Vay nóng Homecredit

Truyện:Thâu Thiên cung - Hồi 03

Thâu Thiên cung
Trọn bộ 11 hồi
Hồi 03: Tam Thiên Bạch Phát
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-11)

Siêu sale Shopee

Sau khi Tề Truy Thành rời đi, Đỗ Tứ thu bức vẽ đó lại,đưa mắt nhìn quanh bốn phía, trầm tư suy nghĩ hồi lâu, trên khuôn mặt xuất hiện vẻ kiên nghị. Uống liền mấy ngụm "Thiêu", lão bất ngờ tung chưởng, một chưởng hóa thành bốn, đánh vào bốn cây cột ở bốn góc quán trọ. Trong làn khói bụi mịt mù, quán trọ ầm ầm đổ sụp.

Mấy người cùng lao nhanh ra ngoài, lúc này trời đã tối. Đỗ Tứ bước tới tìm kiếm và nhặt lấy cành cây đã khắc được một nửa từ trong đống tan hoang đổ nát, sắc mặt đầy vẻ âu sầu, dường như có chút không nỡ.

Nhìn thấy khuôn mặt Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều xuất hiện vẻ khó hiểu, Đỗ Tứ chậm rãi cất tiếng giải thích: "Hứa tiểu huynh hiện giờ đã là người mà Minh Tướng quân nhất định phải giết. Hai kẻ kia tuy không làm được việc gì nhưng sẽ tiết lộ hành tung của Hứa tiểu huynh, đại quân của Minh Tướng quân ắt chẳng bao lâu sau sẽ đuổi tới. Chúng ta cần lập tức đi tới Tiếu Vọng sơn trang." Thấy Dương Sương Nhi muốn nói gì đó mà lại thôi, lão liền bổ sung thêm một câu bằng giọng hiền từ: "Lâm thúc thúc của cháu không muốn gặp người của Minh Tướng quân, vừa rồi đã truyền âm nói với ta là sẽ đợi chúng ta trên đường."

Hứa Mạc Dương thấy Đỗ Tứ đánh sập quán trọ, lại nghe nhắc tới cái tên Tiếu Vọng sơn trang, trong đầu liền hiện lên muôn vàn suy nghĩ, định cất tiếng nói đôi lời cảm ơn nhưng Đỗ Tứ lại dùng ánh mắt ngăn y lại. Dường như lão đã hiểu rõ tâm ý của y, nói: "Xảo Chuyết và ta kết bạn với nhau đã mấy chục năm, chỉ một chút chuyện nhỏ này Hứa tiểu huynh bất tất phải để trong lòng!"

Hứa Mạc Dương thừa dịp bèn nói: "Trước lúc lâm chung, Xảo Chuyết đại sư có dặn dò tại hạ tới Tiếu Vọng sơn trang tìm Binh Giáp truyền nhân, không ngờ lại gặp được tiền bối ở nơi này?"

Đỗ Tứ không thừa nhận cũng không phủ nhận, chỉ khẽ gật đầu. "Đi theo ta!"

Nói đoạn, lão liền cất bước đi vào sa mạc. Hai người Hứa, Dương thoáng đưa mắt nhìn nhau rồi chỉ biết đi theo.

Dưới ánh trăng mờ mờ, Đỗ Tứ thi triển thân pháp dẫn Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đi nhanh về hướng bắc trên vùng sa mạc tưởng chừng như vô biên vô tận. Họ dần tiến sâu vào trong sa mạc, khi nước mắt nhìn đã có thể thấp thoáng thấy được những đường nét của một dãy núi nhấp nhô.

Thấy Đỗ Tứ suốt dọc đường không nói một lời, đoán chừng lão còn đang thương tâm vì cái chết của người bạn là Xảo Chuyết đại sư. Tuy trong lòng còn đầy nghi vấn nhưng y không dám tùy tiện cất tiếng hỏi.

Buổi đêm trong sa mạc không nóng nực như ban ngày, nhiệt độ hạ xuống rất nhanh, chỉ mặt cát vẫn còn nóng bỏng, những giọt nước mưa đọng lại dưới đất sâu bị cái nóng làm cho bốc hơi lên, càng khiến người ta cảm thấy khó chịu. Ba người đi liền một mạch mấy dặm đường. Dương Sương Nhi tuy là con gái nhưng xuất thân từ chốn danh môn, từ nhỏ đã luyện võ nên cũng không cảm thấy gì. Còn Hứa Mạc Dương bị hơi nóng hắt vào người trong một thời gian dài thì không khỏi cảm thấy buồn nôn, các vết thương khắp cơ thể như muốn phát tác. Tuy y đã cố cắn răng chịu đựng nhưng tốc độ vẫn bị chậm lại.

Đỗ Tứ tay không nhìn hai người phía sau nhưng vẫn phát hiện ra, bèn giảm tốc độ, đi tới bên cạnh Hứa Mạc Dương, nhẹ nhàng đặt một bàn tay lên bờ vai y, hơi nhấc y lên. Hứa Mạc Dương thầm cảm kích, lén đưa mắt nhìn sang bên cạnh, chỉ thấy Đỗ Tứ vẫn chăm chú nhìn con đường phía trước, trên khuôn mặt tràn ngập vẻ kiên định, hoàn toàn chẳng còn vẻ già nua, lọm khọm như lúc y mới gặp. Vừa rồi, khi thấy Đỗ Tứ vung chưởng phá hủy quán trọ mà bản thân lão đã cư ngụ suốt mấy năm trời, hành động quyết liệt, dứt khoát không chút do dự, y liền biết người này quyết không phải hạng đơn giản, có lẽ trước đây lão cũng là một nhân vật khét tiếng trên giang hồ. Xảo Chuyết đại sư bảo y đến tìm lão, không biết bước tiếp theo sẽ phải làm như thế nào?

Lại đi thêm một lát nữa, Đỗ Tứ thấy hơi thở của Hứa Mạc Dương dồn dập, biết y bị thương nặng khó có thể chịu đựng thêm, bèn dừng chân cho y nghỉ ngơi hồi sức. Bản thân lão thì ngồi xổm trên một gò cát nhỏ, ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, nét mặt đăm chiêu như đang suy nghĩ điều gì. Dương Sương Nhi tuy từ nhỏ đã được nuông chiều nhưng cũng là một nữ tử tinh ý, chỉ lẳng lặng đứng bên cạnh hai người họ, không nói một lời.

Hứa Mạc Dương chậm rãi điều chỉnh nhịp thở, vô số nỗi nghi hoặc trong lòng không biết phải bắt đầu hỏi từ đâu. Nhớ đến quãng thời gian bảy năm ròng ở bên Xảo Chuyết đại sư, y không khỏi cảm thấy buồn thương vô hạn. Đã mấy lần định cất tiếng nói chuyện nhưng bao nhiêu cảm xúc chất chứa trong lòng khiến y khó có thể thốt thành lời.

Cuối cùng, Đỗ Tứ lại là người lên tiếng trước: "Hứa tiểu huynh đã từng nghe kể câu chuyện về Can Tương, Mạc Tà chưa?"

Hứa Mạc Dương thoáng ngẩn người. Tuy y sang ở vùng Tái Ngoại từ nhỏ nhưng lại mang dòng máu của người Hán, đối với văn hóa Trung Nguyên cũng từng tìm hiểu khá nhiều, tất nhiên biết rõ câu chuyện Can Tương, Mạc Tà rèn kiếm cho Sở Vương, chỉ là y có chút khó hiểu khi Đỗ Tứ đột nhiên nhắc tới

chuyện này. Nhưng y biết đối phương là bậc tiền bối võ lâm, mỗi lời nói ắt đều có thâm ý nên lập tức kính cẩn thưa rằng đã từng nghe.

Đỗ Tứ khẽ gật đầu, nói: "Vợ chồng Can Tương, Mạc Tà rèn kiếm cho Sở Vương, mất ba năm mới rèn được hai thanh Thư kiếm và Hùng kiếm. Can Tương biệt Sở Vương ắt sẽ không để cho mình về núi rèn thêm kiếm tốt, trước khi vào cung đã biết trước là tất phải chết rồi. May mà khi đó Mạc Tà đã có thai, vì thế Can Tương chỉ dâng lên cho Sở vương một thanh kiếm, dặn Mạc Tà rằng sau này nếu sinh được con trai thì hãy bảo nó trả thù cho mình..." Giữa sa mạc trống trải, giọng nói trầm thấp của Đỗ Tứ nghe như vọng ra từ nơi sâu thẳm trong chốn hồng hoang, chậm rãi kể lại câu chuyện cũ tìm hơn ngàn năm trước.

Tuy cả Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều biết thân điển cố lưu truyền thiên cổ này nhưng giờ đây, được nghe lại lần nữa ở giữa vùng hoang mạc trống trải, vô cùng vô tận thì không khỏi cảm thấy máu nóng sôi trào, trong lòng bất giác nảy sinh một phen cảm ngộ khác.

Dương Sương Nhi không kìm được, tiếp lời: "Sau đó, Sở Vương quả nhiên đã giết chết Can Tương. Mạc Tà sinh được con trai, đặt tên là Xích, đứa bé đó khi trưởng thành muốn đi hành thích Sở Vương nhưng lại không có cơ hội. Về sau, có người nói với Xích rằng có thể giúp y trả thù nhưng lại cần tới cái đầu của y. Y không chút do dự vung kiếm tự vẫn. Người đó quả nhiên đã dâng đầu Xích bên cho Sở Vương được Sở Vương tin tưởng. Sau đó y liền xúi giục Sở Vương dùng chiếc vạc nấu canh để luộc đầu Xích, sau đó nhân lúc không người nào đề phòng liền chém rụng đầu Sở Vương, cuối cùng bản thân y cũng của cố tự vẫn..."

Đỗ Tứ lại nói tiếp: "Hơn nữa, thủ cấp của ba người đều rơi vào trong vạc, bị nấu đến nát nhừ, khó có thể phân biệt được. Quần thần nước Sở đành mai táng ba người chung một chỗ. Mối huyệt thù rốt cuộc đã được trả, đồng thời tấm lòng tráng liệt nguyện chết vì nghĩa kia cũng được truyền tụng trên thế gian, người đời sau không ai là không thương tiếc..."

Hứa Mạc Dương lòng sinh xúc cảm, không kìm được thở dài một tràng. Y không muốn để người khác nhận ra bản thân mình ôm chí báo thù, buồn bã nói: "Can Tương, Mạc Tà đều là thần khí thời cổ, có ai ngờ bên trong đó lại ẩn chứa một câu chuyện đẫm máu và nước mắt như vậy!"

Dương Sương Nhi thì lại nghĩ đến một chuyện khác. Đúng thế, Can Tương đã chết, con trai ông cũng liều thân trả thù, như vậy thuật rèn kiếm e là cũng thất truyền rồi."

Đỗ Tứ cười rộ, nói: "Cháu gái nhầm rồi, Xích tuy đã tự vẫn mong trả thù cho cha nhưng vẫn lưu lại một đứa con, giao cho Mạc Tà nuôi nấng nên người. Mạc Tà thấy cả chồng và con mình đều gặp tai họa vì rèn kiếm, không muốn truyền

lại thuật rèn kiếm cho con cháu đời sau, liền đổi sang truyền thụ thuật chế tạo áo giáp. Chẳng ngờ Xích vẫn lưu lại một cuốn sách viết về thuật rèn kiếm, hậu nhân của ông liền vừa rèn binh khí vừa chế tạo áo giáp, đó chính là tổ sư khai sơn Vân Kỳ Tử của phái Binh Giáp bọn ta!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều giật mình bừng tỉnh, thì ra Đỗ Tứ muốn nhờ câu chuyện này để kể về nguồn gốc của phái Binh Giáp với bọn họ.

Binh Giáp truyền nhân ngày đêm chìm đắm trong thuật chế tạo binh giáp, sự hiểu biết về vũ khí không người nào có thể so sánh được. Chẳng trách Chích Lôi kiếm của Tề Trưa Thành tuy là một món vũ khí kỳ dị nhưng vừa gặp phải vị tổ sư binh khí như Đỗ Tứ liền tan rã thành từng mảnh vụn chỉ sau nháy mắt.

Dương Sương Nhi cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi, chợt thấp giọng nói: "Cháu từng nghe phụ thân nhắc tới phái Binh Giáp. Ông nói đó là một môn phái thần bí nằm bên bờ sông Lưu Mã ở vùng Giang Bắc, mỗi đời chỉ có hai truyền nhân, một người rèn vũ khí, một người chế tạo áo giáp. Mỗi môn nhân cả đời chỉ được chế tạo tối đa ba món thần khí nhưng những vật được chế tạo ra đều là thần binh hay bảo giáp lừng danh một thời."

Đỗ Tứ ngẩng đầu nhìn trời, thở dài. "Thực ra cũng không hẳn như vậy. Nếu là thần binh, bảo giáp thật sự thì cả đời chỉ cần chế tạo được một món cũng đã là niềm tự hào lớn nhất đối với môn đồ bản phái rồi. Huống chi nếu không có chiến tranh, giáp trụ sẽ trở nên vô dụng, cho nên phái Binh Giáp rốt cuộc đã chia ra làm hai phe, một phe toàn tâm toàn ý rèn vũ khí, một phe dốc sức chế tạo áo giáp, sau mấy đời phân tranh, thực lực của bản phái ngày càng đi xuống.

Khi xưa ta cũng chỉ vì một khối Côn Luân thần thiên ngàn năm mà sinh lòng tranh hơn thua với sư đệ Đấu Thiên Kim, cho nên mới tới vùng Tái Ngoại xa xôi này mong tìm được nguyên liệu tốt để chế tạo áo giáp. Ôi, thợ giỏi dễ kiếm, thần phẩm khó tìm, phái Binh Giáp bọn ta đã gần mười đời nay chưa thể chế tạo được một món thần khí thật sự rồi..." Giọng nói của lão càng lúc càng thấp, bên trong như chứa chan nỗi buồn thương vì sự sa sút của sư môn.

Tới lúc này Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi mới biết, thì ra trong phái Binh Giáp lại có nhiều vấn đề rắc rối như vậy mà nghe khẩu khí của Đỗ Tứ thì lão hẳn là người thuộc phe chế tạo áo giáp. Nhưng muốn chế tạo thần binh, bảo giáp thì thứ đầu tiên phải có chính là nguyên liệu tốt, cũng giống như việc thợ ngọc muốn gọt giũa được một món danh khí truyền đời thì trước tiên phải có một viên ngọc đẹp không tì vết. Côn Luân thần thiên ngàn năm mà Đỗ Tứ vừa nói tới là một loại sắt, hẳn nhiên không thích hợp để chế tạo áo giáp, chẳng trách lão không tranh được với vị sư đệ một lòng rèn binh khí kia.

Hứa Mạc Dương thấy Đỗ Tứ nhíu chặt đôi mày thì muốn khuyên nhủ mấy câu nhưng lại không biết phải nói thế nào, trong lòng bỗng nảy ra một tia cảm ngộ, buột miệng nói: "Thực ra việc chế tạo binh khí và áo giáp cũng giống như

rất nhiều việc khác trong thiên hạ, phải dựa theo điều kiện của bản thân mà làm mới là đúng đắn nhất. Nếu không để ý tới chủng loại của vật phẩm mà miễn cưỡng làm bừa, chỉ e dù nguyên liệu có tốt đến mấy thì cuối cùng cũng chẳng thể làm nên chuyện."

Trong mắt lóe nên ánh tinh quang, Đỗ Tứ ngạc nhiên đưa mắt nhìn qua phía Hứa Mạc Dương. "Ngươi có thể nói được đạo lý như vậy, ắt đã nhận được không ít chân truyền của Xảo Chuyết đại sư."

Dương Sương Nhi vẫn mang tâm tính của một thiếu nữ, nói năng vốn chẳng cố kỵ. "Mặc kệ là rèn binh khí hay chế tạo áo giáp, Đỗ bá bá tốt nhất hãy tìm một ít nguyên liệu tốt về rèn một thanh binh khí ngàn năm khó gặp, chọc cho cái tên Đấu Thiên Kim gì đó kia tức chết..." Chợt nhớ ra vị Đấu Thiên Kim kia là sư đệ của Đỗ Tứ, tính ra dù sao cũng là trưởng bối của mình, gọi thẳng tên như vậy thực là bất kính, Dương Sương Nhi bèn lè lưỡi vẻ tinh nghịch.

Đỗ Tứ lại chẳng hề để tâm tới việc Dương Sương Nhi nói năng vô lễ, chỉ như đang ngẩn ngơ suy nghĩ điều gì, rồi lão thở dài một tiếng, hai hàng lệ lã chã tuôn rơi. "Xảo Chuyết ơi là Xảo Chuyết, ta nhất định sẽ không phụ sự khổ tâm của ông!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đưa mắt nhìn nhau, trong lòng không kìm được nhớ đến cây cung tràn đầy sát khí trên cuộn vải kia.

Đỗ Tứ lại thở dài thêm tiếng nữa. "Xảo Chuyết và ta quen nhau từ hai mươi năm trước, hai bên kết mối sinh tử chi giao. Chín năm trước, lão trở mặt với tên phản đồ Minh Tông Việt của Hạo Không môn, sau đó bỏ đi biệt tích, đến ta cũng chẳng thể tìm thấy lão. Sáu năm trước, lão bất ngờ đến tìm ta, nói là đã có kế hoạch đối phó với kẻ đó rồi. Cả đời lão hiếm khi cầu xin người khác, vậy mà lão lại xin ta hãy ở lại nơi này, chờ một người cầm theo tín vật của lão tới..."

Hứa Mạc Dương vô cùng ngạc nhiên. "Chẳng lẽ từ sáu năm trước, Xảo Chuyết đại sư đã biết là ta sẽ đến tìm tiền bối sao?" Từ đáy lòng y bỗng trào dâng một suy nghĩ hoang đường rằng vận mệnh tay không do con người khống chế nhưng Xảo Chuyết đại sư dường như lại biết trước tương lai sẽ xảy ra những chuyện gì. Đầu óc y nhất thời trở nên ngớ ngẩn, không thể nói tiếp lời nào.

Đỗ Tứ chăm chú nhìn Hứa Mạc Dương. "Ngay từ khoảnh khắc ngươi bước chân vào cửa quán, ta đã nhận ra cây phất trần của Xảo Chuyết rồi, chỉ là việc xảy ra đột ngột nên không thể không thận trọng. Chẳng ngờ sáu năm trước chia tay Xảo Chuyết, từng lời nói vẫn như vang vọng bên tai, vậy mà giờ đây đã âm dương xa cách..." Nói rồi lão lại không kìm được thổn thức.

Dương Sương Nhi cảm thấy vô cùng hứng thú. "Ý Đỗ bá bá là Xảo Chuyết đại sư có thể đoán trước được việc xảy ra trong mấy năm sau sao?"

Đỗ Tứ không trả lời thẳng vào câu hỏi, chỉ nói: "Tuy ta không biết gì về Thiên Mệnh bảo điển nhưng đó là một trong hai đại thần công của Hạo Không môn, sự huyền diệu, tinh túy bên trong quyết không phải là thứ mà người ngoài có thể tưởng tượng. Có lẽ những môn kỳ công diệu thuật bên trong có thể đạt tới cảnh giới như vậy."

Dương Sương Nhi tỏ vẻ khó hiểu. "Mệnh trời khó đoán, muốn thật sự nhìn thấu thiên cơ há lại là việc dễ dàng?"

"Không hẳn." Đỗ Tứ khăng khăng nói. "Xảo Chuyết cả đời nghiên cứu huyền cơ của trời đất, tác phong hành sự của lão, bọn phàm phu tục tử chúng ta không thể nào hiểu được."

Tới lúc này, Hứa Mạc Dương mới loáng thoáng hiểu ra ngọn nguồn câu chuyện chẳng trách ở bên rìa sa mạc lại có một quán trọ kỳ quái như thế. Đỗ Tứ vì lời hứa với bạn mà một mình cô độc ở lại sa mạc này suýt sáu năm trời, khi nhàn rỗi không có việc gì làm chắc hẳn chỉ biết điêu khắc cành cây để giết thời gian. Nghĩ thế, Hứa Mạc Dương liền sinh lòng kính trọng đối với lão già tướng mạo thì hung ác nhưng thực ra lại vô cùng lương thiện và thủ tín này.

Dương Sương Nhi đại hỏi: "Xảo Chuyết đại sư có nói với Đỗ bá bá là nếu đợi được người mà ông ấy phái tới rồi thì phải làm gì tiếp theo không?"

Đỗ Tứ khẽ lắc đầu, đáp: "Ngày đó, ta và Xảo Chuyết chỉ gặp nhau một lát, lão nói còn có một số chuyện cần phải suy nghĩ kỹ càng rồi mới đưa ra quyết định được." Sau đó lão lại nhìn qua phía Hứa Mạc Dương. "Liệu Hứa tiểu huynh có thể nói ra những điều mình biết để mọi người cùng suy nghĩ chăng?"

Hứa Mạc Dương liền kể lại việc bảy năm trước Xảo Chuyết đã quen biết mình thế nào, dặn dò sau khi thành Đông Quy bị phá hãy lên núi ra sao, sau đó lại kể lại những lời đối đáp khiến người ta như hiểu như không của lão với Minh Tướng quân, cả việc lão nhìn một cái rồi dùng cây phất trần truyền công cho y khiến bây giờ trong đầu y tồn tại những suy nghĩ kỳ quái. Cuối cùng y kể việc Xảo Chuyết đại sư dùng thần công ném y ra khỏi vòng vây trùng trùng của kẻ địch, đồng thời truyền âm dặn dò y tới Tiếu Vọng sơn trang tìm Binh Giáp truyền nhân.

Ban đầu, khi y nói tới cảm giác về ánh mắt đó còn có chút ngẩn ngơ, nhưng về sau càng nói càng nhanh hơn, dường như những việc xảy ra trong mảnh ký ức của Xảo Chuyết đại sư đều là những việc từng xảy ra trong cuộc đời của y vậy...

Hứa Mạc Dương càng nói lại càng kinh hãi, mơ hồ cảm thấy Xảo Chuyết đại sư sớm đã an bài mọi việc. Chẳng hạn lão sớm đã biết thành Đông Quy sắp bị công phá, cho nên khi y nhìn thấy lão thì lão đang vận huyền công, dường như để chuẩn bị sẵn sàng cho ánh mắt kinh thiên động địa ngay sau đó cùng với quá trình truyền công và khai thông kinh mạch cho y. Nhưng y không sao hiểu được, nếu Xảo Chuyết đại sư thật sự đoán trước được tương lai, thậm chí đoán trước được sự sống chết của bản thân mình, vậy tại sao lại không né tránh tai họa ngay từ sớm...

Đỗ Tứ nghe Hứa Mạc Dương kể lại những ảo giác xuất hiện trong tâm trí khi nhìn vào ánh mắt đó của Xảo Chuyết liền hú dài một tiếng, nhìn Hứa Mạc Dương bằng ánh mắt đầy thâm ý. "Hứa tiểu huynh cơ duyên xảo hợp, gặp được kỳ ngộ này, nhất định phải sử dụng cho tốt, ngày sau ắt sẽ có thành tựu lớn"

Đến khi nghe Hứa Mạc Dương kể lại, Xảo Chuyết đại sư từng chỉ ra ngày mùng Bảy tháng Tư sáu năm về trước là thời khắc bất lợi nhất của Minh Tướng quân, Đỗ Tứ hơi cau mày, lẩm bẩm: "Chẳng lẽ chính vì thế nên sáu năm trước Xảo Chuyết mới tới tìm ta sao?" Còn Hứa Mạc Dương thì lại nghĩ đến cuộn vải giấu trong cây phất trần cùng với cây cung có kiểu dáng kỳ lạ, đầy sát khí kia, tâm trạng vô cùng bình tĩnh, đột nhiên hiểu ra một số điều. "Ta biết rồi, chính là ngày mùng Bảy tháng Tư sáu năm trước, Xảo Chuyết đại sư đã vẽ ra cây cung đó!"

Mặt mày Dương Sương Nhi ngẩn ngơ, nàng ta kể lại: "Phụ thân nói bốn năm trước, ông đã định ước hẹn với một đạo nhân, rằng trước tháng Tư năm nay sẽ phái một người tinh thông võ công của thành Vô Song đến Tiếu Vọng sơn trang ở nơi này. Bây giờ nghĩ lại, vị đạo nhân đó có lẽ chính là Xảo Chuyết đại sư, nhưng chẳng lẽ từ bốn năm trước đại sư đã biết được những biến cố xảy ra bấy giờ? Và chẳng lẽ ngày mùng Bảy tháng Tư năm nay sẽ xảy ra chuyện gì đó hay sao?"

Cả ba người cùng im lặng, trong lòng trào dâng một nỗi sợ hãi khó diễn tả bằng lời, nhưng mỗi người cũng có những suy nghĩ riêng.

Dương Sương Nhi hỏi: "Đỗ bá bá có biết Tiếu Vọng sơn trang nằm ở nơi nào không?"

Đỗ Tứ nói: "Đi tiếp về phía bắc hơn mười dặm nữa sẽ tới dãy núi Cách Vân, nơi cửa vào của nó có tên gọi là U Minh cốc. Đi qua U Minh cốc thêm hơn mười dặm thì tới Độ Kiếp cốc, Tiếu Vọng sơn trang nằm trên đỉnh Chư Thần trong Độ Kiếp cốc."

Hứa Mạc Dương tò mò hỏi: "Tại sao tại hạ chưa từng nghe nói tới cái tên Tiếu Vọng sơn trang?"

Đỗ Tứ đáp: "Trong Độ Kiếp cốc toàn là những thứ kỳ hoa dị thảo, mãnh thú độc trùng, nghe nói còn có loại cây có thể giết người, vô cùng nguy hiểm, cho nên mời có lời đồn rằng đi qua cốc giống như là độ kiếp. Cũng vì thế Tiếu Vọng sơn trang xưa nay vẫn luôn hiếm có bóng người, tên của nó chẳng được mấy ai biết đến."

Dương Sương Nhi không biết đang nghĩ đến điều gì, bỗng cắn chặt môi, hỏi: "Vậy trong Tiếu Vọng sơn trang có người nào không?"

Trên khuôn mặt Đỗ Tứ thoáng qua một tia dị thường. "Cư ngụ trong Tiếu Vọng sơn trang dường như là quý tộc lưu vong của nước nào đó, trên dưới tổng cộng có mấy trăm người, các trang đinh đều được huấn luyện bài bản, sức chiến đấu rất mạnh. Trang chủ của bọn họ là Dung Tiếu Phong, tuy không có danh tiếng trên giang hồ nhưng võ công cục kỳ lợi hại. Tứ Tiếu thần công mà y tự sáng tạo ra vốn hiếm khi xuất hiện trong mắt người đời, có điều thực sự là một môn kỳ công đi theo lối đi riêng và rất có thành tựu."

Hứa Mạc Dương không kìm được tò mò, cất tiếng hỏi: "Tiếu Vọng sơn trang bí ẩn như vậy, cớ sao Đỗ tiền bối lại biết rõ thế?"

Đỗ Tứ cúi đầu nhìn bàn tay phải của mình, giống như đang nhớ đến chuyện xưa, sau đó lại chậm rãi đưa bàn tay phải đến trước mặt hai người, giọng nói trở nên khàn khàn, trầm thấp. "Mấy năm trước, ta từng vì một việc mà thường xuyên tới Tiếu Vọng sơn trang, còn giao đấu một chưởng với Dung Tiếu Phong, hai người hãy xem đi!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi cùng đưa mắt nhìn về phía bàn tay to lớn, sần sùi những khớp xương đó, chỉ thấy giữa lòng bàn tay có những đường nét hoa văn hết sức kỳ lạ. Chúng chạy ngang qua bàn tay, hõm xuống ở giữa và cong lên ở hai bên trái phải, dường như tạo thành một khuôn mặt cười, quỷ dị tới cực điểm.

"Đây là cái gì?" Dương Sương Nhi kinh hãi kêu lên.

Đỗ Tứ mỉm cười, nói: "Võ công của Dung Tiếu Phong chắc hẳn được truyền lại từ Sát Viễn đại quốc sư của Mông Cổ năm xưa, chuyên dùng ý để phá lực, dùng niệm để di động, khác hẳn với lộ số của võ học Trung Nguyên. Sau khi ta giao đấu với y một chưởng, lòng bàn tay chẳng hiểu sao lại xuất hiện hoa văn hình khuôn mặt cười này."

Hứa Mạc Dương tỏ vẻ thận trọng, hỏi: "Như vậy là giữa tiền bối và Dung Tiếu Phong có hiềm khích, lần này chúng ta đi tới Tiếu Vọng sơn trang liệu có..."

Đỗ Tứ ngạo nghễ cười, nói: "Dung Tiếu Phong tuy là người ngoại tộc nhưng cũng thông tình đạt lý, cuộc tranh chấp năm xưa thực ra có nguyên do riêng,

huống chi sau khi giao đấu một chưởng đó, hai người bọn ta chẳng ai làm gì được ai, tính ra ta và y không những không thể coi là kẻ đối đầu, ngược lại còn có cảnh giác quý trọng nhau. Cái đạo của võ học mênh mông như biển cả, nếu có thể tìm được một người võ công không phân cao thấp với mình để thử chiêu thì thực là một điều rất có ích cho việc tu hành, tin rằng từ chưởng đó, ta và y đều nhận được không ít lợi ích."

Hứa Mạc Dương nghe thấy những lời này, trong lòng nảy sinh rất nhiều cảm xúc. Đỗ Tứ tuy đã ẩn cư nơi biên thùy mấy năm nhưng bất kể là về võ công, trí tuệ hay kiến thức đều hết sức phi phàm, lời nói không nhiều nhưng mỗi câu đều có thể khiến người ta bừng tỉnh ngộ.

Dương Sương Nhi rốt cuộc không kìm được, cất tiếng hỏi: "Chúng ta cứ thế này mà tới Tiếu Vọng sơn trang sao? Đỗ bá bá không phải đã nói trong Độ Kiếp cốc gì đó còn có loài cây có thể giết người à?" Nói rồi nàng ta đưa tay lên khẽ vuốt ngực, thì ra trong lòng nàng ta vẫn luôn lo lắng chuyện này.

Hứa Mạc Dương cười, nói: "Dương cô nương gia học uyên thâm, ngay đến kẻ xấu như Tề Truy Thành cũng không sợ, không lẽ lại sợ một cái cây? Nói ra thực khiến người ta khó có thể tin được."

"Hì hì!" Dương Sương Nhi lè lưỡi vẻ tinh nghịch. "Phụ thân chỉ dạy tiểu muội cách dùng võ công để đánh kẻ xấu, nhưng lại không dạy cách ra tay với một cái cây. Chẳng lẽ Hứa huynh có bản lĩnh tìm được huyệt đạo của cây cối sao?" Câu nói này thực khiến Hứa Mạc Dương dở khóc dở cười. Dương Sương Nhi vốn mang tâm tính của người trẻ tuổi, lúc mới gặp hãy còn hơi rụt rè nhưng bây giờ, khi đã quen thuộc thì cũng dám trêu chọc y rồi.

Đỗ Tứ thì lại đưa mắt nhìn những đường nét mơ hồ của ngọn núi nhấp nhô trong màn đêm mịt mờ phía trước, trên khuôn mặt thoáng hiện vẻ lo lắng. "Địa thế dãy Cách Vân này cực kỳ đặc biệt, vách núi hai bên gần như dựng đứng, tuyệt đối không thể leo trèo, cho nên muốn tới được Tiếu Vọng sơn trang trong Độ Kiếp cốc thì nhất định phải đi xuyên qua sơn cốc chứ không còn cách nào khác. Tạm chưa nói tới Độ Kiếp cốc, ngay đến cửa ải đầu tiên khi đi vào dãy Cách Vân là U Minh cốc chúng ta cũng đã không thể né tránh được rồi."

Hứa Mạc Dương thấy sắc mặt Đỗ Tứ có chút khác thường, bèn hỏi: "Trong U Minh cốc có gì sao?"

"Cốc này vốn không có tên, bây giờ được gọi là U Minh cốc chẳng qua là vì bên trong đó xuất hiện một ngôi mộ..."

Dương Sương Nhi dù sao cũng là nữ giới, nghe tới đây thì kinh hãi kêu lên: "Mộ? Là mộ của ai vậy? Đỗ bá bá đừng dọa cháu nhé!"

"Mộ chỉ có một ngôi nhưng bên trên lại để tên của rất nhiều người." Trên khuôn mặt xuất hiện một tia kỳ quái, Đỗ Tứ khẽ cười với Dương Sương Nhi, giải thích: "Cháu gái đừng sợ, chúng ta đợi đến bình minh, khi mà quỷ khí yếu hơn thì sẽ đi vào U Minh cốc."

Hứa Mạc Dương vốn cảm thấy khó hiểu khi Đỗ Tứ bất chấp mối nguy hiểm bị truy binh của Minh Tướng quân đuổi kịp mà dừng chân nghỉ lại đây, tới lúc này mới hiểu rõ nguyên cớ. Nghe giọng điệu của lão, U Minh cốc tuyệt đối không chỉ đơn giản là có một ngôi mộ như vậy. Y bèn lập tức dò hỏi bằng ánh mắt, chờ những lời tiếp theo của lão.

Quả nhiên Đỗ Tứ lại chậm rãi nói tiếp: "Trong mộ không có quan tài. Điều kỳ quái nằm trên bia mộ."

"Kỳ quái thế nào?"

"Mộ này thực sự rất đặc biệt, chỉ chôn người sống, không chôn người chết."

Đỗ Tứ cất giọng nặng nề. "Người nào chết rồi thì sẽ được xóa tên khỏi bia mộ."

"Đó là những người nào?".

"Đều là những bậc hào cường nổi tiếng một phương trên giang hồ. Cái tên nào càng nằm phía trên thì lại càng là của các nhân vật ghê gớm." Trên khuôn mặt Đỗ Tứ thoáng qua một tia dị thường. "Hai người thử đoán xem cái tên nằm ở vị trí đầu tiên trên bia mộ là của ai?"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đưa mắt nhìn nhau, đồng thời hô lên: "Minh Tướng quân?".

Đỗ Tứ cười rộ, nói: "Không sai, tuy có rất nhiều người coi khinh những việc mà Minh Tông Việt đã làm nhưng bất kể là ai cũng không thể không thừa nhận, hắn đích thực là một nhân vật..." Lão dừng lại một chút rồi khẽ thở dài. "... một nhân vật khiến người ta không thể không sợ, cũng không thể không khâm phục!".

Sau khi nghỉ ngơi chừng hai canh giờ, ba người lại tiếp tục lên đường. Đi thêm hơn mười dặm nữa, bọn họ rốt cuộc đã đi ra khỏi sa mạc, phía trước mặt chính là dãy núi Cách Vân.

Dãy núi Cách Vân được chia ra làm hai nửa chạy song song với nhau, ở giữa là một khe núi rất dài. Trong khe núi, mây mù lởn vởn suốt cả ngày nhưng lại bị vách núi cao vút hai bên chặn lại bên trong, cái tên Cách Vân chính là bắt nguồn từ đó. Cửa vào của khe núi là U Minh cốc, một nơi mà ngay đến những bậc cao nhân đầy kinh nghiệm trên giang hồ như Đỗ Tứ cũng phải thầm kinh sợ.

Vừa mới đi vào U Minh cốc, Hứa Mạc Dương đột nhiên có một cảm giác quái dị.

U Minh cốc nằm ở cửa vào của dãy núi Cách Vân, vừa mới bước chân vào trong cốc, sương mù đã lớn vởn xung quanh. Hơn nữa ở đây còn mọc rất nhiều loại cây không rõ tên gọi, so với mảng cát vàng mênh mông không có bên bờ ngoài kia thực sự là hoàn toàn khác biệt, tựa như một cõi đất riêng.

Lúc này đã là bình minh. Dưới vầng trăng treo cao trên trời, cảnh vật trong sơn cốc thoáng ẩn thoáng hiện giữa làn sương mù mờ mịt, tuy không ngăn nắp chỉnh tề nhưng rất thú vị.

Ở đây có giả sơn, có hành lang, thậm chí còn có cả một cây cầu đá cong cong. Dưới chân cầu tuy không có nước nhưng được thay bằng thảm cỏ xanh, kênh mương thì được thay bằng các khe rãnh. Những tảng đá kỳ dị nhiều vô kể, kết hợp một cách hoàn hảo với khung cảnh núi non dựng đứng xung quanh, cho dù là trong nội cung ở thành Đông Quy có lẽ cũng không có được cảnh sắc tao nhã thế này.

Đỗ Tứ lẩm bẩm: "Ba năm trước, khi ta tới thì nơi này chỉ có một ngôi mộ, không ngờ bây giờ lại xuất hiện thêm nhiều cảnh sắc thế này!"

Bốn phía xung quanh tĩnh lặng không một bóng người, chẳng rõ những cảnh sắc trong sơn cốc hoang vu này là do người nào tạo ra. Tuy thấp thoáng đã có ánh ban mai chiếu xuống, tất cả đều vô cùng bình yên nhưng dường như vẫn có những luồng quỷ khí rợn người lớn vởn quanh đây. Dù Đỗ Tứ từng tới nơi này nhưng giờ đây cảnh vật đã hoàn toàn khác khiến lão không khỏi có chút ngẩn ngơ. Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi lại càng căng thẳng, một bàn tay của Dương Sương Nhi không kìm được nắm chặt lấy ống tay áo của Đỗ Tứ.

Ba người cùng bước bên cây cầu đá. Cây cầu dẫn thẳng tới một ngôi đình nhỏ màu trắng. Dưới làn ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, những chữ lớn được để trên ngôi đình đột nhiên đập vào mắt: "Thiên địa bất nhân."

Trong đình không có bàn ghế, chỉ có duy nhất một ngôi mộ màu xanh sẫm.

Dưới mái hiên của ngôi đình còn treo một chùm chuông gió màu bạc, nó nhẹ nhàng đung đưa trong làn gió sớm, càng khiến không khí nơi đây toát lên vẻ thần bí và quỷ dị.

Ngôi mộ được xây bằng vô số tảng đá lớn màu xanh, chất đá cổ xưa, màu sắc thanh nhã. Phía trước ngôi mộ có dựng một tấm bia lớn, rộng chừng bốn thước.

Chữ viết bên trên tấm bia đó chắc hẳn là do bậc cao nhân khắc ra, mỗi nét đều ăn sâu vào đá. Cho dù ba người còn ở cách tấm bia hơn mười trượng nhưng Hứa Mạc Dương đã có thể nhìn thấy rõ phía trên cùng của tấm bia mộ có khắc ba chữ lớn: Anh Hùng chủng 1 phía bên dưới còn khắc chi chít những chữ nhỏ li ti.

Một cảm giác bi thương đột nhiên trào dâng trong lòng Hứa Mạc Dương. Y cảm thấy cho dù là những đại anh hùng, đại nhân vật từng ngạo nghễ trong thiên hạ, lưu danh sử xanh thì đến cuối cùng cũng chỉ còn là một nắm đất trở về với cát bụi.

Mấy chục năm nay, Hứa Mạc Dương vẫn luôn tung hoành nơi Tái Ngoại, với bản tính hào sảng, phóng khoáng, y nào đã có cảm giác bi lụy như thế bao giờ. Nhưng lúc này, đầu tiên là nhìn thấy bốn chữ "Thiên địa bất nhân" đầy khí thế bên ngoài ngôi đình, sau lại nhìn thấy ba chữ "Anh Hùng chủng" ở đây, y bỗng cảm thấy vạn sự đều là không. Có câu rằng: "Thiên địa vô thường mệnh do trời định", tức là tất cả mọi chuyện đều nằm trong sự không chế của ông trời, cho nên có làm việc gì thực ra cũng chẳng hề quan trọng.

Hứa Mạc Dương hiểu rõ nhất định là ánh mắt đó của Xảo Chuyết đại sư đã làm thay đổi rất nhiều suy nghĩ của mình nhưng vẫn không sao kìm được nỗi bi thương. Lúc này, trên mặt y, lệ rơi nhạt nhòa, trái tim chấn động, thêm vào đó là vết thương cũ còn chưa khỏi, y suýt thì há miệng phun ra một ngụm máu tươi.

Dương Sương Nhi ở bên cạnh thì lại đang nhớ về phụ thân ở tận Giang Nam xa xôi. Chuyến đi tới Tiếu Vọng sơn trang lần này thực ra là nàng ta lén trốn ra ngoài, trên đường gặp được vị Lâm thúc thúc xưa nay vốn là người tiêu sái phóng khoáng nhất trong nhà, bèn dựa vào tâm tính trẻ con đòi đi một mạch lên Tái Ngoại để du sơn ngoạn thủy. Lúc này nàng ta mới nhớ ra mình rời đi như vậy, phụ thân ở nhà nhất định sẽ nhớ mong, lại nghĩ mình xưa nay vẫn quen thói điêu man, chưa từng hiếu kính với song thân bao giờ, còn thường xuyên làm phụ thân tức giận, nỗi bi thương trong lòng cũng bất giác trào dâng.

Hai người Hứa, Dương đột nhiên cảm thấy lòng ấm áp, những suy nghĩ buồn thương trước đó đột nhiên nguôi ngoai đi rất nhiều.

Thì ra Đỗ Tứ đã dùng hai tay trái phải đặt lên vai Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi, truyền huyền công vào trợ giúp bọn họ gạt bỏ tâm ma. Chỉ thấy Đỗ Tứ tập trung tâm trí, sắc mặt nặng nề chưa từng có. Nhìn ánh bình minh đằng chân trời phía đông đang dần xua đi màn đêm, lão nói chậm rãi từng chữ: "Binh Giáp truyền nhân Lưu Mã hà Đỗ Tứ tới bái phỏng U Minh cốc!" Âm thanh vang vọng trong sơn cốc trống trải càng làm sự quỷ dị và thần bí tăng thêm bội phần.

Trong cốc vẫn không thấy xuất hiện một bóng người, cũng chẳng có tiếng động nào.

"A..." Giữa màn sương mù tịch mịch đột nhiên thấp thoáng vọng ra một tiếng kêu kinh hãi. Ba người lần theo hướng phát ra âm thanh, đi được mấy bước liền nhìn thấy một khung cảnh quỷ dị tới cực điểm.

Một hòa thượng hai tay múa may cây thiền trượng dài chừng tám thước đang đi tới từ phía trước với vẻ rất vội vàng. Gã hòa thượng múa cây thiền trượng rất nhanh, gần như đã hình thành một tấm lưới màu đen che chắn trước thân thể.

Phía trên của gã treo lửng lơ một thứ gì đó. Thứ đó thuần một màu trắng, không ngừng đung đưa qua lại, theo sát trên đỉnh đầu nhưng dường như gã chẳng hay biết, cứ ra sức chạy như bay về phía trước, miệng không ngừng kêu ầm ĩ, giống như vừa gặp phải một chuyện gì đó vô cùng đáng sợ.

"Quỷ!" Dương Sương Nhi không kìm được sợ hãi, thốt lên một tiếng, vội vàng đưa tay lên bụm miệng.

Một tiếng "keng" vang lên, thanh trường kiếm của Hứa Mạc Dương đã rời khỏi vỏ, chỉ về phía gã hòa thượng kia. Đó không phải ai khác, chính là Thiên Nạn đầu đà dưới trướng Minh Tướng quân.

Sau khoảnh khắc, Thiên Nạn đã chỉ còn cách ba người chừng hơn một trượng nhưng vẫn có vẻ chẳng hay biết gì, miệng không ngừng kêu lớn, đôi tay ra sức múa may cây thiền trượng nặng tới mấy chục cân đó.

Thiên Nạn càng múa càng chậm, thứ màu trắng trên đỉnh đầu gã đột nhiên hạ xuống, va mạnh vào cây thiền trượng. Chỉ nghe "choang" một tiếng, Thiên Nạn lại quát lớn thêm lần nữa, thôi thúc chân nguyên múa thiền trượng nhanh hơn.

Cứ nhìn tình hình này, chỉ e gã chẳng múa thêm được bao lâu thì sẽ kiệt sức mà chết.

Tiếng va chạm vừa rồi tay rất nhẹ nhưng lọt vào tai Hứa Mạc Dương lại khiến màng nhĩ y chấn động liên hồi, hệt như nghe thấy tiếng chuông đồng vang vọng giữa vùng sơn cốc trống trải. Sau một hồi lâu, vùng ngực vẫn cảnh thấy vô cùng khó chịu, y đoán chừng Thiên Nạn đang ở ngay gần nơi phát ra âm thanh chắc sẽ càng khó chịu hơn. Thiên Nạn tuy là tử địch của y nhưng nhìn thấy kẻ thù có võ công cao cường tỏ ra kinh hãi, còn có vẻ sắp kiệt sức đến nơi, trong lòng y không kìm được cảm thấy có chút thương hại.

Vật màu trắng kia nhẹ nhàng hạ xuống trước mặt ba người họ, không ngờ lại là một lão già vận chiếc áo rộng màu trắng. Râu và lông mày của lão già này đều đã bạc phơ, có lẽ đã bảy, tám chục tuổi, vậy nhưng khuôn mặt vẫn ánh lên nét hồng hào. Lúc này lão đang cười toe toét, thân hình lại thấp nhỏ, cao không đầy năm thước, cho nên dáng vẻ chẳng khác gì một đứa bé không hiểu sự đời.

Điều khiển người ta cảm thấy kinh ngạc nhất là mái tóc trắng của lão, nó buông xõa tới tận đầu gối, gần như bao trùm toàn thân, lại kết hợp với chiếc áo trắng rộng kia, khi đi giữa làn sương mù thì đúng là thoắt ẩn thoắt hiện. Chẳng trách vừa rồi ba người họ chỉ nhìn thấy một cái bóng màu trắng.

Lão già cười nhăn nhở với ba người họ, giống như một đứa bé chẳng có chút tâm cơ nào. "Mới sớm như vậy mà đã có khách tới rồi!" Sau đó lại nghênh

ngang xoay người nhìn Thiên Nạn, cười hề hề, nói: "Tên hòa thượng ngươi thực quá ngoan cố, gàn dở! Ta chẳng qua chỉ muốn xem thứ kia của ngươi thôi, vậy mà ngươi cứ coi nó như bảo bối, đúng là một tên hòa thượng ngốc, cần tiền không cần mạng."

Tóc của Thiên Nạn buông xõa qua vai, khuôn mặt đầy vẻ kinh sợ. Nhìn thấy mấy người Hứa Mạc Dương, hắn càng lộ vẻ tuyệt vọng nhưng vẫn không dám dừng múa thiền trượng, như thể sợ lão già áo trắng kia đột nhiên ra tay.

Lão già vỗ tay, cười nói: "Ngươi nghĩ ta thật sự không cướp được bảo bối của ngươi sao? Chẳng qua ta thấy cái chong chóng của ngươi xoay hay quá nên mới chơi đùa với ngươi một lát mà thôi. Bây giờ ta có khách rồi, ngươi hãy xem thủ đoạn của ta đây!"

Vẻ sợ hãi trong mắt lại càng đậm hơn nhưng Thiên Nạn vẫn liều mạng múa thiền trượng. Có điều lúc này động tác của gã đã có phần rối loạn, chỉ bảo vệ được phần bụng, phần ngực và phần đầu, không thể che chắn toàn thân như trước nữa.

Hứa Mạc Dương cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Trong cuộc hỗn chiến khi thành Đông Quy bị phá, y đã từng nhìn thấy sự dũng mãnh và tàn độc của Thiên Nạn, có mấy huynh đệ của y còn chết trong tay gã, vậy mà lúc này lão già tóc dài kia tuy có vẻ thấp bé hơn Thiên Nạn rất nhiều nhưng lại khiến cho gã vô cùng sợ hãi, chắc hẳn vừa rồi gã đã phải chịu thua thiệt rất nhiều.

Lão già tóc dài vừa dứt lời đã bất ngờ bay từ dưới đất lên với tốc độ cực nhanh, cả thân thể giống như một thanh kiếm vừa rèn qua lửa nóng, thoáng nhìn có cảm giác ánh lên những tia sáng màu trắng xanh, lao thẳng vào bức màn phòng thủ kín kẽ mà Thiên Nạn tạo ra bằng cây thiền trượng. Thân pháp của lão nhanh vô cùng nhưng người ta vẫn có thể nhìn thấy rõ từng động tác, thêm vào đó, mái tóc trắng dài kia múa lượn không ngừng nên trông lão hệt như một con chim lớn dũng mãnh khiến ba người Hứa Mạc Dương nhìn mà trợn tròn mắt, há hốc miệng.

Lại một tiếng va chạm trầm đục nữa vang lên, Thiên Nạn loạng choạng lùi liền hai mươi bước, sau đó ngã phịch, sắc mặt trở nên trắng bệch. "Cạch" một tiếng, cây thiền trượng rơi xuống đất, lúc này gã đã không còn sức để chiến đấu tiếp nữa.

Trên tay lão già tóc dài đã xuất hiện thêm một thứ gì đó có hình ống, lão cầm nó lật qua lật lại, ngắm nghía kĩ càng. Hứa Mạc Dương tinh mắt, nhận ra thứ đó có vẻ giống một cây pháo hoa, chỉ là nó được làm hết sức tinh xảo, khác hẳn những cây pháo hoa bình thường.

Đỗ Tứ nhìn thấy vật hình ống trong tay lão già tóc dài, sắc mặt trở nên vô cùng nghiêm trọng. "Đỗ mỗ cùng bằng hữu muốn mượn đường qua đây, xin lão huynh tạo thuận lợi cho!"

Lão già tóc dài đó ngúng nguẩy lắc đầu. "Muốn đi qua đường này thì để lại tiền mãi lộ. Còn về "thuận lợi" thì không có đâu, ngươi có thứ gì tốt hãy lấy ra cho ta xem nào!" Nói rồi, dường như lão lại nhớ đến điều gì đó, bèn nhìn qua phía Thiên Nạn, giơ thứ có hình ống trong tay lên, cười ha hả, nói: "Tên hòa thượng ngươi sớm giao thứ này cho ta chẳng phải là xong rồi sao, bây giờ thì ngay đến đi lại cũng khó."

Thiên Nạn thấy kẻ thù Hứa Mạc Dương đang ở ngay trước mặt mà mình lại chẳng còn sức để động thủ nữa, chỉ có thể mặc người ta chém giết, trong lòng nôn nóng vô cùng. Hắn cố nhắm mắt vận công nhưng lúc này làm sao mà tĩnh tâm cho được, từ trong miệng lập tức phun ra một ngụm máu tươi.

Dương Sương Nhi nhìn thấy thảm trạng của Thiên Nạn thì có chút không nhẫn tâm, bèn nói với lão già tóc dài kia: "Lão bá bá võ công cao cường như vậy, xin đừng làm khó vị hòa thượng này nữa?"

"Võ công? Ngươi nhìn ra được võ công của ta sao?" Lão già tóc dài ngẩn người, đưa tay vỗ đầu nói lớn mà dáng vẻ lại như đang lẩm bẩm một mình: "Hỏng rồi, ta đã quyết tâm quên đi võ công của mình, bây giờ lại không cẩn thận khoe khoang tuyệt học của bản môn ra trước mặt khách nhân như thế, chưởng môn nhất định sẽ không chịu thu nhận ta về sư môn nữa." Lão càng nói càng nôn nóng, cuối cùng khóc váng lên.

Đỗ Tứ và hai người Hứa, Dương đưa mắt nhìn nhau, trong lòng vừa kinh ngạc lại vừa tức cười. Võ công của lão già này cao thâm tột độ, vậy mà tác phong hành sự lại giống hệt một đứa trẻ con, chẳng lẽ một chiêu kinh thiên động địa vừa rồi của lão chỉ là để khoe khoang với người khác? Thực là khiến người ta không sao hiểu được.

Lão già tóc dài vừa khóc vừa quay sang nói với Thiên Nạn: "Nể tình tiểu cô nương xinh đẹp này cầu xin cho ngươi, ngươi mau cút đi! Có điều ngươi phải lập lời thề, sau này quyết không được nói ra là ta đã làm ngươi bị thương!"

Thiên Nạn đầu đà dường như rất sợ lão già tóc dài, vội vàng vâng lời, nói ngay: "Lão nhân gia yên tâm, nếu tại hạ nói với một người nào về việc ngài thân mang võ công tuyệt thế, nhất định sẽ chết không toàn thây!" Lão già tóc dài cười hô hô, nhường đường cho hắn rời đi.

Hứa Mạc Dương chĩa mũi kiếm về phía Thiên Nạn, trong lòng dâng lên hào khí ngút trời. "Tuy ta và ngươi không đội trời chung nhưng lúc này ngươi đã

không còn sức đánh tiếp, ta cũng tạm tha cho ngươi một mạng. Sẽ có một ngày ta tự tay chém đầu ngươi để trả thù cho các chiến sĩ Đông Quy."

Thiên Nạn cũng không nói gì thêm, bước thấp bước cao kéo lê cây thiền trượng rời khỏi sơn cốc.

Dương Sương Nhi tâm tư tinh tế, nhận ra lời thề của Thiên Nạn không chân thành nhưng cũng không nhẫn tâm làm khó hắn nữa. Đợi sau khi Thiên Nạn đã đi xa, nàng ta mới cười nói với lão già tóc dài kia: "Lão gia gia trúng kế rồi. Vị hòa thượng kia thề rằng sẽ không nói với một người về việc ông biết võ công, nhưng nếu hắn nói với hai người, ba người thì sẽ không tính là trái với lời thề.".

Lão già tóc dài ngẩn ra rồi lập tức cả giận. "Không ngờ tên hòa thượng thối tha này lại dám gạt ta! Đợi đó, để ta đi tìm hắn tính sổ, lần này ta nhất định phải cắt lưỡi hắn, xem hắn còn dùng cái gì để nói chuyện nữa!"

Dương Sương Nhi vội nói: "Hắn nhất định đã trốn rồi, sa mạc rộng như vậy, ông không tìm được hắn đâu! Hơn nữa ta cũng chỉ nói thế thôi, hắn đã bị ông dọa cho sợ chết khiếp, nhất định sẽ không dám nói với ai đâu! Cho dù ông có cắt lưỡi hắn thì hắn vẫn có thể dùng tay để viết cho người khác biết, ông chẳng thể bên cạnh hắn cả ngày đúng không!"

Lão già tóc dài ngẩn ra. "Ta đúng là không ra gì, nhẫn nhịn suốt bao nhiêu năm như vậy mà giờ lại phá hoại quy củ. Sau này, nếu chưởng môn biết được, không những sẽ không cho phép ta trở lại sư môn, khi bình xét về ta nhất định còn thêm bốn chữ "tùy tiện làm bừa" vào phía sau câu "già vô tích sự".

Ba người nghe lão tự đánh giá về mình như vậy thì đều thầm cảm thấy tức cười nhưng vẫn phải cố nín nhịn.

Lão già tóc dài càng nói càng nôn nóng, lại tiếp tục khóc váng lên. Lần này lão còn vừa giậm chân vừa đâm ngực, bộ dạng trông có vẻ hối hận, tự trách hơn trước gấp mấy lần.

Dương Sương Nhi thấy lão khóc lóc thương tâm, trong lòng không kìm được cũng muốn khóc theo, chợt nhớ đến hồi nhỏ thường trêu đùa cho ông nội mình vui vẻ, bèn bước tới kéo râu lão. "Lão gia gia đừng khóc nữa, bọn ta sẽ không nói với người nào về việc ông biết võ công là được chứ gì! Cho dù chưởng môn của ông không tin thì bọn ta cũng có thể làm chứng cho ông mà!"

"Có rồi, ta nghĩ ra một cách hay rồi!" Lão già tóc dài ngẩng lên nhìn ba người họ, lại cất tiếng cười vang. "Chỉ cần ta giết hết mấy người các ngươi, có ai còn biết việc ta từng dùng võ công nữa?" Lão vừa nói vừa vỗ tay không ngớt, dáng vẻ như thường rất vui sướng vì mình vừa nghĩ ra một "cách hay".

Ba người đều sợ đến giật nảy mình, thấy lão không có vẻ gì như đang giả bộ thì đều vội vàng vận công phòng thủ. Lão già này tuy điên điên khùng khùng nhưng võ công lại cao cường đến đáng sợ, nếu thật sự ra tay thì ba người bọn họ liên thủ cũng chưa chắc đã chống đỡ được.

Nhưng lão già đó lại chợt lắc đầu ngầy ngậy, lẩm bẩm: "Không được! Không được! Trông ba người các ngươi cũng không giống loại người được khắc tên trên Anh Hùng chủng, giết đi há chẳng phải sẽ làm tổn hại đến uy danh của Vật Do Tâm ta sao?"

Dù sao kinh nghiệm giang hồ của Dương Sương Nhi cũng còn nông cạn, tuy gia học uyên thâm nhưng từ nhỏ đã được nuông chiều, các trưởng bối trong nhà ai cũng có vẻ hiền từ, đứng đắn, nào đã được nhìn thấy lão nhân nào thú vị như Vật Do Tâm, lúc thì nghiêm túc lúc lại đùa cợt, nàng ta không kìm được bật cười khúc khích.

Vật Do Tâm nhìn thấy trên khuôn mặt Dương Sương Nhi còn vương nước mắt, nụ cười thì tươi như hoa, bỗng ngây người, lẩm bẩm: "Đứa cháu gái nhỏ của ta lúc trước cũng bị ta chọc cho khóc, chọc cho cười, đáng yêu hệt như ngươi vậy!" Nói rồi lão lại khóc toáng lên. "Đã hơn mười năm nay ta không được gặp Tiểu Dung Dung của ta rồi...".

Dương Sương Nhi thấy Vật Do Tâm thổ lộ chân tình như vậy liền nhớ đến ông nội đã qua đời của mình, không kìm được lòng thương cảm, nước mắt như những hạt ngọc trai đứt dây rào rào rơi xuống, miệng nghẹn ngào lẩm bẩm: "Ông nội đừng khóc nữa, ông hãy coi con là Tiểu Dung Dung của ông là được rồi..."

Nhất thời, hai người một già một trẻ khóc lóc thảm thương khiến Đỗ Tứ và Hứa Mạc Dương đều không kìm được hơi cau mày lại.

Một hồi lâu sau, Vật Do Tâm mới ngừng tiếng khóc, nhìn Dương Sương Nhi bằng ánh mắt hiền từ. "Tiểu Dung Dung đừng khóc, ông nội cho cháu một thứ rất hay này!" Nói rồi lão bèn nhét thứ vừa cướp được từ tay Thiên Nạn vào trong tay Dương Sương Nhi.

Đỗ Tứ vốn có ánh mắt vô cùng sắc bén, thêm vào đó đã ngầm chú ý từ sớm nên khi Vật Do Tâm vừa đưa vật hình ống kia cho Dương Sương Nhi thì lập tức nhìn thấy chữ "bát" được khắc trên đó. Trong lòng chấn động, lão buột miệng kêu lên: "Thiên Nữ Tán Hoa!"

Vật Do Tâm vốn trời sinh có tính tò mò, lúc này nước mắt hãy còn chưa khô hẳn nhưng đã vội ngẩng lên hỏi: "Thiên Nữ Tán Hoa là gì?" Lão dường như đã quên mất vừa rồi mình còn đòi giết đối phương diệt khẩu.

Đỗ Tứ cầm lấy ống pháo hoa từ trong tay Dương Sương Nhi, tỉ mỉ vuốt ve từng đường nét hoa văn được khắc trên đó, sau đó nói chậm rãi từng từ một: "Các vị có biết người khó dây đến nhất ở kinh sư là ai không?"

Dương Sương Nhi giành nói trước: "Người khó dây đến nhất ở kinh sư đương nhiên là Hoàng thượng!"

Đỗ Tứ chậm rãi lắc đầu. "Không phải! Hoàng thượng ở sâu trong cung đình, ngày ngày đều bận rộn, có rất nhiều việc dù gây ra động tĩnh lớn nhưng người ngoài cung chưa chắc đã biết."

"Vậy thì có thể là ai?" Lần này, ngay đến Hứa Mạc Dương cũng không kìm được sự tò mò.

"Mọi người có từng nghe qua câu nói: "Một vị tướng quân, nửa gã tổng quản, ba tay chưởng môn, bốn tên công tử, Thiên hoa lóe sáng, Bát phương danh động" chưa?"

Dương Sương Nhi tò mò hỏi: "Một vị tướng quân? Chẳng lẽ là gã Minh Tướng quân đứng dưới một người mà lại trên muôn vạn người trong triều đình kia?"

Vật Do Tâm dường như đã hoàn toàn quên mất những hành động vừa rồi của mình, vội cất tiếng hỏi: "Minh Tướng quân? Có phải là gã Minh Tông Việt có tên đứng hàng đầu trên Anh Hùng chủng của ta đó không?"

Đỗ Tứ khẽ gật đầu. "Không sai, "một vị hàng quân" này chính là nói tới Minh Tướng quân."

Dương Sương Nhi vốn là con nhà võ, tất nhiên cũng biết không ít các danh nhân trong giới võ lâm, liền cất tiếng hỏi tiếp: "Nửa gã tổng quản có phải là Thủy đại tổng quản - Thủy Tri Hàn của phủ tướng quân không?"

Đỗ Tứ thở dài, đáp: "Thủy Tri Hàn tuy là tổng quản của phủ tướng quân, về mặt uy thế tựa như kém hơn một bậc nhưng đối mặt với tâm tư kín kẽ và Hàn Tám chưởng vang danh thiên hạ của hắn, có ai mà không kinh sợ? Có điều, Thủy Tri Hàn rất sợ bản thân công cao lấn chủ, làm giảm mất khí thế của Minh Tướng quân cho nên mới dùng chữ "nửa" đó để tự xưng mình..."

Hứa Mạc Dương cũng có biết một chút về võ lâm Trung Nguyên, bèn nói: "Ba tay chưởng môn chắc hẳn là chưởng môn của ba môn phái lớn Quan Tuy, Thử Ly và Kiêm Hà ở kinh sư."

Đỗ Tứ khẽ gật đầu. "Thần Lưu môn là môn phái lâu đời nhất ở kinh sư, đã có lịch sử hơn một ngàn năm. Thời Đường sơ, trước khi sự biến Huyền Vũ môn nổ ra, ba vị trưởng lão của Thần Lưu môn chia ra ủng hộ ba người con trai của

Lý Uyên khiến cho Thần Lưu môn bị chia rẽ từ đó. Nhưng Thần Lưu môn là môn phái lâu đời, cho dù bị chia ra làm ba nhưng vẫn không người nào dám coi nhẹ."

Vật Do Tâm đã ở nơi xa xôi này quá lâu, không biết gì về những chuyện trên giang hồ, nghe mà gật gù tấm tắc. "Ba tay chưởng môn đó là những nhân vật như thế nào vậy? Có phải cũng được khắc tên trên Anh Hùng chủng không?"

Quản Tuy môn chủ Hồng Tu La là tổng quản bộ Hình, chưởng quản các hình phạt và truy nã trong thiên hạ, quyền thế cực lớn. Thử Ly môn chủ Quản Bình còn có thân phận tôn quý là Thái tử ngự sư. Nhưng người khiến lũ thảo mãng bọn ta khâm phục nhất lại là Kiêm Hà môn chủ Lạc Thanh U..."

Dương Sương Nhi tuy thường ở bên phụ thân, biết được nhiều việc nhưng hiển nhiên cũng không tường tận lắm. "Cái tên Lạc Thanh U này hay thật, có phải là tên của nữ tử không?"

"Đúng thế!" Lạc Thanh U tuy là nữ tử, cũng không có quan hàm nhưng tài văn chương đứng đầu thiên hạ, nghệ danh vang xa, là nhân vật được các nghệ nhân thi khúc sùng bái nhất, vào ngày khoa cử còn thường xuyên được mời tới làm chủ khảo. Chỉ cần là người thi được công danh thì không ai không tôn kính nàng ta."

Vật Do Tâm tỏ ra rất không tán đồng. "Một nữ tử thì có bản lĩnh gì chứ?"

Dương Sương Nhi vừa mới khóc một trận với Vật Do Tâm, trong lòng sớm đã coi lão già nghịch ngợm này như người thân của mình, bèn lập tức giận dỗi, làm nũng. "Ai nói là nữ tử thì không có bản lĩnh?"

Vật Do Tâm cười hô hô. "Tiểu Dung Dung của ta đương nhiên không giống những nữ tử khác rồi!" Lúc này lão cũng đã coi Dương Sương Nhi là đứa cháu gái đã lâu không gặp của mình.

Hứa Mạc Dương nghe thấy những lời này của hai người một già một trẻ, khẽ mỉm cười rồi lại vội vàng hỏi Đỗ Tứ: "Bốn tên công tử ta chỉ biết được hai người. Một chắc là Ngụy công tử vẫn luôn đối đầu với Minh Tướng quân, còn người kia có phải là Giản công tử được xưng tụng là giang hồ đệ nhất mỹ nam tử?"

Đỗ Tứ mỉm cười, nói: "Ngụy công tử xuất thân thảo mãng nhưng gần như đã một mình bình định mối loạn Bắc Thành Vương, cho nên mới được ngự phong làm Thái Bình công tử 2. Chỉ dựa vào việc y dám đối đầu với Minh Tướng quân, trong thiên hạ có mấy ai so được? Còn Giản công tử, thì có xuất thân danh môn, từ nhỏ đã thuộc làu cả vạn cuốn sách, là người hết sức nho nhã, lịch sự, lại có tướng mạo như cây ngọc đón gió, thanh nhã tột cùng. Nghe nói không chỉ nữ tử

ở kinh sư, ngay đến Lạc Hoa cung chủ Triệu Tinh Sương đại danh đỉnh đỉnh trên giang hồ cũng rất xem trọng y, ai dám trêu chọc?"

Vật Do Tâm nhìn Dương Sương Nhi, cười vang. "Để hôm nào ta đi bắt gã Giản công tử đó về đây làm phu quân cho Tiểu Dung Dung nhà ta..."

Dương Sương Nhi cả thẹn, trừng mắt nhìn Vật Do Tâm. Mấy người bên cạnh cười vang một hồi, bất giác đã gần gũi nhau hơn.

Hứa Mạc Dương vẫn nhớ đến lời của Đỗ Tứ, hỏi tiếp: "Không biết hai vị công tử còn lại là người như thế nào?"

Đỗ Tứ khẽ cất tiếng ngâm: "Loạn vân đê bạc mộ, vi vũ tẩy thanh thu 3. Người thứ ba chính là Loạn Vân công tử của Thanh Thu viện ở Lưu Ngọc hồ, nơi được xưng tụng là võ lâm đệ nhất viện. Không ai biết võ công của y nông sâu ra sao nhưng chỉ dựa vào việc đương kim Thái tử kết bạn bằng vai với y thì Minh Tướng quân đã phải thua y ba phần uy thế, cho nên tất nhiên không ai là không sợ."

Vật Do Tâm cười lạnh, nói giọng giễu cợt: "Võ lâm đệ nhất viện?"

Đỗ Tứ biết Vật Do Tâm tuy tuổi đã cao nhưng tính tình thì lại hiếu thắng chẳng khác gì một đứa trẻ, bèn khẽ mỉm cười, giải thích: "Thực ra đó cũng là vì nhân sĩ trên giang hồ muốn thể hiện sự tôn kính với viện chủ đời trước của Thanh Thu viện là Vũ hóa thanh thu Quách Vũ Dương mà thôi. Nhớ năm xưa, Quách Vũ Dương và chưởng môn phái Hoa Sơn Vô Ngữ đại sư đã từng không sợ đắc tội với Thừa tướng Lưu Viễn đang có quyền thế lớn nhất trong triều, xin Hoàng thượng thu lại mệnh lệnh thải nạp ba ngàn dân nữ vùng Giang Chiết.

Hoàng thượng nổi cơn lôi đình suýt hạ lệnh tịch biên tài sản và chém sạch người của Thanh Thu viện..."

Vật Do Tâm mắng lớn: "Lão Hoàng đế này thật chẳng phải thứ tốt đẹp gì!"

Hứa Mạc Dương cũng sinh lòng đồng cảm, vỗ tay khen hay.

Đỗ Tứ lại nói tiếp: "Có điều vị công tử thứ tư thì đúng là đã thành danh bằng võ công, đó chính là Lăng Tiêu công tử Hà Kỳ Cuồng, tự xưng Nhất lãm chúng sơn tiểu 4. Người này thường ngày độc lai độc vãng, tính khí cực kỳ ngông cuồng. Ban đầu có không ít người thấy khó chịu với sự kiêu ngạo của y nhưng từ sau khi y đánh bại "Lôi lệ phong hành" Lịch Phong Hành ở đất Giang Tây chỉ trong vòng năm mươi chiêu thì không còn ai dám coi thường y nữa. Tuy danh tiếng của y không được tốt nhưng quả đúng là có chân tài thực học."

Vật Do Tâm chấn động. "Hà Kỳ Cuồng xếp hàng thứ tư trên Anh Hùng chủng, chỉ đứng sau Minh Tướng quân, Trùng đại sư và Tuyết Phân Phi, hẳn cũng là một nhân vật."

Vị Trùng đại sư đó được xưng tụng là bạch đạo đệ nhất sát thủ thường khắc tên quan tham lên Ngũ Vị nhai rồi giết chết trong kỳ hạn một tháng 5, chưa tìm sai lệch 6. Còn Tuyết Phân Phi là một trong sáu đại cao thủ tuyệt đỉnh của tà phái. Sáu người này lần lượt là Minh Tướng quân, Thủy Tri Hàn, Lịch Khinh Sinh của thành Uổng Tử tại Quỷ Đô đất Giang Tây, bảo chủ Long phán quan của Cầm Thiên bảo đất Xuyên Đông, Nam phong Phong Niệm Trung và Bắc tuyết Tuyết Phân Phi. Tuy là sáu đại cao thủ của tà phái nhưng những người này mỗi người đều có tính cách riêng, cũng khó có thể nói tất cả đều là tà ma ngoại đạo. Minh Tướng quân xưa nay luôn được coi là thiên hạ đệ nhất cao thủ, còn Tuyệt Phân Phi sở dĩ nổi tiếng là vì y đã từng thắng Long phán quan nửa chiêu sau khi hai bên giao đấu hơn ngàn chiêu. Đây cũng là lần quyết đấu duy nhất giữa sáu đại cao thủ này.

Phải biết rằng, khi cao thủ đạt tới một trình độ nhất định mà muốn tiến bộ thêm thì cực kỳ khó khăn, mà đối thủ cùng cấp qua chiêu với nhau chính là cách tốt nhất để giúp hai bên cùng tiến bộ. Tuyết Phân Phi có thể đánh bại Long phán quan, chắc chắn sẽ mang tới cho bản thân những kinh nghiệm võ học vô cùng quý báu. Cho nên, tây Bắc tuyết Tuyết Phân Phi ở tận núi Trường Bạch xa xôi, giá lạnh nhưng thanh thế trên giang hồ vẫn không giảm đi chút nào.

Ấy thế mà vị Lăng Tiêu công tử Hà Kỳ Cuồng tự xưng Nhất lãm chúng sơn tiểu kia lại chỉ xếp dưới ba người. Tuy đây là lời từ một phía của Vật Do Tâm nhưng nghe giọng lão thì có lẽ sự sắp xếp thứ bậc của người trong giang hồ đó là do các vị trưởng lão trong môn phái của lão quyết định. Cứ nhìn võ công của Vật Do Tâm mà xét, cho dù đó chỉ là lời nói tùy tiện, thiếu suy nghĩ nhưng cũng có ai dám coi thường?

Dương Sương Nhi lẩm bẩm: "Hà Kỳ Cuồng? Cái tên này ngông cuồng thật!"

Đỗ Tứ nghiêm nghị nói: "Có điều giang hồ rộng lớn, người tài nhiều vô kể, như trong Anh Hùng chủng, Vật huynh chắc chắn không xếp những nhân vật thuộc môn phái của mình vào rồi! Nếu không, Hà Kỳ Cuồng 7 phải xếp thứ bao nhiêu cũng là điều chưa biết trước được."

Vật Do Tâm cười hô hô, đột nhiên cảm thấy những năm nay mình sang độc lai độc vãng ở vùng hoang sơn dã lĩnh này tuy mừng giận đều do tâm, có thể tươi cười hỉ hả nhưng thực sự cũng có chút cô độc. Hôm nay gặp được mấy người này, không ngờ lại hợp với tính khí mình như thế, thực là không dễ chút nào, lão bèn vỗ nhẹ lên vai Đỗ Tứ lại chớp chớp mắt với Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi, làm bộ ngây ngô, khờ khạo. Nhìn dáng vẻ này của lão, cả ba người đều không kìm được cất tiếng cười vang.

Hứa Mạc Dương lại hỏi Đỗ Tứ: "Vậy câu "Thiên hoa lóe sáng, Bát phương danh động" kia thì sao? Có phải là để hình dung danh tiếng của mấy người vừa rồi vang khắp tám phương không?"

Đỗ Tứ nghiêm túc nói: "Bát phương danh động không phải một sự hình dung, mà là chỉ người!"

Dương Sương Nhi lúc này vẫn còn đang lẩm bẩm cái tên Hà Kỳ Cuồng, nghe thấy vậy thì vô thức cất tiếng: "Ồ, người này lợi hại thật, là ai vậy?"

Đỗ Tứ nói: "Không phải một người. Là tám người."

Hứa Mạc Dương không khỏi cả kinh, bật thốt: "Tám người? Sao đến một người mà tại hạ cũng chưa từng nghe nói thế?"

Đỗ Tứ mỉm cười, nói: "Tám người này đều là những nhân vật làm việc cho Hoàng đế, người bình thường làm sao biết được. Nhưng trong số bọn họ, có một người cũng từng gây ra một hồi sóng gió trên giang hồ."

Vật Do Tâm nghe mà há hốc miệng, ngẩn ngơ hỏi: "Ồ, ngươi nói tới ai vậy?"

Đỗ Tứ đưa mắt nhìn Dương Sương Nhi, trên khuôn mặt thoáng hiện một nét cười kỳ lạ, sau đó chậm rãi nói: "Ám khí vương."

Vật Do Tâm vỗ đùi đánh đét một cái. "Có phải ngươi đang nói tới Lâm Thanh, kẻ mà tám năm trước đã một mình đánh bại mười bảy cao thủ ám khí ở Ninh Chỉ cung nơi hồ Động Đình, sau được người trong giang hồ tôn xưng là ám khí vương không?"

Dương Sương Nha cười hì hì, giơ ngón tay cái với Vật Do Tâm.

"Ngoài y ra còn có thể là ai nữa?" Đỗ Tứ gật đầu, mỉm cười: "Lâm Thanh khi đó tuổi mới đôi mươi nhưng chỉ sau một trận chiến đã thành danh, được người trên giang hồ gọi là ám khí chi vương!"

Hứa Mạc Dương thấy Đỗ Tứ và Dương Sương Nhi cười một cách kỳ quái nhưng cũng không để ý quá nhiều. "Bảy người còn lại là những nhân vật danh vang giang hồ nào vậy?"

Để tiện làm việc cho Hoàng thượng, Bát phương danh động thường ngày đều không thể hiện bản lĩnh của mình. "Lương Thần Mỹ Cảnh, Thanh Phong Minh Nguyệt, Lâm Thanh Thủy Tú, Hắc Sơn Bạch Thạch", ấy chính là Bát phương danh động. Ngay đến người duy nhất nổi danh bên ngoài là Lâm Thanh cũng chỉ xếp hàng thứ năm trong Bát phương danh động mà thôi, Hứa tiểu huynh nói xem bọn họ có dễ dây đến không?"

Dương Sương Nhi lè lưỡi, nói: "Sao ở kinh sư lại có nhiều cao thủ như thế chứ?".

Đỗ Tứ nói: "Người trên giang hồ đánh đánh giết giết, đến chết mới thôi. Chỉ cần là người có hoài bão, đa phần đều sẽ tới kinh sư hòng mong tìm được công danh, do đó ở kinh sư tất nhiên có rất nhiều người tài."

Dương Sương Nhi suy nghĩ một chút rồi lại hỏi: "Nhưng đám người này chắc hắn đều là những nhân vật kiêu ngạo không dễ chịu phục ai, Hoàng thượng ở sâu trong thâm cung thì làm sao mà điều động được bọn họ đây?"

"Cháu nói có lý lắm!" Đỗ Tứ ném về phía Dương Sương Nhi ánh mắt khen ngợi, đoạn cười, nói tiếp: "Cho nên mới có câu "Thiên hoa lóe sáng"."

Dương Sương Nhi ngạc nhiên thốt lên: "Đó là cái gì vậy?"

Đỗ Tứ nói: "Đó là một cây pháo hoa do Lưu Tinh đường ở kinh sư đặc biệt chế tạo, tên là Thiên Nữ Tán Hoa. Chỉ cần bắn nó lên trời, trong màn pháo hoa rực rỡ, tám người này sẽ tới đầy đủ."

Dương Sương Nhi cười, nói: "Ha ha, nếu cháu có được một cây Thiên Nữ Tán Hoa như vậy thì tốt rồi, ngay đến người của Hoàng thượng cũng có thể điều động."

Đỗ Tứ khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn bàn tay Dương Sương Nhi, nói chậm rãi từng từ: "Cháu đã có rồi đấy!"

Thì ra cây pháo hoa mà Vật Do Tâm cướp được từ tay Thiên Nạn kia chính là Thiên Nữ Tán Hoa có thể hiệu lệnh cho Bát phương danh động!

Cũng phải trách Thiên Nạn xui xẻo. Hắn vâng lệnh Minh Tướng quân đến U Minh cốc tiếp ứng nhưng lại gặp phải Vật Do Tâm. Vật Do Tâm vốn có tâm tính trẻ con, nhất định đòi xem hắn đang cầm thứ gì trong tay. Thiên Nạn đời nào lại chịu, nhưng võ công của Vật Do Tâm thực quá cao, từ đầu chí cuối không cho hắn cơ hội để đốt pháo hoa, sau đó còn cướp luôn cây pháo hoa nữa.

Tới lúc này mọi người mới biết vì sao Đỗ Tứ lại nói ra những lời kinh thiên động địa vừa rồi, không kìm được đều nhìn về phía cây pháo hoa hết sức tinh xảo trong tay Dương Sương Nhi.

Thần sắc Đỗ Tứ ngưng lại, nói: "Thiên Nữ Tán Hoa tổng cộng có hai mươi tư cây nhưng chẳng rõ tại sao lại có một cây xuất hiện ở nơi này!"

Vật Do Tâm đột nhiên nhớ đến một chuyện, bèn hỏi Đỗ Tứ: "Ngươi hãy nói xem, trong Bát phương danh động này còn có những người nào? Mấy hôm trước, ta quả thực đã gặp hai người rất kỳ quái."

Mọi người thầm nghĩ, có lẽ Vật Do Tâm gặp bất cứ người nào cũng sẽ cảm thấy kỳ quái, có điều không ai dám nói ra.

Đỗ Tứ nói: "Tám người này, ngoài võ công thâm hậu, mỗi người còn có tuyệt kỹ thành danh của riêng mình. Chẳng hạn như Truy bổ vương Lương Thần tinh thông thuật truy tung, Bát mặc vương Mỹ Cảnh thì có tài vẽ tranh cao tuyệt. Đăng bình vương Cố Thanh Phong đúng như cái tên, là cao thủ tuyệt đỉnh về khinh công, Diệu thủ vương Quan Minh Nguyệt thì là một tay thần thâu hàng đầu thiên hạ. Ám khí vương Lâm Thanh tất nhiên không cần phải nói, còn Cầm sắt vương Thủy Tú tuy là nữ tử duy nhất trong Bát phương danh động nhưng tài gảy đàn thực sự vang khắp đất kinh sư..."

Vật Do Tâm tỏ ra hết sức căng thẳng. "Vậy có người nào tinh thông thuật cơ quan thổ mộc không?".

Đỗ Tứ đưa mắt nhìn Vật Do Tâm với vẻ vô cùng ngạc nhiên. "Chắc Vật huynh đang nói tới Cơ quan vương Bạch Thạch rồi. Người này tinh thông tất cả các loại cơ quan trong thiên hạ. Ở trước mặt y, những thứ mật đạo hay khóa móc gì đó đều là vô dụng. Hắn và Lao ngục vương Hắc Sơn tinh thông thuật thẩm vấn xưa nay luôn như bóng với hình, nếu Vật huynh chỉ nhìn thấy một người thì ắt hẳn không phải là hắn!"

Vật Do Tâm kêu lớn một tiếng: "Hỏng rồi! Hỏng rồi! Lần này thì những thứ bảo bối trong mộ của ta há chẳng phải đã mất hết rồi sao?" Nói rồi lão lập tức chạy như bay về phía tấm bia mộ có khắc ba chữ "Anh Hùng chủng" kia.

Ba người đều không biết đã xảy ra chuyện gì, bèn vội vã chạy theo Vật Do Tâm về hướng đó. Nhưng vừa chạy được mấy bước, họ đã nghe thấy trong mộ vang lên những tiếng lách cách, dường như có thứ gì đó đang chuẩn bị phá mộ lao ra ngoài.

Dương Sương Nhi kinh hãi kêu lên một tiếng. Ngay đến Hứa Mạc Dương cũng cảm thấy kinh sợ.

Vật Do Tâm chợt dừng chân, sau nháy mắt, lão già vốn không cao lớn này bất ngờ trở nên oai vệ tột cùng. Mái tóc dài màu trắng của lão bay lất phất trong làn gió sớm, tựa như giữa không trung đột nhiên xuất hiện một dải lụa màu trắng vậy...

Nhìn thấy cửa ngôi mộ từ từ mở ra trong tiếng lách cách của những khối đá, lại nhìn mái tóc dài đang bay lất phất của Vật Do Tâm, trong đầu Dương Sương Nhi đột nhiên nhớ đến một câu thơ đã thuộc làu từ nhỏ, không kìm được khẽ lẩm bẩm: "Bạch phát tam thiên trượng!"

Bạch phát tam thiên trượng, duyên sầu từ cá trường 8. Đây chính là hai câu thơ nổi tiếng lưu truyền thiên cổ của Thi tiên Lý Bạch.

Trong khoảnh khắc Dương Sương Nhi đọc câu thơ đó, Hứa Mạc Dương bỗng trở nên ngơ ngẩn, đột nhiên nảy sinh một nỗi xúc động khó có thể kiềm

chế được. Vì di mệnh của Xảo Chuyết đại sư, họ cùng nhau đi tới Tiếu Vọng sơn trang, thực không biết trên đường còn phải trải qua bao nhiêu gian khổ? Mà đường dài bao xa? Nỗi buồn sẽ dài đến nhường nào?


Đấu Thần Tuyệt Thế

Hồi (1-11)


<