại nhân thì một khi không còn có nó nữa, người đời sẽ tâm phục.
Giọng Thầy Bắt Bóng thật nghiêm trọng.
Nguyễn Đà liên tưởng đến chuyện Thầy vừa ngất xỉu, tâm trạng hoang mang, nửa tin nửa nghi ngờ, bèn nhỏ nhẹ nói:
- Xin Thầy nói rõ hơn.
Thầy Bắt Bóng vẫn trầm giọng, nghiêm nghị:
- Đại nhân là người văn võ song toàn, trí cao hơn thiên hạ. Ngài suy nghĩ, tự khắc sẽ có cách giải quyết. Nhưng...
Bên kia bức màn, không có tiếng đáp lại. Một hồi lâu, tiếng Thầy Bắt Bóng cất lên đều đặn:
- Đạo có thể nói được không phải là đạo thường; tên có thể gọi được không phải là tên thường. Không, là gọi cái trước trời đất; có, là gọi mẹ muôn loài...
Giọng Thầy Bắt Bóng trầm ấm, đều đều.
Nguyễn Đà định hỏi nhưng tiếng Thầy cứ vang đều:
- Đạo có thể nói được không phải là đạo thường; tên có thể gọi được không phải là tên thường. Không, là...
Nguyễn Đà biết không thể hỏi thêm gì được nữa.
Bên kia, tiếng Thầy Bắt Bóng vẫn vang lên trầm đều. Tiếng Thầy nhỏ dần rồi im bặt.
Chờ một lúc, không nghe một chút động tĩnh nào, Nguyễn Đà đành lặng lẽ cáo lui. Ông cho viên Tùy Hầu để lại vàng bạc, vải vóc để tạ Ơn Thầy Bắt Bóng, rồi cùng đoàn tùy tùng ra về.
Ba ngày trôi quạ Mưa đã dứt. Gió lạnh cũng ngừng. Trời trở nên sáng sủa. Đất khô ráo. Sinh hoạt của dân chúng sôi động trở lại. Ngoài chợ, người đông đảo. Trong quán, khách ăn uống náo nhiệt. Người ta xầm xì về chuyện quan Tổng đốc lên núi tìm Thầy Bắt Bóng. Kẻ xấu miệng, cho rằng mưa gió thảm sầu trong mấy ngày qua là điềm không tốt cho quan Tổng đốc. Người hiền lành, cho rằng Thầy Bắt Bóng nhờ quan Tổng đốc ban phát điều tốt lành cho trăm họ.
Ngoài dân chúng xôn xao như vậy, trái lại, trong dinh Tổng đốc im lặng khác thường.
Nguyễn Đà không làm việc, công văn chồng chất trên bàn.
Suốt ngày, Nguyễn Đà ngồi yên lặng trong phòng riêng. Ông không tiếp bất cứ ai. Chỉ có một người được phép ra vào, là quan Tùy Hầu.
Nguyễn Đà ngồi bên cửa sổ, hút thuốc liên tục.
Quan Tùy Hầu vấn thuốc cho ông không kịp.
Mặt Nguyễn Đà đen sạm, mụn nổi nhiều hơn. Thần sắc càng ngày càng nghiêm trọng.
Quan Tùy Hầu đi tới lui lặng lẽ trong phòng. Hắn không dám ho và thở mạnh. Sau khi từ núi Bích Khê trở về, Tùy Hầu liên tưởng đến những điều ghê gớm, có thể ảnh hưởng đến vận mạng và sự nghiệp của quan Tổng đốc, nhưng hắn không biết là chuyện gì? Hắn không dám cử động mạnh huống chi là mở miệng hỏi han.
Những lúc đến gần Nguyễn Đà, quan Tùy Hầu cố liếc nhìn. Chỉ thoáng nhìn qua mặt quan Tổng đốc, Tùy Hầu phát kinh hãi. Mặt Nguyễn Đà vốn xám xịt, bây giờ trở nên đen xạm. Những cái mụn nhỏ nổi to lên. Những cái mụn to phát mủ. Hai chân mày của Nguyễn Đà châu lại, như dính vào nhau. Ông hít thuốc liên tục, phà khói tràn ngập cả phòng. Mùi khói thuốc khét nghẹt khiến Tùy Hầu ngộp thở.
Quan Tùy Hầu phát giác một điều kỳ lạ. Quan Tổng đốc cứ ngồi nhìn cái bóng của ông trải dài trên nền nhà. Nắng xuyên qua cửa sổ, chiếu gay gắt lên người Nguyễn Đà, kéo cái bóng của ông dài ngoằn, quái dị.
Mỗi lần Nguyễn Đà nghiêng qua, vói lấy điếu thuốc trên bàn, cái bóng lay động, chập chờn, biến dạng.
Những khi cử động như vậy Nguyễn Đà càng quan sát cái bóng kỹ hơn.
Đến ngày thứ ba, đột nhiên, Nguyễn Đà vẫy tay, gọi quan Tùy Hầu lại gần. Ông nghiêm giọng hỏi:
- Ngươi thấy cái bóng của ta có gì lạ không?
Tùy Hầu nghe giọng khàn đục và yếu ớt của quan Tổng đốc, hắn cảm thấy ngạc nhiên, nhưng điều khiến hắn run sợ là chuyện cái bóng. Hắn không biết tại sao mấy ngày qua, quan Tổng đốc bỏ ăn uống, cứ ngồi nhìn cái bóng trừng trừng, thần sắc sầu thảm và bi thiết. Cả đời theo hầu hạ Nguyễn Đà, quan Tùy Hầu chưa bao giờ thấy quan Tổng đốc sa sút tinh thần như vậy. Bây giờ, quan Tổng đốc hỏi về cái bóng, hắn nghĩ, chính là nguyên nhân của sự thay đổi kỳ quái ấy, bảo sao hắn không run sợ.
Thấy Tùy Hầu cứ run rẩy, ngập ngừng, Nguyễn Đà gắt gỏng:
- Ngươi thấy cái bóng của ta như thế nào?
Tùy Hầu giật bắn người, ấp úng đáp:
- Tiểu nhân thấy nó vẫn vậy, đâu có gì lạ.
Nguyễn Đà bực bội hỏi tiếp:
~ Ngươi có nhìn nó kỹ chưa?
Tùy Hầu vâng dạ, chăm chú ngắm nghía cái bóng của Nguyễn Đà lung lay trên nền nhà. Một lúc sau, hắn run giọng:
- Da... da... tiểu nhân không thấy gì lạ.
Nguyễn Đà thở ra một hơi dài, chán nản nói:
- Lão thầy bói nói rằng có kẻ kề cận bên ta đã ngăn cản đức độ ta, cho nên người đời không tâm phục ta.
Tùy Hầu kinh hãi đến thất sắc, khụy chân, quì ngay xuống sàn, đập đầu khóc rống:
- Xin Đại nhân xét cho, tiểu nhân một lòng một dạ trung thành với ngài từ bao nhiêu năm qua.
Vừa nói Tùy Hầu dập đầu "binh binh" xuống sàn nhà đến chảy máu. Giọng hắn rên rỉ thật thảm thiết.
Nguyễn Đà bực tức quát:
- Ngươi có im đi không?
- Dạ!
- Lão thầy bói ấy cho rằng, cái bóng của ta đã cản ngăn đức độ của ta.
- Cái bóng của đại nhân?
Tùy Hầu há hốc miệng, quên cả kêu khóc. Hắn chăm chú ngó cái bóng rồi khẽ liếc nhìn quan Tổng đốc. Tùy Hầu cứ nhìn qua liếc lại.
Nguyễn Đà biết nhưng không thèm nói gì.
Một lúc sau, Tùy Hầu ấp úng nói:
- Tiểu nhân không nhận thấy điều gì lạ.
Nguyễn Đà gật đầu:
- Đúng vậy. Cái bóng là cái bóng, ta là tạ Cái bóng từ ta mà ra. Cái bóng biết gì mà hãm hại ta.
Tùy Hầu im lặng suy nghĩ. Hắn càng nghĩ càng sợ. Nếu lão già ấy nói hắn có mưu mô hại quan Tổng đốc thì ba đời nhà hắn cũng toi mạng.
Nghĩ như vậy, Tùy Hầu vội lết lại gần, khẩn thiết nói:
- Thầy Bắt Bóng quá già rồi. Không ai biết ông ta bao nhiêu tuổi nhưng tiểu nhân ước chừng ông ấy phải gần chín mươi tuổi. Lão đã già như vậy, làm sao mà còn sáng suốt để dạy người khác.
Nguyễn Đà gật gù:
- Ngươi nói cũng phải.
Tùy Hầu phấn khởi, bèn nói tiếp:
- Cái bóng của Đại nhân là từ Đại nhân mà sinh ra. Người ta thường nói, như hình với bóng, không có hình làm sao có bóng.
Nguyễn Đà cảm thấy thoải mái với lời bàn của thuộc hạ, ông thố lộ:
- Lão nói rằng, phải giết cái bóng thì người đời mới tâm phục ta.
Tùy Hầu giật mình, liền hạ giọng nói nhỏ:
- Đại nhân chớ làm vậy. Cái bóng và Đại nhân là một. Nếu cái bóng bị giết thì... thì...
Nguyễn Đà khoác tay nói:
- Ngươi không cần phải nói thêm. Cái bóng bị hủy diệt thì ta phải chết chứ gì.
Tùy Hầu gật đầu:
- Đúng vậy, thưa đại nhân.
Nguyễn Đà cắn chặt hàm răng, quai hàm bạnh ra, mắt mở trừng nhìn về núi Bích Kê:
- Lão thầy bói này láo thật.
Tùy Hầu cúi đầu nói:
- Lão đã phạm thượng, mưu đồ chuyện phản như vậy...
Quan Tùy Hầu cứ ấp úng, nói không ra lời.
Nguyễn Đà chăm chăm nhìn cái bóng im sửng dưới sàn nhà. Mỗi lần ông lay động, cái lại bóng oằn oại, biến dạng trông thật quái dị. Ông đứng im thì nó cũng bất động. Nguyễn Đà nhìn cái bóng một lúc, trong lòng vừa hoài nghi vừa bực tức. Thầy Bắt Bóng đã quá già, gần đất xa trời. Lão không nói láo hay đùa cho vui. Có thể lão đã lú lẫn. Nguyễn Đà không tin như vậy. Thầy Bắt Bóng nói chuyện rất khôn ngoan, lời lẽ mực thước, chứng tỏ lão rất tinh tường. Hừ, tại sao lão che mặt, còn cái bóng của ta, nó là ta, nó vô tri vô giác, làm sao nó hại ta cho được.
Suy nghĩ miên man một hồi, Nguyễn Đà bực bội, gằn giọng:
- Lão không nên sống tiếp nữa... Tùy Hầu!
- Dạ! Thưa đại nhân.
- Ngươi biết phải làm gì chưa?
- Dạ! Tiểu nhân biết rồi.
- Ngươi hiểu ý ta, bằng cách nào cũng được, nhưng phải hành xử cho kín đáo.
Tùy Hầu gật đầu vâng dạ. Hắn ngước nhìn qua khung cửa sổ, về phía núi Bích Kê mà cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Nguyễn Đà quay lưng lại, cũng nhìn về núi Bích Kê nhưng trong lòng ông cảm thấy nặng trĩu. Những lời nói của Thầy Bắt Bóng còn ngân vang bên tai và xoáy xốc trong dầu ông. Cái bóng, hừ, nó đâu biết gì, làm sao nó hại ta cho được.
Nắng xuyên qua cửa sổ càng lúc càng gay gắt. Nguyễn Đà nhìn xuống sàn. Cái bóng nằm im, đen xám, méo mó,... bất động.
Như thường lệ, sau bữa cơm chiều, thằng Côn đổ nước trà vào cái bát lớn cho Thầy Bắt Bóng. Nó cẩn thận trút cả gói thuốc bổ vào bát nước. Nó vừa làm việc vừa mừng khấp khởi.
Mấy năm gần đây, Thầy Bắt Bóng không ăn nhiều, sức khỏe suy yếu dần. Thầy ít khi ra ngoài như mọi năm trước. Suốt ngày, Thầy ngồi trong phòng. Thầy đọc nhiều sách dưới ánh đèn vàng mờ nên mắt. Thầy gần như lòa, không thấy rõ mọi vật. Do đó, hôm qua, khi quan Tùy Hầu đưa mấy gói thuốc bổ, tặng Thầy Bắt Bóng, nó mừng lắm.
Thằng Côn đem nước trà cho Thầy rồi trở ra ngoài, lau chùi và dọn dẹp. Lo xong việc nhà, nó trở vào. Nó đến ngưỡng cửa, hé mắt nhìn vào trong.
Thầy Bắt Bóng đã uống được nửa bát nước trà. Thầy để cái bát xuống bàn, ngồi yên lặng. Thầy nhắm nghiền hai mắt. Một lát sau, Thầy ngồi không vững, lay động như sắp ngã.
Thầy Bắt Bóng cứ lắc lư một hồi lâu như vậy rồi dùng ngón tay chấm nước trà, viết mấy chữ trên bàn. Nó không hiểu Thầy viết chữ gì. Được một lúc, thằng Côn thấy máu ứa ra mũi và tai của Thầy. Dưới ánh đèn vàng mờ, màu máu trở nên đen bóng.
Máu chảy qua mang tai, xuống cằm của Thầy. Máu ứa ra mũi, thấm ướt cả tấm vái che mặt của Thầy. Máu ứa hai bên mắt, chảy dài thành dòng qua hai bên má của Thầy.
Thầy Bắt Bóng lay động một hồi lâu rồi im sửng. Thằng Côn cắn chặt hàm răng đến bật máu. Nó không ngờ thuốc của quan Tùy Hầu mạnh đến như vậy. Quan bảo nó là thuốc bổ để tạ Ơn cho Thầy. Hắn còn dặn dò nó đừng cho Thầy biết. Thầy là người đức cao, lòng bác ái rộng như biển cả, nếu nó nói là thuốc bổ của khách hàng dâng tặng, Thầy sẽ không nhận. Quan Tùy Hầu còn nhắc đi nhắc lại với nó như vây. Hắn bảo, cứ bỏ thuốc bổ vào nước trà của Thầy.
Thằng Côn thấy Thầy không còn cử động nữa, bèn rón rén đi vào, cúi nhìn mấy chữ trên bàn. Màu nước trà quá nhợt nhạt nên nó không đọc được chữ. Nó nắm cườm tay Thầy. Da Thầy còn ấm nhưng mạch đã ngưng. Nó sờ mũi Thầy. Bấy giờ nó mới biết Thầy không còn thở nữa.
Thằng Côn lăn xuống đất, vật vả, khóc rống. Nó tự cào cấu đến rách nát mặt, tươm máu khắp người.
Khóc thảm thiết một hồi lâu, thằng Côn ra ngoài, gom cây củi khộ Nó để những khúc cây lớn phía dưới, gác dọc và xếp ngang những khúc ngắn, làm thành một cái giàng vững chắc. Nó còn cẩn thận, nhét những nhánh cây khô phía dưới và chung quanh cái giàng.
Thằng Côn bắt đầu làm cái giàng từ lúc sẩm tối. Nó hì hục làm việc, mệt quá, lăn ra ngủ. Nhưng mỗi khi nó chợp mắt, cứ thấy Thầy Bắt Bóng đứng bên cạnh, nhìn nó trừng trừng.
Khi thằng Côn choàng tỉnh dậy, trời rạng sáng. Mặt trời vừa lên. Nắng chiếu xiêng qua mái chòi tranh, bóng phủ chụp người thằng Côn, và trải dài đến tận cái giàng củi khộ Thằng Côn nằm sóng soài giữa sân, người ướt đẫm sương đêm.
Sực nhớ tới Thầy Bắt Bóng, thằng Côn khập khiễng đi vào trong. Thầy Bắt Bóng vẫn ngồi yên trên ghế. Bàn tay Thầy còn gác hờ trên cạnh bàn. Côn bước lại gần, gỡ cái khăn che mặt Thầy. Khuôn mặt Thầy tái nhợt. Máu khô còn dính hai bên khóe mắt, quanh mũi, trên má, và hai bên vành tai của Thầy.
Thằng Côn vừa khóc tức tưởi, vừa cố lôi xác Thầy Bắt Bóng ra ngoài. Người Thầy cứng đợ Thằng Côn phải bẻ tay chân Thầy thẳng ra. Xương kêu răn rắc. Rồi nó lôi Thầy ra sân, để nằm trên giàng củi.
Bây giờ, thằng Côn không khóc nữa. Nó cắn chặt hàm răng, lầm lì làm việc. Khi đã đặt Thầy Bắt Bóng yên vị trên giàng hỏa, nó đi vào trong lấy nửa bát nước trà còn lại.
Trời sáng tỏ. Mặt trời lên cao. Nắng bắt đầu gay gắt. Cái bóng căn chòi thu nhỏ lại, rút về phía cuối sân. Nắng chiếu nóng rát lên da thịt rách nát của thằng Côn.
Thầy Bắt Bóng nằm ngay ngắn trên giàng củi. Thằng Côn đứng kế bên, lầm bầm những điều gì, không ai rõ. Một lúc sau, nó quẹt lửa, mồi vào củi. Cây khô bắt lửa thật nhanh, cháy phừng phựt. Gió thổi lên, lửa bốc phừng phừng. Thằng Côn ngước mặt lên trời cười sằn sặc một hồi rồi ngửa cổ uống sạch nửa bát nước trà còn lại.
Gió tốc hết những mảnh vải trên người thằng Côn. Da nó trầy nát, máu me đầm đìa. Thịt nó chẳng còn, xương nổi cồm cộm.
Thằng Côn trợn trừng một con mắt có thể trợn được, khuỳnh một cánh tay có thể đung đưa được, ném cái bát vào giàng hỏa.
Lửa bốc cao, nóng hừng hực. ánh lửa loang loáng trên màu máu đỏ sậm. Da thịt thằng Côn sáng ngời ngời. Lửa reo như tiếng xương người bể nát, vỡ vụn.
Thằng Côn cười như điên dại, nhảy tốc vào giàng hỏa. Nó ôm chặt cái xác Thầy Bắt Bóng. Lửa cháy xèo da thịt thằng Côn.
Lửa bẻ cong thân hình còm cỏi thằng Côn. Lửa táp mặt, nuốt tóc thằng Côn. Lửa reo hòa điệu tiếng cười thảm khốc thằng Côn.
Lửa uốn éo theo cái thế cong oằn thằng Côn. Lửa... lửa... lửa...
Khói từ núi Bích Kê bốc lên đen kịt một góc trời. Dân chúng xôn xao kéo nhau đi xem. Lời đồn đãi về một điềm xấu càng lúc càng lan rộng.
Trong dinh Tổng đốc, quan Tùy Hầu cố trấn an mọi người. Hắn không rõ khói đen vì sao mà có nhưng biết ngay sự việc đã thành tựu. Đối với hắn, đây là điềm lành.
Từ sáng sớm, quan Tổng đốc Nguyễn Đà cảm thấy không an tâm. Ông không hiểu lại sao lại có cảm giác lạ như vậy. Mặt ông nóng phừng, mụn nổi lên dày và tọ Trong lòng ông nôn nao. Ông không thể đứng yên một chỗ.
Nguyễn Đà nhìn qua cửa sổ. Đột nhiên, ông thấy khói đen từ núi Bích Kê bốc lên mù mịt. Nguyễn Đà đang hoang mang không biết chuyện gì đã xảy ra thì quan Tùy Hầu đã lật đật chạy vào.
Hắn quì móp xuống, hổn hển báo cáo:
- Thưa dại nhân, mọi sự mà ngài giao phó đã thực hiện xong.
Nguyễn Đà cau mày:
- Ta dã bảo ngươi hành xử cho kín đáo.
Tùy Hầu lết lại gần, khẩn thiết nói:
- Thưa đại nhân, không ai biết được chuyện này. Chỉ có ngài và tiểu nhân rõ mọi sự mà thôi.
Nguyễn Đà cảm thấy mỏi mệt, nặng ngực, và khó thở. Ông thả người, ngồi dựa vào ghế.
Quan Tùy Hầu vẫn quì dưới sàn, nín lặng.
Nắng bên ngoài chiếu qua cửa sổ. Nguyễn Đà cảm thấy hoa mắt và choáng váng. Ông nhìn xuống sàn, đột nhiên, cái bóng không còn nữa.
Nguyễn Đà thảng thốt hỏi:
- Bóng của tạ Cái bóng của ta đâu?
Quan Tùy Hầu kinh ngạc, ngước lên nhìn quan Tổng đốc, rồi ngó xuống sàn nhà. Nắng soi cái bóng của Nguyễn Đà dài ngoằn trên sàn nhà.
Hắn buột miệng đáp:
- Cái bóng của Đại nhân đây mà.
Nguyễn Đà thở hổn hển:
- Bóng của ta, bóng của ta đầu rồi?
Tùy Hầu lắp bắp:
- Đại nhân, nó đang ở trên sàn nhà.
Quan Tùy Hầu nói mấy lần mà không nghe Nguyễn Đà nói gì nữa. Hắn ngước lên nhìn.
Bấy giờ, Nguyễn Đà ngồi im trên ghế, bất động. Mặt ông nhợt nhạt, không còn chút huyết sắc nào.
Quan Tùy Hầu kinh hãi, quì móp xuống. Mọi khi, sắc mặt quan Tổng đốc thay đổi như vậy, hắn thường nhận những chỉ thị tàn nhẫn. Nhưng chờ mãi vẫn không thấy quan Tổng đốc nói gì.
Tùy Hầu ngồi dậy, rón rén bò lại gần. Hắn đến sát bên mới biết Nguyễn Đà đã ngưng thở. Ông ngồi cúi đầu, hai tay để trên đùi, hai mắt trợn trừng, mặt tái nhợt, đầy vẻ kinh hãi.
Tùy Hầu hoảng hốt, vừa đi lui, vừa ú ớ. Hắn định kêu lớn nhưng mở miệng mà không nói nên lời.
Bên ngoài, mặt trời lên cao. Nắng chiếu qua cửa sổ, in bóng Nguyễn Đà dài ngoằn, bất động trên sàn nhà.
← Hồi 4 | Hồi 6 (c) → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác