Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Thiết huyết Đại Minh - Hồi 309

Thiết huyết Đại Minh
Trọn bộ 335 hồi
Hồi 309: Hai tuyến cùng tác chiến
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-335)

Hoàng thành, cung Càn Thanh.

Sắc mặt xanh mét, hoàng đế Long Vũ nhìn tiểu thái giám trước mặt, hỏi:

- Vương Phác thật sự nói như vậy?

- Bẩm Vạn tuế gia...

Tiểu thái giám run giọng nói:

- Ngay trước mặt tất cả học viên và giáo viên của đại học Dương Minh, đúng là Tĩnh Nam vương đã nói như vậy, ngài còn nói sau này đế quốc còn phải dựa vào học viên của đại học Dương Minh để cai trị.

- Vớ vẩn!

Hoàng đế Long Vũ cầm nghiên mực trên bàn ném xuống sàn, hét lớn:

- Quá vớ vẩn!

- Hoàng tỷ.

Hoàng đế Long Vũ hét xong, lại nhìn về phía Công chúa Trường Bình đang ngồi yên bên cạnh, nói:

- Hoàng tỷ nhìn xem, nhìn Phò mã của tỷ đi, hắn muốn làm gì? Muốn tạo phản sao? Làm hoàng đế mà không thể cai trị đế quốc này, lại để học viên của đại học Dương Minh cai trị, thế thì còn ra cái thể thống gì, còn ra cái thể thống gì hả?

Vẻ mặt đờ đẫn, công chúa Trường Bình không nói gì.

- Vạn tuế gia!

Trương Tử An đứng một bên, yếu ơt nói:

- Hãy nhẫn nhịn.

- Nhẫn nhẫn nhẫn! Ngươi muốn trẫm nhẫn cho tới khi nào?

Hoàng đế Long Vũ rít lên khàn cả giọng:

- Vương Phác đã công khai tuyên bố quyền tối thượng của vua chúa đã qua đi, hắn đã công khai tuyên bố từ nay về sau, trẫm và cả con cháu họ Chu, không còn tư cách thống trị đế quốc này nữa, ngươi còn muốn trẫm nuốt giận nhẫn nhịn sao?

- Không nhẫn nhịn thì có thể làm gì bây giờ?

Trương Tử An thở dài nói:

- Vương Phác không nói bản thân hắn cai trị đế quốc này, chỉ nói sẽ để học viên của đại học Dương Minh thống trị, đây là chỗ cao tay của hắn.

- Cao tay?

Hoàng đế Long Vũ tức giận nói:

- Rõ ràng là loạn thần tặc tử, đại nghịch bất đạo, đáng giết!

- Ôi...

Trương Tử An lại than một tiếng:

- Về việc diễn thuyết ở đại học Dương Minh, Vương Phác đúng là đại nghịch bất đạo, hơn nữa là động chạm đến địa vị thần thánh của Nho gia, rất dễ trở thành mục tiêu chỉ trích của người đọc sách trong thiên hạ! Nhưng lời nói của Vương Phác lợi hại ở chỗ, hắn ràng buộc tất cả học viên của đại học Dương Minh vào với hắn, học viên của đại học Dương Minh cũng đều là người được tuyển chọn từ Đông Lâm Phục Xã, như thế chẳng khác nào ràng buộc giữa hắn và Đông Lâm Phục Xã, có Đông Lâm Phục Xã làm chỗ dựa, Nho sĩ trong thiên hạ sẽ đứng ra nói thay cho hắn.

Hoàng đế Long Vũ tức giận nói:

- Chẳng lẽ người đọc sách khắp thiên hạ không phân biệt được đúng sai, đen trắng nữa sao?

Trương Tử An lắc đầu cười khổ, không nói gì nữa.

Cùng thời gian đó, ở phủ đệ của Tiền Khiêm Ích.

Nghe xong lời kể của Lã Đại Khí, Tiền Khiêm Ích lộ vẻ xúc động nói:

- Thật sự là Tĩnh Nam vương đã nói như vậy?

Lã Đại Khí nghiêm nghị nói:

- Đúng là như vậy.

Tiền Khiêm Ích vuốt vuốt chòm râu hoa râm, hơi lo lắng nói:

- Đây là Vương gia đang phủ định hệ thống trị thế kinh điển của Nho gia, chưa bàn xem lời nói này của Vương gia sẽ đưa học viên đại học Dương Minh tới đâu, sẽ đưa đế quốc Đại Minh tới đâu, chỉ riêng lời nói này, cũng dễ dàng khiến cho người đọc sách trong thiên hạ sẽ dùng ngòi bút làm vũ khí đấy.

- Nhưng lời nói của Vương gia cũng hợp lý mà.

Lã Đại Khí nói:

- Hơn nữa, điều này đối với đảng Đông Lâm chúng ta không phải là cơ hội ngàn năm một thuở sao? Có câu "Phải biết tận dụng thời cơ, thời cơ không đến lần thứ hai", một cơ hội trời ban như vậy, nếu bỏ lỡ, sau này xuống suối vàng làm sao ăn nói với những bậc tiên hiền Thái Sơn Bắc Đẩu của đảng Đông Lâm?

Theo lời Lã Đại Khí, "cơ hội" đương nhiên là cơ hội lên nắm giữ quyền lực quốc gia của đảng Đông Lâm!

Trở thành đảng chấp chính vẫn là tôn chỉ của đảng Đông Lâm. Không phải những bậc tiên hiền Thái Sơn Bắc Đẩu của đảng như Dương Liên, Tả Quang Đấu, Cao Phàn Long, đều vì thực hiện mục tiêu này mà chết đó sao? Hiện giờ cơ hội đã bày ra trước mặt người của đảng Đông Lâm, đồng thời so với trước đây có điểm khác biệt, lần này một khi đảng Đông Lâm chấp chính, sẽ không còn bị hoàng quyền kìm hãm, khi đó tất cả việc đại sự trong thiên hạ đều sẽ do người của đảng Đông Lâm định đoạt!

Đối với người của đảng Đông Lâm, đó là một cơ hội không thể nào từ chối!

Vương Phác nắm đúng mạch của đảng Đông Lâm, mới dám công khai phủ định hệ thống trị thế kinh điển của Nho gia, công khai đặt Pháp gia (1) và Binh gia (2) lên đài, cải tạo tinh thần dân tộc Đại Hán.

Thật ra sách lược của Vương Phác rất đơn giản, đó là lợi dụng thế lực của đảng Đông Lâm, đánh cho sập Lý học mà giới Nho sĩ tôn thờ, sau đó lại lợi dụng thế lực mới phát triển trong đảng Đông Lâm, chủ yếu là học viên đại học Dương Minh, để đánh cho sập các thế lực bảo thủ của Nho gia, cuối cùng khiến cho tầng lớp tinh hoa của đế quốc Đại Minh hoàn toàn thoát khỏi gông cùm xiềng xích "Tao nhã khiêm cung, tôn sùng nghi lễ" của Nho học, trở thành một quần thể mới "tràn đầy tham vọng, sung mãn tính xâm lược".

Đại biểu của quần thể mới này không còn có tầng lớp địa chủ cũ nữa, mà phần lớn là đại biểu cho lợi ích của nhà tư sản công thương nghiệp. Đến lúc quần thể này lên đài, trở thành lực lượng thống trị đế quốc Đại Minh, muốn phục hồi vương quyền là không thể, bởi vì khi đó quyền lực nằm trong tay một đám nhà tư bản đầy tham vọng, bọn họ cũng không coi trọng nhân nghĩa, khiêm cung, trong mắt bọn họ chỉ có lợi ích, sẽ không cam tâm tình nguyện giao ra quyền lực trong tay.

- Cũng đúng.

Tiền Khiên Ích gật gật đầu, vẻ mặt ngưng trọng, nói:

- Tuy nhiên nếu muốn dẹp yên ảnh hưởng của sự kiện lần này, sợ là không dễ dàng, Giữa đảng Đông Lâm chúng ta và nho sinh Lý học không tránh khỏi lại có một cuộc luận chiến kéo dài, chỉ mong cuộc luận chiến này sẽ không ảnh hưởng tới nền chính trị của đất nước, không gây ra tai họa.

(1) Pháp gia là một trong bốn trường phái triết lý ở thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc (Từ khoảng thế kỷ thứ 6 TCN cho tới khoảng thế kỷ thứ 3 TCN). Trên thực tế, nó mang nhiều tính cách triết lý chính trị thực tiễn, với châm ngôn kiểu "khi thời đại thay đổi, những đường lối cũng thay đổi" làm nguyên tắc chính của mình, hơn là một triết học về luật. Trong hoàn cảnh đó, "Pháp gia" ở đây có thể mang ý nghĩa "triết lý chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật" và vì thế, khác biệt so với ý nghĩa của Pháp gia phương Tây. Hàn Phi Tử, nhà học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia chủ trương nêu lên tư tưởng mọi người bình đẳng trước pháp luật, pháp luật là thượng tôn trong nhà nước.

(2) Binh gia: một phái (gia) trong bách gia chư tử thời kỳ Chiến Quốc, chủ yếu nghiên cứu thảo luận về tư tưởng triết học trong quân sự (The philosophy of war), trọng điểm của học thuyết là "Dụng binh", tức vấn đề chiến lược chiến thuật.

*****

Phủ của Tĩnh Nam vương.

Tôn Truyền Đình vô cùng lo lắng, nói với Vương Phác:

- Cho dù người của đảng Đông Lâm đứng bên phía cha con ta, đem hết sức lực nói chuyện thay chúng ta, triển khai luận chiến đại quy mô với Nho sinh phái Lý học, nhưng con không lo trận luận chiến này sẽ ảnh hưởng đến đất nước sao? Không lo trận luận chiến này sẽ gây ra tai họa sao?

- Ảnh hưởng đến chính trị đất nước gây ra tai họa và rắc rối?

Vương Phác không đồng ý, hỏi lại:

- Như thế nào là ảnh hưởng đến chính trị quốc gia? Như thế nào là gây ra tại họa và rắc rối?

Dừng một chút, Vương Phác lại nói:

- Lúc này triều đình Đại Minh đã khống chế mười một tỉnh Nam Trực, Bắc Trực, Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, Giang Tây, lão gia tử có thể bấm đốt ngón tay tính thử xem, người của chúng ta và người của đảng Đông Lâm giữ chức tổng đốc mấy tỉnh?

Tôn Truyền Đình bấm đốt ngón tay đếm:

- Chức tổng đốc Nam Trực, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến do ngươi kiêm, Tổng đốc Sơn Đông Ngụy Đại Bản và Tổng đốc Lưỡng Quảng Vương Sĩ Thành là người của chúng ta, Tổng đốc Bắc Trực Cù Thức Tỷ, Tổng đốc Hà Nam Trương Hoàng Ngôn là người của đảng Đông Lâm, Tổng đốc Hồ Quảng Hà Đằng Giao cũng có thể tính là người của chúng ta...

- Vậy thì như thế nào?

Vương Phác mỉm cười nói;

- Ngoại trừ hai tỉnh xa xôi Vân Nam và Quý Châu, tổng đốc các tỉnh còn lại không phải là người của chúng ta thì cũng là người của đảng Đông Lâm, cho dù Nho sinh Lý học trong thiên hạ kích động gây rối, thì có thể gây rối loạn gì nào? Ha ha, không phải con khinh thường bọn họ, chỉ sợ so với những tiểu thương dốt đặc cán mai, bọn họ cũng không bằng!

Tôn Truyền Đình nói:

- Tuy là như vậy, nhưng vào lúc này con cũng không nên khơi mào sự phân tranh, nhất định phải chờ sau khi dẹp yên loạn trong giặc ngoài, mới bắt đầu giải quyết việc việc này. Có câu "Dục tốc bất đạt", mọi việc không thể nóng vội được!

Vương Phác lắc lắc đầu:

- Lão gia tử, thời gian không chờ đợi chúng ta đâu! Việc cần làm rất nhiều, mà đời người thì lại rất ngắn, tuy lão gia tử còn tráng kiện, con cũng còn trẻ trung khỏe mạnh, nhưng sinh tử không ai nói trước được, đêm nay cởi giày, ai biết ngày mai còn có thể mang vào hay không?

Tôn Truyền Đình trách mắng:

- Chỉ nói nhảm!

- Đây không phải là nói nhảm.

Vương Phác nghiêm nghị nói:

- Làm người, làm việc phải có cảm giác gấp rút, theo phương châm "Không tranh giành cả đời, chỉ tranh giành phút chốc"!

- Được rồi.

Tôn Truyền Đình thở dài nói:

- Dù sao lời ngươi cũng đã nói ra, trận phân tranh này cũng đã bắt đầu nổi lên rồi, hãy để nội các và cha xử lý đi! Con chuyên tâm đánh giặc, trước hết hãy san bằng Liêu Đông của Kiến Nô, sau đó chở vật liệu bằng gỗ của Liêu Đông về, nhanh chóng tạo thành một đội thủy quân hùng mạnh.

...

Yên Tử Ki, đại bản doanh của Trung ương quân.

Sau khi chiến dịch Hồ Quảng chấm dứt, bộ tư lệnh mặt trận cũng đã giải thể, Liễu Như Thị, Liễu Khinh Yên cũng đã trở về Nam Kinh, sáu doanh Trung ương quân chủ lực cũng trở về đại doanh Yên Tử Ki, thời tiết trở nên ấm áp, sau khi kênh đào tan băng, đội thủy quân đang dừng lại ở Bắc Kinh cũng quay trở về đại doanh Yên Tử Ki.

Lúc này bộ binh Trung Ương quân Đại Minh đã có mười sáu vạn người, kỵ binh ba vạn người, thủy quân hai vạn người, trong đó ba doanh đóng ở Bắc Trực, ba doanh đóng ở Hồ Quảng, hai doanh đóng ở Sơn Đông, sáu doanh kỵ binh tạm trú ở Hà Nam, còn lại mười hai vạn bộ binh và hai vạn thủy quân trú đóng ở đại doanh Yên Tử Ki.

Sau khi hai vạn súng kíp kiểu mới của công binh xưởng Kiến Đức giao đúng hạn, doanh Hỏa Thương của Trung Ương quân đã mở rộng thành bốn, một vạn năm ngàn khẩu súng kiểu cũ trong ba doanh bị đào thải, được vận chuyển toàn bộ tới Bắc Trực để trang bị cho các đội bảo an các phủ của Bắc Trực, nói là đội bảo an, nhưng thật ra là những ngưu tử (1) bắc bộ do Vương Phác ra sức bồi dưỡng.

Tổng đốc Bắc Trực Cù Thức Tỷ còn thành lập công binh xưởng ở Bắc Kinh, chuyên sản xuất đạn vỏ giấy, cung cấp cho những súng kíp kiểu cũ này.

So với súng kíp kiểu mới của Trung Ương quân, những súng kíp kiểu cũ này tuy đã lạc hậu, tầm bắn và độ chính xác đều không bằng, nhưng dùng để đối phó với Kiến Nô, Mông Cổ và Cao Ly thì dư sức.

Trong phòng tác chiến, các tướng cao cấp của Trung Ương quân đã tề tựu đông đủ.

Ngồi bên trái vị trí chủ tọa là Tham mưu trưởng Liễu Như Thị. Tuy Liễu Như Thị là phụ nữ, nhưng nhờ vào biểu hiện xuất sắc của nàng trong trận Tế Ninh, Hồ Quảng, nàng đã được toàn thể tướng sĩ Trung Ương quân tán thành, nhất là trận Hồ Quảng mà nàng độc lập chỉ huy, càng xác định vị trí của nàng trong Trung Ương quân, chỉ sau Vương Phác.

Ngồi phía dưới Liễu Như Thị lần lượt là quan Tổng binh bộ binh Nhất doanh Lý Thành Đống, quan Tổng binh bộ binh Nhị doanh Trịnh Thành Công, quan Tổng binh bộ binh Tam doanh Lưu Khổng Hòa, quan tổng binh bộ binh Tứ doanh Diêm Ứng Nguyên. Diêm Ứng Nguyên, Lý Thành Đống, Trình Thành Công, Lưu Khổng Hòa đều là sĩ quan tốt nghiệp khóa cấp tốc của đại học lục quân Nam Kinh, nhờ vào biểu hiện xuất sắc trong trận Hồ Quảng, trong cuộc biên chế lại Trung Ương quân mới đây, được Vương Phác bổ nhiệm làm tổng binh doanh bộ binh.

Bốn doanh bộ binh này đều là doanh Hỏa Thương (có trang bị súng).

Ngồi bên tay phải lần lượt là các tướng lĩnh thủy quân Hoàng Đắc Công, Thi Lang, Trương Nhan Lân và Lý Ngang.

Từ hội nghị quân sự này, khi bộ binh và thủy quân chiếm một nửa số chỗ ngồi, có thể thấy là tầm mắt của Vương Phác đã không còn giới hạn ở đất liền của Đại Minh, mà đã hướng ra ngoài đại dương, ở trong lòng của Vương Phác, thực lực của thủy quân đã đủ để ngồi ngang hàng với lục quân rồi.

Là một người xuyên không (gian), Vương Phác vô cùng coi trọng đối với thủy quân, hắn thực sự muốn tạo ra một đội thủy quân vô địch, chính vì vậy, hắn mới bỏ sách lược "muốn trừ giặc ngoài, trước hết phải ổn định bên trong", trước khi giải quyết Ngô Tam Quế, Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung, lại xuất binh đánh Liêu Đông.

- Vương gia đến... !

Bên ngoài phòng tác chiến đột nhiên vang lên tiếng hô lanh lảnh, các tướng cao cấp đang ngồi nghiêm chỉnh đồng loạt đứng lên, ánh mắt mọi người cùng hướng ra ngoài cửa, trong tiếng bước chân mạnh mẽ, Vương Phác ngẩng đầu ưỡn ngực sải bước đi vào, tất cả quan tướng lập tức dậm chân phải, chào hắn theo nghi thức tiêu chuẩn của quân đội.

Vương Phác đi tới trước vị trí chủ tọa, chào đáp lễ các quan tướng, cũng theo nghi thức quân đội:

- Mời ngồi.

Đợi mọi người ngồi xuống, Vương Phác cũng ngồi xuống theo, nói:

- Chắc hẳn các vị đang ngồi đây cũng đều nghe thấy rồi, đúng vậy, bổn vương đã quyết định dụng binh đối với Liêu Đông, nhưng điều bổn vương muốn nói là, lần này không chỉ dụng binh đối với Liêu Đông, mà còn đồng thời dụng binh đối với Sơn Tây, Thiểm Tây và Tứ Xuyên.

Vẻ mặt của tất cả tướng lĩnh tham dự hội nghị đều bình tĩnh, không ai lộ vẻ giật mình hay kinh ngạc.

Thân là tướng lĩnh cao cấp của Trung Ương quân, sự sùng bái của họ đối với Vương Phác đã đến mức tột đỉnh, bất kể Vương Phác nói gì bọn họ cũng đều tin tưởng, không chút nghi ngờ, e là nếu Vương Phác nói muốn đồng thời khai chiến với một trăm đội quân địch, bọn họ cũng cho rằng đó là chuyện đương nhiên, hơn nữa còn tin chắc là Trung Ương quân có thể đồng thời đánh thắng một trăm đội quân đó!

Đương nhiên, Vương Phác cũng không ăn nói ba hoa, sau khi thận trọng suy xét, hắn mới quyết định xuất binh đánh Liêu Đông, cùng lúc tiến đánh Sơn Tây, Thiểm Tây và Tứ Xuyên, đồng thời bộ tham mưu cũng đã vạch ra kế hoạch tác chiến cặn kẽ.

Vương Phác phất tay, liền có nhân viên cần vụ mang bản kế hoạch tác chiến chi tiết tới trước mặt các tướng lĩnh, mỗi người một bản.

Trận Tế Ninh, quân chủ lực Kiến Nô đã bị tiêu diệt, quân Kiến Nô trốn về Quan ngoại tối đa cũng cả vạn người, hơn nữa Kiến Nô lần lượt trở mặt với Mông Cổ và Cao Ly, trước mắt đã lâm vào bước đường cùng, trong ngoài đều khốn đốn! Vì vậy thu phục Liêu Đông cũng không cần dùng tới đại quân, trong bản kế hoạch tác chiến lần này, Trung Ương quân chỉ dự định điều động binh lực của hai doanh, trong đó một doanh bộ binh làm chủ chiến, thêm một doanh quân nhu bảo đảm về hậu cần.

Đương nhiên, đội bảo an Bắc Trực, vốn là ngưu tử bắc bộ được Vương Phác đặc biệt bồi dưỡng, cũng phối hợp xuất chinh. Sau khi san bằng Kiến Nô, Liêu Đông trở thành trang viên và nông trường của ngưu tử bắc bộ, sau khi Trung Ương quân rút khỏi Liêu Đông, trách nhiệm bảo vệ Liêu Đông cũng giao cho ngưu tử bắc bộ.

Bởi vậy, ngoại trừ dụng binh với Liêu Đông, Trung Ương quân hoàn toàn có đủ thực lực để dụng binh với Sơn – Thiểm, Tứ Xuyên. Dĩ nhiên, việc dụng binh đối với Sơn – Thiểm, Tứ Xuyên không thể tiến hành đồng thời, mà nhất định phải theo thứ tự trước sau. Trung Ương quân chuẩn bị điều động Nhị doanh, Tam doanh, Tứ doanh bộ binh, pháo doanh, thêm năm doanh quân nhu, cộng với ba doanh kỵ binh của Hồng Nương Tử, tổng cộng gần sáu vạn đại quân tiễu trừ Ngô Tam Quế ở Sơn Tây.

Đồng thời,

Triệu Tín ở Hồ Quảng, Trương Hòa Thượng ở Hà Nam, áp dụng thế phòng thủ đối với Trương Hiến Trung, Lý Tự Thành.

Sau khi tiêu diệt Ngô Tam Quế, Trung Ương quân sẽ thuận thế tây tiến giải quyết Lý Tự Thành ở Thiểm Tây, cuối cùng là bắt đầu giải quyết Trương Hiến Trung ở Tứ Xuyên. Sở dĩ để Trương Hiến Trung ở cuối cùng, không phải vì Trương Hiến Trung khó giải quyết, mà là do địa hình Tứ Xuyên dễ thủ khó công.

(1) Ngưu tử: những người chăn ngựa.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-335)


<