← Hồi 199 | Hồi 201 → |
Ngoại ô Triều Dương môn.
Trương Hòa Thượng gật đầu, lúc Kinh Mậu Thành đang định thả người, thì lại có một đám kỵ binh lưu tặc xông vào ủng thành như gió bay chớp giật, tặc tướng lĩnh quân không phải là ai khác, quả nhiên chính là tộc đệ Lý Hổ của Lý Nham. Lý Hổ liếc mắt nhìn liền thấy Trương Hòa Thượng, không khỏi giục ngựa tiến lên lớn tiếng quát:
- Trương Hòa Thượng!?
Vương Phác lẫn trong đám người không khỏi thầm kêu một tiếng thảm!
Kinh Mậu Thành đã chấp nhận thả người, không ngờ lại nảy sinh thêm phức tạp. Lý Hổ này sớm không đến muộn không đến, lại cứ đến Triều Dương môn ngay lúc này. Xem ra kiếp nạn hôm nay rất khó để thoát khỏi rồi đây! Điều duy nhất đáng mừng chính là, Vương Phác đã vứt bỏ hết những đồ đạc có liên quan đến hoàng gia trên người của bốn tỷ đệ công chúa Trường Bình, cho nên cho dù trở thành tù nhân của quân giặc, cũng chưa hẳn sẽ bại lộ thân phận, chỉ cần không bại lộ thân phận, thì nhất định có cơ hội bỏ trốn.
Lý Hổ hét một tiếng rút đao ở hông ra, xông đến chém vào Trương Hòa Thượng, nhưng lại bị Trương Mậu Thành ngăn cản.
Kinh Mậu Thành kéo Lý Hổ lại gần rồi nói nhỏ mấy câu vào tai.
Lý Hổ liền biến sắc, lạnh lùng nói:
- Thả người? Không có cửa đâu!
Kinh Mậu Thành liền vội vàng nói:
- Lý Hổ tướng quân, mạt tướng đã nhận lời huynh đệ Hòa Thượng rồi.
Lý Hổ cười lạnh nói:
- Ngươi nhận lời rồi, nhưng bổn tướng quân chưa nhận lời! Bây giờ bổn tướng quân đã tới đây, nơi này sẽ do bổn tướng quân định đoạt, không có chuyện của người. Người đâu, bắt đám người Trương Hòa Thượng lại!
- Vâng!
Hơn trăm tên lưu tặc phía sau lưng Lý Hổ dạ ran, lập tức ùa lên.
Kinh Mậu Thành liền nói:
- Lý Hổ tướng quân, không thể làm như vậy đâu!
- Kinh Mậu Thành!
Lý Hổ lãnh đạm nói:
- Đừng có quên người chỉ là Thiên tướng, bổn tướng quân mới là Đại tướng tiên phong của đại quân nam lộ. Nếu như người dám ngăn cản nữa, thì ngay cả ngươi ta cũng bắt luôn!
Sắc mặt của Kinh Mậu Thành kịch biến, ngoái đầu nhìn đám người Trương Hòa Thượng một cách áy náy, hậm hực lui ra.
Hai đầu lông mày của Trương Hòa Thượng bỗng chốc lóe ra một tia ác khí, lẳng lặng quay đầu liếc nhìn Vương Phác. Vương Phác khe khẽ lắc lắc đầu, ác khí trong con ngươi của Trương Hòa Thượng lại tan đi như băng tuyết. Hơn trăm tên lưu tặc sớm đã xông lên, ấn ngã đám người Trương Hòa Thượng, Vương Phác xuống đất, trói từng người lại như cái bánh chưng.
- Mang đi.
Lý Hổ vung tay lên, cất cao giọng nói:
- Giải bọn này ra đại doanh ngoài thành.
Quay đầu lại, Lý Hổ lại nói với Kinh Mậu Thành:
- Kinh tướng quân, ngươi cũng đừng giận, ngươi cũng biết quân ta hiện đang cần lương hưởng, nhưng Tôn Truyền Đình và Vương Phác chiếm được Giang Nam giàu có đông đúc, có tiền có lương. Tại sao không lấy vợ con của Trương Hòa Thượng còn có Tôn Truyền Đình đổi lấy lương hưởng của bọn chúng, bảo hai tên cẩu tặc này đem bạc đến chuộc người đi.
Kinh Mậu Thành có chút bất đắc dĩ đành chắp tay, miễn cưỡng nói:
- Tướng quân anh minh.
Bến tàu thủy vận ngoài thành.
Lúc đám người Hoàng Đắc Công, Thi Lang đang đợi không nổi nữa, thì bỗng thấy trên tường thành có ánh lửa ngút trời, bóng người mờ ảo, còn có một đội kỵ binh lưu tặc xông vào cổng thành nhanh như gió, hai người không khỏi chấn động. Đang ngồi trên đất đứng dậy, Hoàng Đắc Công nói:
- Xem ra nhất định là đã xảy ra chuyện gì rồi.
Thi Lang nói:
- Có phải là đám người của Tướng quân không?
- Khó mà nói được.
Hoàng Đắc Công lắc lắc đầu, trầm giọng nói:
-Truyền lệnh xuống, tất cả huynh đệ chuẩn bị sẵn sàng, nhưng không có lệnh của bổn tướng quân, không ai được phép khinh cử vọng động, bằng không xử theo quân pháp!
- Vâng.
Thi Lang trả lời một tiếng, nhanh chóng truyền đạt quân lệnh của Hoàng Đắc Công xuống dưới.
Điều khiến Hoàng Đắc Công và Thi Lang cảm thấy kỳ lạ là, trong ủng thành cũng không có truyền ra tiếng chém giết, sau khoảng một khắc lại có một đội kỵ binh lưu tặc lướt gió xông vào cổng thành, không bao lâu sau, thì nhìn thấy đại đội lưu tặc áp giải một đám người từ trong cổng thành đi ra ngoài. Một gã tướng sỹ thủy sư tinh mắt cả kinh kêu lên:
- Không ổn, hình như là mấy người Tướng quân!
- Cái gì!?
- Ừm?
Hoàng Đắc Công và Thi Lang nghe xong cũng giật mình kinh hãi, nhanh chóng ngoảnh cổ nhìn lại, chỉ thấy những bó đuốc của lưu tặc đã soi sáng trên cổng thành rõ như ban ngày. Tuy rằng khoảng cách gần trăm bước nhìn không rõ ràng lắm, nhưng Hoàng Đắc Công và Thi Lang có thị lực hơn người vẫn phát hiện, người bị lưu tặc bắt quả thật có chút giống đám người của Vương Phác.
- Con mẹ nó.
Thi Lang trở tay rút đao, lạnh lùng nói:
- Các huynh đệ, cứu người!
- Gượm đã!
Hoàng Đắc Công quát to:
- Lưu tặc trong thành ngoài thành có khoảng gần ngàn người, hơn nữa ngoài hai trăm bước chính là đại doanh lưu tặc, mấy vạn nhân mã sẽ ngay lập tức kéo đến, chỉ bằng hơn hai mươi người chúng ta căn bản không phải là đối thủ. Nếu như cứ như vậy mà xông ra, không cứu được Tướng quân thì không nói, còn không không dâng tính mạng của mình lên.
- Vậy thì làm sao bây giờ?
Thi Lang gấp gáp nói:
- Cũng không thể thấy chết mà không cứu được.
Vương Phác có ân tri ngộ đối với Thi Lang, Thi Lang có bán cái mạng này cho Vương Phác cũng nguyện ý.
- Như thế này
Hoàng Đắc Công suy nghĩ một chút, liền trầm giọng nói:
- Ngươi dẫn theo các huynh đệ thủ ở bến tàu, tuyệt đối không thể khinh cử vọng động, bổn tướng quân lén đi đến bên cạnh quan đạo xem xét tình hình. Nếu thật sự là đám người của Tướng quân bị bắt, chúng ta phải nghĩ biện pháp cứu người, nhất định là không được khinh suất đâu.
Thi Lang gật đầu đáp ứng, lập tức hai người phân nhau hành sự.
Thân hình của Hoàng Đắc Công như con báo, mượn bóng đêm đã dần mò đến bên cạnh quan đạo. Từ phía sau chui vào một quán trà, nhìn qua khe hở của cửa trúc, thấy đám lưu tặc đang nghênh ngang áp giải người đi trên đường. Lần này thì Hoàng Đắc Công đã thấy rõ ràng, người bị lưu tặc quả nhiên chính là đám người Vương Phác!
Đợi lưu tặc vừa đi khỏi, Hoàng Đắc Công liền lui trở về bến tàu như bóng ma, Thi Lang ra trước nghênh đón, vội vã hỏi:
- Thế nào rồi?
- Đã thấy rõ ràng rồi.
Hoàng Đắc Công trầm giọng nói:
- Quả thật đúng là đám người của Tướng quân.
- Thế này thì phiền to rồi.
Thi Lang gấp gáp nói:
- Khẩn trương nghĩ cách cứu người đi!
- Đừng nóng vội.
Hoàng Đắc Công khoát khoát tay, nói:
- Vừa rồi nghe mấy tên lưu tặc nói, muốn áp giải đám người của Tướng quân đến đại doanh, cho nên phải nghĩ cách trà trộn vào đại doanh.
Lúc hai người đang thương lượng, một tiểu đội lưu tặc mang theo mấy cái thùng gỗ bộ dạng uể oải đặt xuống chỗ bến tàu.
Thi Lang trở tay lại muốn rút đao, nhưng lại bị Hoàng Đắc Công ngăn cản. Đám lưu tặc kia đã bước lên bến tàu, một tên lưu tặc trong số đó tức giận nói:
- Còn thất thần cái gì chứ, qua đây ăn con mẹ nó điểm tâm đi.
Hoàng Đắc Công và Thi Lang đứng yên không động đậy, còn hai mươi mấy tướng sỹ thủy sư còn lại cũng đứng yên.
- Này, các ngươi điếc con mẹ nó tai rồi hả?
Tên lưu tặc kia ném thùng gỗ xuống đất một cái, lớn tiếng mắng:
- Cái đồ khốn kiếp các ngươi, đừng cho rằng các ngươi bây giờ cũng là người của nghĩa quân, là có thể kén cá chọn canh rồi. Nói cho các ngươi biết, nghĩa quân chúng ta là xét theo kinh nghiệm lý lịch, người vừa với đầu hàng giống như các ngươi, chỉ xứng đáng ăn thứ này thôi!
Đám lưu tặc này chỉ là hỏa phu đến đưa cơm, mà người thủ bến tàu lại là một đám quan quân vừa mới đầu hàng không lâu, cho nên đám hỏa phu lưu tặc này không phát hiện điều khác thường, hai đám người mà tưởng là một.
Hoàng Đắc Công suy nghĩ, quay đầu lại vỗ lên sau ót của Thi Lang, mắng:
- Tiểu tử thối không có mắt, có cái ăn đã là không tồi rồi, còn được voi đòi tiên sao? Ngươi cũng không nghĩ đến lúc ngươi bán mạng cho triều đình thì đến cái này cũng không được ăn! Ngươi không ăn? Ngươi không ăn thì chi ra đi, các huynh đệ, chúng ta ăn.
Nói xong, Hoàng Đắc Công liền đi lên phía trước, cầm lấy một cái bát sứ lớn, múc một bát cháo lỏng trong đến mức có thể thấy cái bóng của mình, uống ừng ực như mưa tuôn, hai mươi mấy huynh đệ còn lại kỳ thực cũng đã hơi đói, cũng vây quanh, uống ừng ực như mưa tuôn.
Tiểu đầu mục của đám hỏa phu lưu tặc đắc ý nói:
- Thế thì thì đúng rồi, chiếu theo quy củ của nghĩa quân chúng ta, vừa mới vào làm hỏa đầu được hai tháng các ngươi chỉ có thể ăn cái này, sau nửa năm mới có thể ăn đàng hoàng, đã làm đội trưởng mới có thể ăn ngon! Ăn, khẩn trương ăn đi, ăn xong rồi còn phải làm việc đấy.
- Vị đại ca này.
Hoàng Đắc Công thăm dò, hỏi:
- Có thể hỏi là làm gì để sống không?
- Làm gì để sống?
Tên tiểu đầu mục lưu tặc nghiêng người liếc mắt nhìn Hoàng Đắc Công, khinh khỉnh:
- Cái đám nhơ nhớp các ngươi không leo nổi lên tường, mấy ngàn người còn không bằng mấy trăm lão huynh đệ chúng ta, thì còn có thể làm gì? Chẳng lẽ còn trong cậy các ngươi đánh giặc? Thật là, cái thứ như các ngươi, cũng chỉ giúp bắt bớ, đuổi trộm.
- Bắt bớ, đuổi trộm?
Hoàng Đắc Công nói thàm hai tiếng, lúc đang sắp múc thêm một bát cháo trong thùng, lại bị tên tiểu đầu mục lưu tặc kia không khách khí đoạt lấy cái bát lớn trong tay, còn mắng:
- Mỗi người một bát, ai cũng không được ăn nhiều! Con mẹ nó ai dám ăn nhiều, lão tử sẽ đánh gãy cái chân chó của kẻ đó, hừ!
Giữa trưa hôm sau, Hoàng Cực điện.
Lý Tự Thành bước nhanh lên bậc thang vàng, sờ sờ lên long ỷ của Sùng Trinh Đế, rồi sau đó xoay người đặt mông ngồi xuống. Ngưu Kim Tinh đi theo Lý Tự Thành tiền vào điện lập tức khẩn trương quỳ rạp xuống trên thềm son, liên tiếp khấu đầu ba cái, hô to vài câu nịnh bợ:
- Thần Ngưu Kim Tinh, khấu kiến Hoàng Thượng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế
- Ha ha ha.
Lý Tự Thành ngửa mặt lên trời cười dài ba tiếng, đắc ý khoát tay, nói:
- Đứng dậy.
Dù sao Lý Tự Thành cũng xuất thân là dịch tốt, không có văn hóa gì, càng không hiểu những lễ nghi mà đám nho sinh hay làm, đương nhiên sẽ không nhớ được Hoàng Đề bảo đại thần đứng dậy là phải hô bình thân. Ngưu Kim Tinh cười trộm trong lòng không ngừng, nhưng trên mặt lại không đám biểu lộ ra, thuận thế đứng dậy tránh sang một bên.
- Con mẹ nó.
Lý Tự Thành sờ sờ vào long ỷ, rồi lại ngẩng đầu ngắm nhìn những họa tiết chạm trổ ở trên đầu:
- Điện Kim Loan này quả thật là lớn.
- Vạn Tuế Gia.
Ngưu Kim Tinh, giọng siểm nịnh, nói:
- Từ nay về sau ngài chính là khai quốc Hoàng Đế của triều Đại Thuận, là quân phụ của vạn dân trong thiên hạ, sau này mỗi ngày đều phải tiếp chầu của bá quan ở Điện kim loan. Tuy nhiên, thần cho rằng việc cấp bách là phải cử hành một buổi lễ đăng cơ long trọng.
- Cái này chưa vội.
Lý Tự Thành lắc đầu nói:
- Tìm được Sùng Trinh chưa?
Ngưu Kim Tinh nói:
- Đã tìm được rồi, đã treo cổ ở trên Môi sơn.
Lý Tự Thành nói:
- Đã chết rồi à?
Ngưu Kim Tinh nói:
-Đã chết ạ!
Chân mày của Lý Tự Thành thoáng chốc cau lại, tuy rằng nói y là người thô tục, không có văn hóa gì, nhưng bất kể là nói như thế nào thì Lý Tự Thành cũng từng là dịch tốt của Đại Minh triều, đã nhận hoàng ân mấy năm. Giờ tuy nói là phải thay đổi triều đại, nhưng Sùng Trinh chết như thế nào cũng không nên chết trong tay Lý Tự Thành y.
Lý Tự Thành vô cùng không tình nguyện gánh lấy cái ô danh hành thích vua này.
Ngẫm nghĩ một hồi, chỉ có một biện pháp có thể vãn hồi sự ảnh hưởng, liền nói với Ngưu Kim Tinh:
- Ngươi phái người mang thi thể của Sùng Trinh và Chu hoàng hậu liệm cùng với nhau, sau đó mang ra ngoài Đông Hoa môn, để các quan lại cũ của cố Minh đến viếng đi, rồi lại căn dặn, đừng làm khó những quan lại cũ đến phúng viếng này.
- Vâng.
Ngưu Kim Tinh cung kính đáp:
- Vạn Tuế thánh minh.
Lý Tự Thành lại nói:
- Ba đứa con trai và hai đứa con gái của Sùng Trinh đã tìm được chưa?
Ngưu Kim Tinh nói:
- Chỉ tìm được con gái nhỏ của Sùng Trinh ở điện Chiêu Hòa, ba người con trai và người con gái lớn còn lại thì không rõ tung tích.
- Tìm, đào sâu ba thước cũng phải tìm cho ra!
Lý Tự Thành nhíu mày trầm giọng nói:
- Đặc biệt là Thái tử Chu Từ Lãng!
Ngưu Kim Tinh nói:
- Bẩm Vạn Tuế, thần sớm đã phái người đi rồi ạ. Sống phái thấy người, chết phải thấy xác.
- Ừm.
Lý Tự Thành gật gật đầu, lại nói:
- Thừa tướng, quốc khố của Hộ bộ Đại Minh và kho nội phủ ti của Tử Cấm Thành đều đã niêm phong rồi à?
Đây mới là chuyện mà Lý Tự Thành quan tâm nhất vào lúc này. Đại quân của y đã mở rộng ra đến gần trăm vạn, lương hưởng mỗi ngày tiêu hao chẳng phải là con số nhỏ. Y vẫn trông cậy vào quốc khố Đại Minh và nhà kho nội phủ ti của Sùng Trinh có thể cung cấp cho y một số lượng tiền lớn. Chiếu theo suy đoán của Lý Tự Thành, kiểu gì cũng có thể lên đến bốn năm trăm vạn lượng bạc.
Ngưu Kim Tinh cúi đầu, thấp giọng đáp:
- Đêm qua đã niêm phong rồi ạ.
Lý Tự Thành từ trên long ỷ đứng dậy, hỏi:
- Có khoảng bao nhiêu bạc?
- Hồi Vạn Tuế.
Ngưu Kim Tinh không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của Lý Tự Thành, thấp giọng đáp:
- Không không đến một vạn lượng.
- Ngươi nói cái gì?
Lý Tự Thành quả thật không thể tin vào tai mình, giận dữ nói:
- Không đến một vạn lượng!?
Ngưu Kim Tinh ngẩng đầu cười khổ nói:
- Lúc đầu thần cũng không tin, nhưng sự thật đích xác là như thế.
Lý Tự Thành cau mày nói:
- Sao lại có thể như vậy? Sau lại có thể là như vậy!
Ngưu Kim Tinh thấp giọng nói:
- Bẩm Vạn Tuế, thần có một chủ ý, có thể hỏa giải nỗi lo thiếu thống lương hưởng.
Lý Tự Thành nói:
- Chủ ý gì? Mau nói.
Ngưu Kim Tinh nói:
- Truy gian trợ quân lương! Thần nghe bọn Thái giám cố Minh Vương Đức Hóa nói, quốc khố và nhà kho nội phủ ti của Sùng Trinh đã sớm trống rỗng. Tuy nhiên, hoàng thân quốc thích và các đại quan trong kinh thành người nào người nấy cũng giàu nứt đố đổ vách, sao Vạn Tuế không phái binh bắt đám người đó lại, hỏi bạc của bọn chúng?
- Hay, việc này giao cho Lưu Tông Mẫn đi làm.
Lý Tự Thành không cần nghĩ ngợi đã gật đầu đáp ứng rồi, cướp bóc vẫn mãi là truyền thống "tốt đẹp" của lưu tặc. Áp bức hoàng thân quốc thích và quan lớn huân tước trong kinh, trên tâm lý thì Lý Tự Thành không có chút chướng ngại nào. Đối với những con sâu mọt hút cạn mồ hôi nước mắt của nhân dân, Lý Tự Thành không có cảm tình gì!
Rốt cuộc thì Lý Tự Thành vẫn chỉ là thảo khấu, không có ánh mắt chiến lược, y chỉ nhìn thấy bát canh của mấy con sâu mọt này, nhưng lại không biết những con sâu mọt này quả thật cũng rất là lợi hại. Bởi vì bọn chúng không phải là mấy con, mà là một đại đoàn, y khai đao với sâu mọt ở kinh sư, những con sâu mọt ở ngoài kinh sẽ ai nấy cũng sẽ cảm thấy nguy hiểm, xem Lý Tự Thành là kẻ thù lớn nhất, điều này rất là bất lợi đối với đại nghiệp của Lý Tự Thành!
Lúc đầu ở Giang Nam, Vương Phác không sai nhân mã thủ hạ giả trang thành quân giặc để đi cướp bóc, cái băn khoăn chính là chỗ này!
Dung túng binh cướp đoạt nhà giàu tuy có tiền nhanh, có thể khiến cho Vương Phác gom góp đủ bạc để chiêu mộ tân quân trong quãng thời gian ngắn, nhưng như vậy hậu hoạn cũng rất là nghiêm trọng. Cứ làm như thế, Vương Phác sẽ đối đầu với toàn bộ giai cấp sỹ lâm quan chức. Đương thời, sỹ lâm quan chức chiếm địa vị thống trị, đối nghịch với bọn họ tuyệt đối sẽ không có kết cục tốt.
Cho nên, Vương Phác áp dụng phương pháp mở Ngu Nhạc thành để giải quyết vấn đề thiếu bạc, tận lực tránh để không xung đột trực tiếp với sỹ lâm quan chức.
- Bẩm Vạn Tuế, còn có chuyện không thể không thận trọng.
Ngưu Kim Tinh nói:
- Ngô Tam Quế thủ ở Ninh Viễn, là lá chắn ngăn cản Kiến Nô ở quan ngoại, phải lập tức phái người đi chiêu hàng!
- Ừm.
Lý Tự Thành gật đầu nói:
- Phái người đi chiêu hàng vẫn chưa đủ, còn phải đổi phòng ngự! Sơn Hải Quan và Ninh Viễn vị trí quan trọng, nhất định phải do người của mình nắm trong tay mới được! Như vầy, bảo Lý Quá và Lý Nham không cần phải đến Bắc Kinh nữa, lập tức dẫn binh đi Ninh Viễn thay quân, bảo Ngô Tam Quế suất quân đến Bắc Kinh, tiếp nhận việc thu biên.
Ngưu Kim Tinh nịnh hót:
- Vạn Tuế thánh minh.
Ngoài Triều Dương môn, đại doanh lưu tặc.
Dưới sự vây quanh của mười mấy thân binh, một viên tướng lĩnh của lưu tặc dương dương tự đắc tiến vào đại trướng trung quân của Lý Hổ. Lý Hổ và Kinh Mậu Thành đang nghị sự trong trướng khẩn trương đứng dậy, ôm quyền nói:
- Vị này là
Tướng lĩnh lưu tặc kia chỉ chỉ vào mình, lớn tiếng nói:
- Lão tử Lý Bảo Quốc, Thiên tướng trước trướng của Long Khảm Thượng Tướng Quân!
Lý Hổ và Kinh Mậu Thành bỗng trở nên kính cẩn, Long Khảm Thượng Tướng Quân Lý Song Hỷ là cháu ruột của Lý Tự Thành, luận thân phận luận địa vị cách xa Lý Quá, còn Lý Nham thì càng không tài nào so sánh với y nổi. Thiên tướng trước trướng của Lý Song Hỷ cũng lên mặt với tướng lĩnh nghĩa quân của các doanh khác. Lý Hổ, Kinh Mậu Thành chỉ có thể dùng lễ tham kiến của thuộc hạ.
Lý Bảo Quốc nói:
- Đại vương có lệnh, quân đội của Lý Quá, Lý Nham lập tức xuất phát đi tiếp quản Ninh Viễn, đại doanh ngoại ô Triều Dương Môn hiện tại đã do lão tử tiếp quản.
Nói xong, Lý Bảo Quốc ném tấm lệnh bài cho Lý Hổ.
Lý Hổ tiếp nhận tấm lệnh bài, kín kẽ hỏi:
- Lý tướng quân, trong đại doanh ngoại ô có nhốt mấy phạm nhân quan trọng, chúng ta có thể dẫn theo không?
- Phạm nhân?
Lý Bảo Quốc đảo tròng mắt, còn cho rằng là đám nhà giàu Bắc Kinh Lý Hổ bắt giữ một mình, lập tức dùng giọng điệu đường hoàng:
- Phạm nhân thì để lại! Nào có việc mang theo phạm nhân xuất chinh chứ?
Lý Hổ không còn cách nào đành giận dữ đi ra khỏi trướng, cùng Kinh Mậu Thành điểm nhân mã bản bộ xuất phát về phía Thông Châu hội họp với đại đội nhân mã của Lý Quá, Lý Nham.
Nháy mắt đã qua ba ngày.
Cuộc "vận động" truy gian trợ quân lương do Lưu Tông Mẫn phụ trách đã triển khai dữ dội. Kẻ đầu tiên bị bắt lại tra tấn là Nội các Thủ phụ Chu Diên Nho, Thành Quốc Công Chu Thuần Thần, Quốc trượng Chu Khuê cùng rất nhiều quan viên trong Nội các và các hoàng thân quốc thích. Lão súc sinh Chu Thuần Thần này không thể nào ngờ được, lúc trước y hiến cổng đầu hàng, nhưng bây giờ lại trở thành tù nhân của tặc binh!
Ngược lại đám người Vương Phác vô ý bị Lý Hổ bắt được, lại bị lưu tặc cho là nhà nghèo khó không kiếm chác được, bị ném ở trong phòng giam không ai đả động đến.
Giang Nam ở xa ngoài ngàn dặm rất nhanh sẽ biết tin tức Bắc Kinh đã thất thủ, Sùng Trinh Đế thắt cổ chết.
Trong một thời gian ngắn toàn bộ Nam Kinh đã trở nên hỗn loạn. Quan viên Nam Kinh, lấy nam Kinh Hộ bộ Thượng thư Cao Hoằng Đồ, Binh bộ Thị lang Lữ Đại Khí dẫn đầu, đồng loạt tiến vào hành dinh Nam Kinh Binh bộ, yêu cầu Binh bộ Thượng thư Sử Khả Pháp ra mặt chủ trì đại cục. Bởi vì Nam Kinh Lễ bộ Thượng Thư Hà Hùng đã lâm bệnh qua đời vào nửa năm trước, Sử Khả Pháp trở thành quan viên cao nhất trong quan trường Nam Kinh.
Bắc Kinh rơi vào tay giặc, lưu đô Nam Kinh liền thuận lý thành chương mà trở thành quốc đô của Đại Minh triều. Nam Kinh lục bộ cũng thuận lý thành chương trở thành cơ cấu chức quyền cao nhất của Đại Minh triều. Trên thực tế thì lúc này Sử Khả Pháp đã trở thành quan viên cao nhất của Đại Minh triều. Về phần Tổng đốc Chiết Trực Tôn Truyền Đình, tuy nắm trọng binh trong tay, nhưng xét về phẩm cấp y chẳng qua chỉ là tướng nơi biên cương, vẫn còn kém xa.
Đề tài thảo luận của các quan viên Nam Kinh chỉ có hai.
Thứ nhất là đề bạt một số lượng lớn các quan đã bãi chức tại gia, tỷ như Tiền Khiêm Ích danh sỹ Giang Tả của Nam Kinh, Tiền tả đô Ngự sử Lưu Tông Chu đã cáo lão hồi hương, cùng với nho sinh phục xã có tài hoa do Trương Phổ, Chu Tiểu dẫn đầu đến bổ sung cho Nam Kinh lục bộ cùng với nha môn Khoa đạo Ngự sử, nhanh chóng khiến lưu đô lục bộ và nha môn Khoa đạo Ngự sử sôi nổi.
Cuộc thảo luận không có gì nhiều để nói, ý kiến của quan viên Nam Kinh rất nhanh đã đi đến nhất trí.
Vấn đề thứ hai chính là vấn đề lập tân quân. Cao Hoằng Đồ cho rằng mặc dù Sùng Trinh Đế đã chết, nhưng Thái Tử thì sống chết chưa rõ, trước khi chưa có tin tức xác thực của Thái tử, không thể lập tân quân khác. Còn Lữ Đại Khí thì cho rằng nước không thể một ngày không có vua, phải chọn ra giữa Phúc Vương và Lộ Vương lưu vong Nam Kinh để có một người làm chức Giám quốc.
Ý kiến của hai phái cách biệt rất lớn, ai cũng có lý do của mình, ai cũng có người ủng hộ, cãi nhau tối mài tối mặt.
← Hồi 199 | Hồi 201 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác