Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Thiết huyết Đại Minh - Hồi 333

Thiết huyết Đại Minh
Trọn bộ 335 hồi
Hồi 333: Năm mươi năm sau
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-335)

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chỉ chớp mắt năm mươi năm đã đi qua, năm nay đã là năm thứ 333 lịch Đại Minh.

Năm thứ chín niên hiệu Long Vũ, do Vương Phác đề nghị, nội các đã chính thức phê chuẩn thông qua kỷ niên pháp (1) mới. Kỷ niên pháp mới lấy năm Hồng Vũ nguyên niên (1368) làm năm đầu tiên của triều Đại Minh. Cho tới hôm nay, vương triều Đại Minh đã trải qua được 333 năm, cách thời Long Vũ trung hưng hơn năm mươi năm.

Năm đó, một nhóm cựu thần trung hưng như Tôn Truyền Đình, Tiền Khiêm Ích, Lữ Đại Khí, Cù Thức Tỷ, Hà Đằng Giao... , đã qua đời từ lâu, những người năm xưa tuổi trẻ tài cao như Vương Phác, Lý Định Quốc... giờ cũng đã già đi, tới tuổi gần đất xa trời. Tuy vậy, những người trẻ Tôn Thừa Tổ, Vương Pháp, Lý Định Tây đã nhận lấy quyền lực từ bậc cha chú.

Lúc này, về chính trị, đế quốc Đại Minh xác lập được chế độ quân chủ lập hiến rất hoàn thiện.

Giai cấp tư sản mới trỗi dậy với sự cầm đầu của bốn đại gia tộc, đã hoàn toàn nắm lấy quyền lực của đế quốc, cái gọi là "bốn đại gia tộc" là chỉ Vương gia, Tôn gia, Chu gia và Trần gia.

Trong thời kỳ này, Vương gia là thế lực lớn nhất, gia chủ đương thời của Vương gia chính là Vương Pháp, con trưởng của Vương Phác.

Vương gia kiểm soát hơn chín mươi phần trăm ngành ngân hàng và hơn tám mươi phần trăm công nghiệp quân sự, hầu như lũng đoạn nền tài chính của đế quốc, công nghiệp sản xuất vũ khí, ngoài ra còn có những nông trường lớn ở châu Úc, Bắc Mỹ, nhiều mỏ vàng lớn ở Nam Phi và Chi Lê, thậm chí ngay cả Vương Pháp cũng không biết rốt cuộc Vương gia có bao nhiêu tài sản.

Tôn gia là thế lực đứng sau Vương gia, Tôn Húc - gia chủ đương thời của Vương gia là trưởng tử của Tôn Thừa Tổ, mặc dù trên danh nghĩa là chắt trai của Tôn Truyền Đình, nhưng thật ra là cháu ruột của Vương Phác, cho nên nói về huyết thống, thật ra Tôn gia và Vương gia là một nhà, tuy hai mà một.

Mặc dù của cải của Tôn gia không thể so sánh với Vương gia, nhưng hoàn toàn lũng đoạn ngành sắt thép, đóng tàu của đế quốc.

Ngoài Vương gia và Tôn gia, kế tiếp là Chu gia. Lai lịch Chu gia hơi đặc biệt, cũng là hoàng thân quốc thích, mang huyết thống của Thái Tổ hoàng đế.

Việc này đã được nói đến từ đầu, hoàng đế Sùng Trinh có bốn người con là hoàng đế Long Vũ, Vĩnh vương, Định vương và công chúa Trường Bình, trong đó hoàng đế Long Vũ không có khả năng sinh sản, Định vương chết bất đắc kỳ tử từ lúc còn nhỏ, Vĩnh vương nạp không ít hậu phi, nhưng liên tiếp sinh mười người con đều là công chúa! Hoàng đế Long Vũ bất đắc dĩ đành phải nghe theo đề nghị của nội các, đưa con trưởng của Công chúa Trường Bình và Vương Phác lên làm con thừa tự của mình, đổi tên là Chu Hòa Kham, cũng định lập làm Hoàng thái tử.

Đúng lúc đó, Vĩnh vương sinh đôi, hoàng đế Long Vũ lập tức đổi ý, đưa một đứa con của Vĩnh vương lên làm con thừa tự của mình, đặt tên là Chu Hòa Tái, cũng lập làm Hoàng thái tử, đây cũng là đương kim hoàng đế Vạn Lịch! Rốt cuộc, mặc dù Chu Hòa Kham, con của Vương Phác không được làm hoàng đế, nhưng thành thân vương, cũng lập thành môn hộ, đó chính là nguồn gốc của Chu gia.

Lai lịch của Trần gia cũng có nhiều điểm tương đồng.

Ngay vào năm Vương Phác viễn chinh Nhật Bản trở về, tức năm thứ bảy niên hiệu Long Vũ (1650), trong khi sinh con thứ ba, Trần Viên Viên mất vì sinh khó, Vương Phác đau đớn đến nỗi không muốn sống, vì vậy cho đứa con thứ ba của Trần Viên Viên đổi thành họ Trần, thứ nhất là lập môn hộ để thừa kế hương hỏa của nhà họ Trần, thứ hai là để tưởng niệm người vợ đã mất.

Bởi vậy, nói về ngọn nguồn, bốn đại thế gia Vương, Tôn, Chu, Trần cũng là con cháu của Vương Phác, gia chủ bốn đại gia tộc không phải là anh em thì cũng là chú cháu, căn bản mà nói là người một nhà, chỉ là khác họ mà thôi. Tất cả sản nghiệp thừa kế của bốn đại gia tộc đều được phân chia từ sản nghiệp khổng lồ của Vương Phác.

Về kinh tế, với sự tràn vào của số lượng rất lớn nhân công Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Á và nộ lê da đen châu Phi, kinh tế đế quốc Đại Minh phát triển vượt bậc theo hình thức chưa từng có, chỉ trong thời gian chưa tới năm mươi năm, đã hoàn thành quá trình cách mạng công nghiệp, từ nền văn minh nông nghiệp nhảy vào nền văn minh công nghiệp.

Hệ thống đường sắt như mạng nhện từ bán đảo trung nam xa xôi kéo dài đến vùng Tây Bá Lợi Á (Xiberia) rét lạnh, từ Tùng Sơn giáp biển đến sa mạc Qua Bích (Gobi) hoang vu, đâu đâu cũng là những ống khói cao vút, đâu đâu cũng là tiếng ầm ầm của máy móc, đâu đâu cũng là công trường bận rộn, ga xe lửa đông đúc, đâu đâu cũng nghe tiếng rao bán trái cây, bán báo, những đứa trẻ đánh giày len lỏi trong đám người đông nghịt...

Trên đường phố rộng rãi, những chiếc tàu điện to lớn xuôi ngược, còn có những chiếc xe con chạy bằng than.

Đế quốc Đại Minh đã xác lập hệ thống thương mại ngân bản vị, hầu như tất cả giao dịch đều được thanh toán bằng đồng Minh Nguyên do Ngân hàng trung ương Đại Minh phát hành, một Minh Nguyên tương đương với một lượng bạc. Các cường quốc kinh tế phương Tây như Anh Cách Lan (Anh quốc), Pháp Lan Tây (Pháp), Tây Ban Nha, Hà Lan... lần lượt biến thành nước chư hầu của đế quốc Đại Minh.

Đến năm 333 niên lịch Đại Minh (1700), GDP của đế quốc Đại Minh chiếm gần như toàn bộ tổng GDP của của thế giới, lúc ấy, tổng GDP của các cường quốc châu Âu còn chưa bằng một phần hai mươi của đế quốc Đại Minh, hầu như tất cả các sản phẩm công thương nghiệp đều do Đại Minh sản xuất ra.

Dân châu Úc, châu Mỹ La Tinh, Bắc Mỹ, châu Phi, chỉ có thể cung cấp sức lao động giá rẻ, hoặc chỉ có thể xuất khẩu tài nguyên với giá hạ.

Tình hình châu Âu tương đối khá hơn một chút, bởi vì khi đế quốc Đại Minh tiến hành cách mạng công nghiệp trước thời hạn, cách mạng công nghiệp châu Âu cũng nối gót theo sau, nhưng trong quá trình thực hiện, châu Âu lại bị tụt hậu so với Đại Minh, về phương diện hiệu suất sản xuất và chi phí nhân lực, những công ty của châu Âu không thể cạnh tranh nổi với các công ty của Đại Minh.

Những năm gần đây, châu Âu đang trải qua một khủng hoảng kinh tế, phần lớn công ty dồn dập bị phá sản, điều này càng khiến đẩy nhanh tiến trình lệ thuộc về mặt kinh tế của các cường quốc châu Âu đối với đế quốc Đại Minh, theo nghiên cứu của Viện chính sách (2) nội các, tối đa là năm năm nữa, đế quốc Đại Minh có thể từ kinh tế hoàn toàn khống chế mọi mặt ở châu Âu.

Về quân sự, đế quốc Đại Minh khuếch trương ra bên ngoài tới mức cao nhất.

Trên thế giới, đâu đâu cũng là thuộc địa của đế quốc Đại Minh, từ Xiberia lạnh giá, các ngưu tử bắc bộ đang vượt qua dãy Ô Lạp Nhĩ Sơn, tiến vào xâm chiếm bình nguyên Bắc Âu; ở Bắc Mỹ, lực lượng võ trang thực dân của đế quốc Đại Minh đang tranh giành lưu vực sông Mississippi với người Anh; ở Nam Mỹ, đế quốc Đại Minh đã cướp được vùng lưu vực sông Amazon từ tay người Tây Ban Nha.

Đối với châu Úc, cách đây ba mươi năm, nơi này đã trở thành thuộc địa của đế quốc Đại Minh, thổ dân sống trên lục địa này đã bị tiêu diệt từ lâu, hiện giờ có khoảng hơn bảy triệu người Hán đang sống ở nơi này.

Tiểu lục địa Nam Á cũng đã trở thành thuộc địa của đế quốc Đại Minh.

Người Ấn Độ vốn sinh sống ở khu vực này đã phải trải qua một cuộc cướp bóc và tàn sát mang tính hủy diệt giống như người Nhật Bản, hầu hết nam giới trưởng thành Ấn Độ sau khi bị thiến (?!), bị đưa tới Đại Minh bán làm lao công, phần lớn phụ nữ Ấn cũng bị bán sang Đại Minh, trở thành thê thiêp của người Hán, đóng góp phần công sức quan trọng vào sự tăng trưởng nhân khẩu nhảy vọt của dân tộc Đại Hán.

Đời sau, khi đề cập tới giai đoạn này, một nhà sử học đã nói một câu thế này: "Nền văn minh công nghiệp của đế quốc Đại Minh hoàn toàn được xây nên bởi mồ hôi và xương máu của nô lệ người Nhật, người Ấn và người da đen châu Phi".

(1) Kỷ niên pháp: hệ thống ghi năm, có thể hiểu là lịch ghi năm tháng.

(2) Viện chính sách: tạm dịch hai chữ "Trí Khố" (Think tank: kho trí thức, kho tư duy) trong nguyên văn Hán Việt.

*****

Mặt khác, đế quốc Đại Minh đang xây dựng pháo đài quân sự kiên cố ở mũi Hảo Vọng, khởi công xây dựng kênh đào Xuy-ê và kênh đào Pa-na-ma, phái Trung Ương quân tinh nhuệ đóng giữ, do đó hoàn toàn khống chế hệ thống huyết mạch của nền kinh tế thế giới, thương thuyền của các quốc gia châu Âu càng phải nộp phí thông hành cao hơn nhiều.

Bộ binh của đế quốc Đại Minh đã mở rộng tới năm mươi vạn, trong đó ba mươi vạn đóng ở đại doanh ở Nam Kinh, Bắc Kinh, hai mươi vạn còn lại chia ra đóng ở các tỉnh phía bắc, các tỉnh phía đông, các tỉnh Trung Á, các tỉnh Đông Nam Á, cùng với các thuộc địa châu Úc, châu Mỹ La Tinh, Bắc Mỹ, Trung Đông, Đông Phi, Nam Phi... (!)

Về hải quân, đế quốc Đại Minh đã có hạm đội Thái Bình Dương và hạm đội Đại Tây Dương. Bộ tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Hawai, có bảy phân hạm đội trực thuộc, có hơn hai trăm chiếc thiếp giáp hạm lớn nhỏ. Bộ tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương đặt tại Tân Nam Kinh (New York), có bốn phân hạm đội trực thuộc, có hơn năm mươi chiếc thiết giáp hạm lớn nhỏ.

Xét trên phạm vi thế giới, châu Phi vẫn ở vào thời kỳ bộ lạc nguyên thủy, lạc hậu và ngu dốt, nền văn minh Nam Á rực rỡ của người Ấn Độ đã trở thành lịch sử, chỉ có Anh, Pháp, Hà Lan, Tấy Ban Nha, Bồ Đào Nha còn có thể tạm thời chống đỡ được với Đại Minh về mặt quân sự, đó là do sự xa xôi cách trở cả một đại dương giữa đế quốc Đại Minh và châu Âu.

Nếu không vì cách nhau quá xa, với thực lực mạnh mẽ của mình, Trung Ương quân đã bình định được toàn bộ châu Âu từ lâu rồi.

Tuy nhiên, cho dù đại dương cách trở, sớm muộn gì đế quốc Đại Minh cũng phải đối mặt để giải quyết vấn đề châu Âu, bởi vì chỉ riêng sự khống chế về mặt kinh tế không đủ để châu Âu bị khuất phục, muốn cho các nước ở châu Âu mai một trong dòng chảy của lịch sử như Nhật Bản, Ấn Độ, còn có rất nhiều việc phải làm.

Cuối cùng, vấn đề trọng điểm cần nói tới là phát triển lĩnh vực nhân văn trong năm mươi năm qua. Đây cũng là điều mà Vương Phác coi trọng nhất, vũ lực có thể chinh phục thế giới, nhưng không cách nào thống trị thế giới, rốt cuộc, thống trị thế giới vẫn phải dựa vào văn hóa mềm, chứ không phải sức mạnh quân sự. (?)

Về dân số, trong năm mươi năm này, quốc sách mà Vương Phác, hoặc có thể nói là nội các đế quốc Đại Minh, ra sức tiến hành, là sách lược thực dân "một bên tăng, một bên giảm", một mặt cổ động việc bắt người cướp của ở thuộc địa, nam giới sau khi thiến đi (!) thì làm lao công, phụ nữ thì bán cho người Hán trong nước, thúc đẩy tăng trưởng dân số người Hán, sau đó lại xuất khẩu người Hán sang thuộc địa!

Được khuyến khích bởi quốc sách này, trong năm mươi năm, số nhân khẩu không phải dân tộc Hán ở chính quốc và thuộc địa giảm rất nhanh, chẳng hạn như người Nhật Bản, hiện nay hầu như tìm không ra, người dân Đông Nam Á đã bị tuyệt diệt cách đây hai mươi năm (???), chẳng hạn người Ấn Độ, lúc mới bị Đại Minh chinh phục, ở Ấn Độ có hơn tám mươi triệu nhân khẩu, nhưng hiện giờ chỉ còn không tới ba triệu người.

Ngược lại, cách đây năm mươi năm, đế quốc Đại Minh chỉ có một trăm năm mươi triệu người, nhưng sau năm mươi năm, dân số của Đại Minh đã tăng trưởng bùng nổ lên tới hơn 960 triệu người! Hơn nữa, 960 triệu người này đều là thuần người Hán!

960 triệu người, con số này có ý nghĩa như thế nào?

Phải biết rằng lúc ấy dân số trên toàn thế giới chỉ hơn một tỷ người, nó cách khác, lúc ấy số nhân khẩu của các dân tộc không phải người Hán chỉ còn chưa tới 100 triệu, trong đó châu Âu có chừng hơn năm mươi triệu, châu Phi có chừng hơn ba mươi triệu, mười triệu còn lại phân bố ở các châu lực còn lại!

Hết sức rõ ràng, trình độ sản xuất nâng cao cùng với chính sách khuyến khích sinh đẻ của chính phủ Đại Minh đã có tác dụng mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng dân số, nhưng cũng không thể phủ nhận, những phụ nữ không phải người Hán, như người Nhật, người Đông Nam Á, người Ấn, người Úc... đã góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng bùng nổ của dân tộc Hán. (Xin lỗi, nhưng tới đây thì không chịu nổi nữa rồi, tên này có những ý tưởng vô cùng tàn độc mà cũng vừa rất ấu trĩ về diệt chủng và đồng hóa dân tộc)

Về văn hóa, đế quốc Đại Minh cũng thực hiện chính sách diệt sạch một cách tàn khốc.

Một khi trở thành thuộc địa của đế quốc Đại Minh, tất cả văn bản, tài liệu không phải chữ Hán sẽ đồng loạt bị tiêu hủy, tất cả ngôn ngữ trừ tiếng Hán sẽ bị chính phủ nghiêm khắc loại bỏ. Trên thực tế, chính sách này hơi thừa, bởi vì với chính sách diệt chủng tàn khốc, thì chính sách diệt sạch về văn hóa đã không còn quan trọng nữa.

Nếu một chủng tộc đã bị diệt sạch, thì ngôn ngữ, văn hóa, tập tục... của họ cũng mất đi nền tảng để tiếp tục sống còn!

Dân tộc thay họ chiếm lĩnh thuộc địa là người Hán, mà là người Hán đương nhiên nói tiếng Hán, viết chữ Hán, có ai lại đi lưu truyền chữ viết và tiếng nói khó hiểu của dân tộc khác?

Dĩ nhiên, những nhà khảo cổ và nhà sử học là ngoại lệ, nghề nghiệp của họ là phải khai quật những chữ viết, tiếng nói đã biến mất trong dòng chảy dằng dặc của lịch sử và những nền văn minh cổ đại đã một thời xán lạn.

Nói tóm lại, trải qua năm mươi năm phát triển mạnh mẽ, đến năm 333 lịch Đại Minh, đế quốc Đại Minh đã thành một siêu cường quốc trên thế giới lúc ấy, khi đứng trước mặt đế quốc Đại Minh, cái gọi là cường quốc phương Tây, chỉ nhỏ bé như con kiến so với con voi, nếu không vì đường xá xa xôi, việc chuyển quân và tiếp tế hậu cần khó khăn, thì chỉ cần vài phút đồng hồ là đế quốc Đại Minh có thể bình định xong châu Âu!

Nếu như cứ tiếp tục phát triển với tốc độ như vậy, đế quốc Đại Minh sẽ càng trở nên hùng mạnh, mà các quốc gia châu Âu chỉ càng thêm suy yếu, tối đa mà mười năm nữa, đế quốc Đại Minh có thể dễ dàng chinh phục châu Âu mà không tốn hơi sức, tuy nhiên có người không đợi được lâu như vậy, người đó chính là Vương Phác!

Vương Phác đã hơn tám mươi tuổi, hắn không biết lúc nào mình sẽ nhắm mắt, cho nên nhất định phải tranh thủ bình định châu Âu lúc còn sống, giải quyết mối lo "Người da trắng châu Âu" sau cùng trong lòng mình. Chỉ cần giải quyết vấn đề "Người da trắng châu Âu", đế quốc Đại Minh sẽ không còn kẻ địch, dân tộc Đại Hán sẽ không phải đối mặt với sự uy hiếp lớn nữa.

Từ nay về sau, trên thế giới chỉ còn một dân tộc duy nhất, đó là dân tộc Đại Hán, từ nay về sau, cho dù đế quốc Đại Minh có thể không tránh khỏi suy bại, phân liệt, thì điều đó chỉ bất quá là sự phân tranh trong cùng một dân tộc, là sự tranh đấu giữa cùng một nền văn hóa, giống như hai huynh đệ đánh nhau, mà như thế thì ông ta cũng không lo được nhiều đến mức đó, cũng không muốn lo.

Nam Kinh, Thấm viên.

Vương Phác nằm trên ghế xích đu, đang nghe chắt gái là Vương Tư Ý đọc báo, năm nay ông đã tám mươi chín tuổi, răng đã rụng sạch, tuy nhiên tai vẫn thính, mắt vẫn tinh, ăn uống rất ngon miệng, ít nhất là không giống người gần đất xa trời.

- Ông cố.

Vương Tư Ý cầm tờ báo, khẽ đọc bằng giọng non nớt:

- Tờ báo này nói, lưỡng viện quốc hội sắp chính thức thông nghị quyết quan trọng, giao cho Bộ Đường sắt sửa chữa đường sắt băng qua Tây Bá Lợi Á, từ Bắc Kinh chạy thẳng đến Cù Thành ở chân núi phía tây dãy Ô Lạp Nhĩ.

- Cù Thành sao?

Đôi mắt già nua vẩn đục của Vương Phác sáng lên, ông ta biết Cù Thành này, đó chính là thành Ekaterina trong lịch sử, tuy nhiên ở thế giới này, thành này không liên quan gì tới vị nữ hoàng Nga kia, mà vì để tưởng niệm cống hiến kiệt xuất của Tổng đốc tỉnh bắc bộ Cù Thức Tỷ lúc còn tại nhiệm, đế quốc Đại Minh đã đặt tên cho tòa thành mới này là Cù Thành.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-335)


<