Vay nóng Tima

Truyện:Sáp huyết - Hồi 058

Sáp huyết
Trọn bộ 119 hồi
Hồi 058: Điệt Mã
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-119)

Siêu sale Lazada

Cát Đô đầu cười ha hả nói:

-Phục vụ các ngươi thật khó quá, ta không kể nữa. Các ngươi không muốn nghe, nghe rồi vẫn không thể kể lại. Không kể lại được còn chê ta kể đi kể lại. Địch chỉ huy tuy nói lại trở về Tắc Hạ, nhưng lúc này không còn chiến tranh nữa. Chẳng lẽ ta phải tự bịa ra chuyện kể cho các ngươi nghe sao?

Có người nói:

-Sao lại không có? Tối qua ngoài đầu thành, tiếng trống còn vang hơn cả tiếng sấm. Lúc trời sáng thì thấy ngoài thành có thi thể của một người Khương, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì? Ngươi thân là quân nhân viên quan trọng, nói qua qua một chút cho mọi người nghe đi.

Cát Đô đầu được người khác thổi phồng, sung sướng lấy tay vuốt vuốt mấy sợi râu, cười nói:

-Ta đoán thế nào các ngươi cũng sẽ hỏi chuyện này, được rồi, ta sẽ kể cho các ngươi nghe. Thực ra, thành này của chúng ta đã xây xong rồi, người vui không ít, người giận cũng không ít. Tộc Mễ Cầm liền chen chúc phá phách không vào nữa, lúc này mới dấy binh xâm phạm, không ngờ Địch chỉ huy đã tính toán được, biết chúng đêm qua sẽ đến nên đã sớm mai phục ở ngoài thành, chỉ cần một đao đã chém chết thủ lĩnh tộc Mễ Cầm là Mễ Cầm Đại Lãng.

Mọi người đều kêu lên:

-Địch chỉ huy đó không phải là rất giống thần tiên sao?

Cát Đô đầu cũng không đỏ mặt, đĩnh đạc nói:

-Ai nói là không phải chứ? Đám người đó thấy Địch chỉ huy đánh đến thì đều không dám tiếp chiến, bỏ lại hàng trăm thi thể mà chạy thoát thân. Thành Thanh Giản có Chủng lão trượng mới xây lên được, nhưng nếu như không có Địch chỉ huy thì e là sớm đã mất rồi.

Có người không hiểu hỏi lại:

-Tộc Mễ Cầm muốn vào thành thì cho họ vào đi.

Cát đô dầu đáp:

-Ngươi thì hiểu gì? Họ không trả tiền, Chủng lão trượng sao dám cho họ vào?

Mọi người cùng cười vang, từ xa một người bước tới nói:

-Cát Chấn Viễn, ngươi lại đang nói xấu ta.

Người đó tháo đôi giầy cỏ, giẫm giẫm chân bước tới, trán tỏa sáng, mặt xanh xao, đó chính là Chủng Thế Hành.

Cát Đô đầu đương nhiên chính là Cát Chấn Viễn. Thành Thanh Giản mới xây, Chủng Thế Hành chịu trách nhiệm chuyện của thành trì, Địch Thanh phụ trách canh phòng, còn đám người Cát Chấn Viễn, Liêu Phong, Tư Mã đều được điều từ Tân trại tới thành Thanh Giản.

Chủng Thế Hành thấy mọi người đang tạm nghỉ, bất mãn quát lên:

-Các ngươi sao lại đều dừng hết cả thế này? Làm việc nhanh lên. Ta nói cho các ngươi biết, có thể vào được thành này, thứ nhất là phải làm việc, thứ hai là phải nộp tiền. Người vừa không có tiền, vừa không chịu làm việc, nếu còn để ta nhìn thấy lần nữa, thì xéo hết cho ta. Nơi đây không nuôi đám người rãnh rỗi đó.

Cát Chấn Viễn nghe dọa thế vội nó:

-Tất cả đi làm việc đi, đi làm đi.

Mọi người lập tức giải tán, Cát Chấn Viễn cũng xắn tay áo định bước đi, Chủng Thế Hành kéo y lại hỏi:

-Địch Thanh đang ở đâu?

Cát Chấn Viễn đáp:

-Anh ta đang ở đình Chiết Liễu, cách phía bắc thành năm dặm

Chủng Thế Hành lẩm bẩm nói:

-Hắn chạy tới nới xa vậy làm gì nhỉ?

-Anh ta cách xa vậy, có thể là sợ lão đòi tiền.

Cát Chấn Viễn bỏ lại câu nói, rồi nhanh như chớp chạy biến đi mất.

Chủng Thế Hành lắc lắc đầu, với đôi giấy cỏ đi vào rồi đi về hướng bắc thành. Lúc chạy tới đình Chiết Liễu thì thở hổn hển. Địch Thanh đang ngồi trong đình, nhìn xa xăm về phía Tây bắc, nghe thấy có tiếng bước chân tới liền nhìn về phía Chủng Thế Hành, như đang chờ đợi điều gì, nói:

-Chủng lão đầu, có chuyện gì vậy?

Địch Thanh lại đến phía bắc biên ải.

Sau khi Địch Thanh rời Biện Kinh liền đi Diên Châu trước để báo tin. Phạm Ung thấy vô cùng đau đầu, thầm nghĩ tên tiểu tử này chắc mắc bệnh, những người khác đều phải hao tâm khổ tứ để được vào thành, còn tên tiểu từ này lại vội vàng chạy tới vùng Diên Biên, không biết triều đình có ý gì. Phạm Ung chỉ đơn giản báo cho Triều đình, đem quân hàm của Địch Thanh từ Vân kỵ úy nói thành Võ kỵ úy. Việc nâng cao này chỉ có tác dụng tăng bổng lộc, không tăng binh quyền. Sau khi triều đình phê chuẩn, Địch Thanh vẫn chỉ là thân phận Chỉ huy sứ Diên Biên, phối hợp cùng Chủng Thế Hành trấn thủ thành Thanh Giản.

Địch Thanh tạm thời được nhàn rỗi, dành toàn lực đi điều tra tung tích của Diệp Hỉ Tôn. Nhưng người này như chim nhạn bay mịt mù, không còn xuất hiện nữa.

Chủng Thế Hành lau mồ hôi trên trán, thở dài nói:

-Không có chuyện gì thì không được tìm ngươi sao?

Địch Thanh cười cười:

-Ta chỉ e làm lỡ mất chuyện kiếm tiền của lão thôi. Đúng rồi, tối qua giết Mễ Cầm Đại Lãng, ngựa và các trang bị binh khí đều thu dọn lại rồi chứ?

Chủng Thế Hành đáp:

-Ngươi vẫn còn lo ta bỏ sót cái gì sao?

Địch Thanh lại cười, trong lòng thì thở dài. Thì ra sau khi Địch Thanh trấn thủ thành Thanh Giản, có người Khương tìm tới nhờ cậy, cũng có người Khương tới quấy rối. Những ngày qua Địch Thanh không nương tay chút nào, có người tới quấy rối là giết không tha. Sau mỗi trận chiến, Địch Thanh chỉ lo giết chứ kông phải lo việc chôn cất, giao việc thu dọn chiến lợi phẩm cho Chủng Thế Hành. Với Chủng Thế Hành xưa nay người chết đều phải lột da, làm những công việc này, tất nhiên là không còn gì tốt hơn.

Chủng Thế Hành liếc xéo Địch Thanh, bất chợt nói:

-Địch Thanh, ngươi có cảm giác có điều gì kỳ lạ không?

Địch Thanh nhíu mày, hỏi lại:

-Kỳ lạ ở chỗ nào?

Chủng Thế Hành đáp:

-Chúng ta xây dựng thành Thanh Giản này, người Đảng Hạng chắc chắn coi đây là cái đinh trong mắt chúng nên đến rây rối thì chẳng có gì là lạ. Nhưng chúng đều biết ngươi đang ở đây, thời gian này, người đến gây rối càng ngày càng ít. Nhưng tối qua, Tộc Mễ Cầm đến đều là những kẻ dũng mãnh, ít nhất cũng phải cả ngàn người.

-Điều này không phải là rất tốt sao? Đến nhiều thì giết nhiều, lão kiếm được cũng nhiều.

Địch Thanh thản nhiên nói tiếp:

-Ta không chủ động giết người, nhưng họ tự giao thân đến cửa cho ta giết, ta cũng không thể từ chối.

Chủng Thế Hành thở một hơi dài, nói:

-Tiểu tử ngươi gần đây chỉ nghĩ về Hương Ba Lạp, Diệp Hỉ Tôn gì gì đó. Ta đã nói rồi những chuyện này ta chỉ là tới hỏi thăm. Một mình ngươi dù có lợi hại, vẫn có thể linh nghiệm hơn so với tin tức của lão già ta sao? Tiểu tử ngươi có thiên chất trong lĩnh vực lãnh đạo quân sĩ, về phương diện đối địch thì dũng mãnh, không nên chà đạp lên tài năng như vậy.

*****

Địch Thanh không nhịn nổi cười đáp:

-Vì vậy, nếu sau này lão có điều gì thì cứ trực tiếp nói với ta, ta chẳng thích lão cứ vòng vo mãi. Có phải lão muốn nói, người Đảng hạng gần đây gia tăng lực lượng tấn công thành Thanh Giản, là có ý muốn chiếm lại Tây Bắc?

Chủng Thế Hành lầm bầm nói:

-Ngươi cuối cùng cũng hiểu được câu nói của ta. Ta chính là lo sợ điều này. Địch Thanh, ngươi còn nhớ không, hồi đầu mùa Xuân, sứ giả của người Đảng Hạng từng đi cầu hòa Phạm Tri châu. Sau này, Tây Bắc yên ổn hơn rất nhiều, nhưng rất nhiều gia đình người Khương dồn dập tới muốn quy hàng. Phạm Tri châu bẩm báo triều đình, nhưng triều đình lệnh cho Phạm tri châu tự xử lý, kết quả là Phạm tri châu đã cho rất nhiều người Khương tới an cư ở phân trại ba mươi sáu của trại Kim Minh.

Địch Thanh gật đầu nói;

-Tất nhiên là ta còn nhớ. Phạm tri châu còn muốn cử một vài người tới thành Thanh Giản nữa, chẳng qua chúng ta khước từ nói là thành chưa xây xong, một mực không đồng ý.

Trong thần sắc hắn cũng có chút ưu tư, nói tiếp:

-Chủng lão đầu, lão sợ những người này có vấn đề sao?

Chủng Thế Hành lo lắng đáp:

-Đám người này có vấn đề hay không ta không rõ, nhưng mấy ngày nay ta luôn cảm thấy vô cùng lo sợ. Rất nhiều người Khương tràn vào trại Kim Minh, ngẫm kỹ lại thì thấy đều có vấn đề. Phạm tri châu một mực cho rằng người Khương không đủ làm ông ta lo lắng, nên không cho là đúng. Triều đình vì trấn an người Khương nên đã mở lại chợ Dác. Nhưng lúc này người Đảng Hạng liên tiếp tấn công thử thành Thanh Giản, chỉ e thật sự là sẽ lại tấn công Tây Bắc.

Địch Thanh cũng có chút cau mày, thầm nghĩ ta và ngươi hiểu rõ những điều này thì có tác dụng gì chứ? Có thể canh giữ thành Thanh Giản thì đã là ân huệ của Phạm Ưng rồi. Bất đắc dĩ hắn nói:

-Nhưng ta và lão kết hợp dâng tấu cho Phạm tri châu, nhắc ông ta chú ý, mặc dù ông ta không nói gì, nhưng chỉ e là chê chúng ta bắt chó đi cày, xen vào việc của người khác thôi.

Chủng Thế Hành trầm ngâm một hồi, hỏi lại:

-Dâng tấu cho Phạm tri châu xem ra không có tác dụng rồi, ông ta xưa nay không nghe kiến nghị của chúng ta. Địch Thanh, thời gian trước ta kêu ngươi lập tức dâng tấu lên Thiên Tử, có hồi âm gì chưa?

Địch Thanh lắc lắc đầu, cười khổ đáp:

-Lão quá xem trọng năng lực của ta rồi. Tấu chương ta đã gửi đi rồi, nhưng Lương phủ đều không có hồi âm. Việc dâng tấu vượt cấp này vốn là điều tối kỵ trong quan trường. Nếu như bị Phạm Ung biết được, ta lão chắc sẽ không ổn...Ta chỉ e...tấu chương đã bị Lưỡng phủ áp chế rồi.

Chủng Thế Hành xoa xoa tay, đi đi lại lại trong đình, đột nhiên dừng bước, vẻ mặt có chút thận trọng, hỏi lại:

-Địch Thanh, lão mạo muội hỏi một câu, quan hệ giữa ngươi và Thiên tử rốt cuộc thế nào rồi?

Địch Thanh nhớ lại tình hình ở Biện Kinh, hồi lâu sau mới nói:

-Điều này sao? Gần vua như gần cọp, lão chắc cũng biết, Người có lẽ có thể nghe lời ta, nhưng con người luôn luôn thay đổi, phải không?

Lần trước trở về Biện Kinh, Địch Thanh và Triệu Trinh tuy có xung đột, nhưng cuối cùng đã bắt tay làm hòa. Nhưng trong lòng Địch Thanh sớm biết rằng, Triệu Trinh sẽ mãi không còn là "Thánh công tử" nữa.

Một người ngồi ở chỗ cao hơn, tất nhiên nhìn khía cạnh vấn đề sẽ không giống nhau.

Chủng Thế Hành lộ vẻ chấp nhận, hối tiếc nói:

-Ta vốn muốn để ngươi tự hồi kinh, trực tiếp nói với thánh thượng về sự nghiêm trọng nơi đây. Ôi, xem ra con đường này không thể thực hiện được rồi.

Chủng Thế Hành nhìn như khôn khéo, kỳ thực có thể nói là đa mưu túc trí, càng vì thăng trầm chốn quan trường nên biết được lợi hại trong đó. Trong lòng ông ta thầm nghĩ: "Những ngày qua, trong Kinh thay đổi rất lớn, nghe nói Thiên tử không vội cho Tây Bắc chuẩn bị chiến tranh, mà trái lại bởi vì Quách Hoàng hậu điêu ngoa nên vẫn bận rộn với việc phế hậu. Lã Di Giản bị giáng chức xuất kinh không lâu thì lại được dùng lại, đưa vào Lưỡng phủ. Lúc trước đều nói Quách Hoàng Hậu và Lã Di Giản không hợp, Thiên tử muốn phế hậu, Lã tướng toàn lực ủng hộ. Còn đám người Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu...mới được trọng dụng thì vì phản đối Thiên tử phế hậu, và lại bị giáng chức bắt xuất kinh. Việc này xem ra thì bình thường, nhưng từ việc này có thể thấy tính cách của Thiên Tử rất là lật lọng. Lão già ta vốn hy vọng Địch Thanh có thể nói trước mặt Thiên Tử về tình hình cấp bách của Diện Biên. Nhưng Thiên tử lật lọng, đường xá lại xa xôi, Địch Thanh xem ra cũng không còn hữu dụng. Nhưng nếu không trông cậy vào Địch Thanh, đại chiến ở Tây bắc ít ngày nữa sẽ nổ ra, Phạm Ung vô dụng, cả ngày an nhàn hưởng lạc. Với tình hình trước mắt, bách tính lại sắp phải chịu khổ cực rồi."

Những lời này, Chủng Thế Hành không tiện nói với Địch Thanh. Đang lúc trầm ngâm thì nghe Địch Thanh hỏi:

-Chủng lão đầu, lão nói sẽ giúp ta tìm tin tức của Hương Ba Lạp và Diệp Hỉ Tôn, vậy đã có manh mối gì chưa?

Chủng Thế Hành lắc lắc đầu, lập tức nghĩ tới điều gì:

- Không tìm thấy Diệp Hỉ Tôn, nhưng tìm được lai lịch của người họ Tào kia rồi.

Tinh thần địch Thanh chấn động, lúc trước Bát Vương Gia không chịu nói ra lai lịch của người họ Tào kia. Địch Thanh vốn cho rằng người này rất thần bí, không ngờ Chủng Thế Hành rất biết mấy cách này, không ngờ có thể tìm được lai lịch của người này.

Nếu quả thật biết được lai lịch của người họ Tào kia, không chừng có thể giúp được cho việc tìm ra Hương Ba Lạp. Trong lòng Địch Thanh thầm nghĩ: "Chủng Thế Hành cho dù là một tay lừa đảo, nhưng là tay lừa đảo có năng lực."

-Nguờ họ Tào kia tên gọi là Tào Hiền Anh. Y vốn là thế hệ sau của Tào Thị trong Quy Nghĩa quân.

Chủng Thế Hành đáp.

-Quy nghĩa quân? Đó là quân gì?

Địch Thanh không hiểu hỏi lại.

Chủng Thế Hành sờ sờ đầu, thở dài nói:

-Ngươi không cần cả ngày chỉ nghĩ đến việc giết người, không có việc gì thì đọc sách, đọc nhiều sách lịch sử thì sẽ biết Quy Nghĩa quân là người gì.

Địch Thanh thầm nghĩ: "Ta cũng đọc sách, nhưng chỉ thích đọc một cuốn "Kinh thi"."

Trong lòng có chút chua xót, nhưng Địch Thanh vẫn cười được, nói:

-Biết lão có học vấn, nếu không làm sao ta dám mời lão tới làm việc chứ.

Chủng Thế Hành có chút đắc ý, lại sờ sờ vầng trán cao, nói sơ lược:

-Khi Đường An Sử loạn, Đường Đế không thể bình định, chỉ có thể triệu binh lực Lũng Hữu, Hà Tây tới viện trợ kinh thành. Kết quả binh lực Lũng Hữu, Hà Tây hư không, bị người Thổ Phiên thừa cơ ào tới, chiếm lĩnh Lũng Hữu. Từ sau đó, phần lớn biên giới Lũng Hữu, Hà tây và Sa Châu, Qua Châu đều rơi vào tay người Thổ Phiên. Nhưng sau đó người Hán Trương Nghị Triều đem người khởi nghĩa, đoạt lại mười một châu của Hà Tây. Đường thiên tử không thể báo đáp được, phong cho Trương Nghị Triều làm Quy Nghĩa Quân, đây cũng chính là nguồn gốc của Quy Nghĩa Quân. Ban đầu Quy Nghĩa Quân vốn họ Trương, nhưng sau đó Quy Nghĩa quân nội chiến, lực lượng suy yếu, lại bị người Thổ Phiên đánh bại. Sau này Quy Nghĩa quân mấy lần lặp lại, do vọng tộc Sa Châu là Tào Nhân Quý chấn hưng cờ trống, lại đánh bại Thổ Phiên, do đó mà Quy Nghĩa Quân trên thực tế cũng đã đổi thành họ Tào.

Địch Thanh thầm nghĩ:

-Việc xuất thân này cũng không có gì là ngạc nhiên, vì sao mà Bát Vương Gia lại giữ kín không nói?

Chủng Thế Hành lại nói:

-Chẳng qua sau khi Tào Thị nắm quyền, thế lực cũng dần dần suy bại, địa bàn không ngừng bị các nước Thổ Phiên, Hồi Hột, Cao Xương thâu tóm. Tới triều trước, con cháu Tào Thị là Tào Tông Thọ đã thống lĩnh Quy Nghĩa quân. Quy Nghĩa Quân chỉ tử thủ ở hai nơi là Qua Châu, Sa Châu. Do đó người dân bản địa lại gọi Tào Tông Thọ là Qua Châu Vương. Lúc triều này, con trai Tào Tông Thọ là Tào Hiền Thuận thống lĩnh Qua Châu, vẫn xưng thần với triều của ta, nhưng mấy năm trước, Nguyên Hạo đánh bại Cao Xương, Hồi Hột. Tào Hiền Thuận thấy người Đảng Hạng thế lực lớn mạnh, đã dâng châu đầu hàng Nguyên Hạo. Tào Hiền Anh là tộc đệ của Tào Hiền Thuận, đa số các ý kiến bất hòa với Tào Hiền Thuận, lúc này mới chạy tới vùng Diên Biện.

Đich Thanh nghe xong những điều này, thất vọng nói:

-Vậy Tào Hiền Anh vì sao lại có bản đồ của Hương Ba Lạp? Đáng tiếc y đã chết, nếu không...

Bỗng dưng nhớ ra chuyện gì đó, hắn phấn chấn nói:

-Tào Hiền Anh tuy đã chết, nhưng chúng ta có thể tìm Tào Hiền Thuận nghe ngóng tình hình.

Ánh mắt Chủng Thế Hành có vẻ tán thưởng, vỗ vỗ trán nói:

-Tiểu tử ngươi trong tình huống này vẫn đủ thông minh, không uổng công ta nói với ngươi những đều này. Tuy nhiên...ta lại có một cách khác.

Địch Thanh vội hỏi lại:

-Mời lão trượng nói.

Hắn một khi có việc cần thỉnh giáo thì Chủng lão đầu liền trở thành Chủng Lão trượng.

Chủng Thế Hành không giễu cợt, ngược lại ánh mắt lộ vẻ trầm tư, nói:

-Kể từ sau khi ngươi nói về cái nơi tồi tàn Hương Ba Lạp đó, ta cũng đã bắt đầu chú ý nhiều phương diện khác nhau. Ta nhớ ngươi nói Thiệu Ung có một lời tiên đoán, nói rằng Hương Ba lạp ở Tây bắc, do đó ngươi mới cố ý tới Tây Bắc.

Thì ra Địch Thanh biết rõ Chủng Thế Hành có năng lực, để dốc toàn lực tìm Hương Ba Lạp, hắn đã nói với Chủng Thế Hành những lời tiên tri của Thiệu Ung năm đó.

Địch Thanh gật đầu đáp:

-Đúng vậy, theo lời tiên tri, Hương Ba Lạp chắc là ở vùng Tây Bắc.

Đột nhiên ánh hào quang nhấp nháy, Địch Thanh thất thanh kêu lên:

-Địa bàn mà Quy Nghĩa quân từng thống lĩnh cũng ở vùng Tây Bắc này của chúng ta. Ta đã ở Duyên Châu tìm hiểu không được tin tức của Hương ba Lạp, chẳng lẽ...Hương Ba Lạp lại ở trong phạm vi thế lực của Tào gia sao?

Chủng Thế Hành vỗ vỗ đùi, gật đầu nói:

-Điều ngươi nói chính là điều ta đang nghĩ đến. Tào Hiền Anh vì sao có thể có bản đồ Hương Ba Lạp? liệu có phải là do tổ tiên lưu truyền lại? Nếu như đó là do tổ tiên lưu truyền lại, vậy thì dường như có thể khẳng định tấm bản đồ này và mười một châu của Hà Tây là có liên quan tới nhau.

Địch Thanh lần đầu tiên hiểu rõ một chút về phạm vi của Hương Ba Lạp, càng nghĩ càng thấy đáng tin cậy, ý nghĩ xoay như chong chóng, nói;

-Chẳng lẽ...Hương Ba Lạp ở Qua Châu hoặc Sa Châu? Vừa nãy lão cũng nói, Quy Nghĩa Quân tử thủ hai châu này, liệu có phải là vì hai châu này, bản thân nó có gì đó huyền ảo.

Hít một hơi thật sâu, Địch Thanh thấy cảm xúc mênh mang, nghĩ: "Liệu có phải Hương Ba Lạp ở hai châu này?"

Chủng Thế Hành vẫn đang trầm tư, một hồi sau mới nói:

-Có khả năng, ngược lại cũng có thể không phải ở hai châu Qua, Sa. Hai châu đó nếu quả thực có Hương Ba Lạp, Tào Hiền Anh không có năng lực đi tìm, nhưng Tào Hiền Thuận ắt cũng phải biết bí mật này, vậy thì không có lý gì mà bỏ qua không đi tìm cái gọi là tiên cảnh, để đi quy phục Nguyên Hạo được.

Địch Thanh mới có chút manh mối thì lại bị dội cho gáo nước lạnh, dù biết rằng những điều Chủng Thế Hành nói là rất có lý.

-Có thể Hương Ba Lạp ở những châu khác, do đó mà người nhà Tào gia tuy có bản đồ trong tay nhưng vẫn không thể tìm được.

Chủng Thế Hành lại đưa ra phán đoán.

Địch Thanh gật gật đầu, đứng dậy nhìn về phía Tây xa xa mà nói:

-Vậy bây giờ nên làm thế nào?

Thật ra hắn rất muốn lập tức chạy tới Qua Châu để tìm hiểu tin tức.

*****

Chủng Thế Hành đáp:

-Làm thế nào? Ngươi tất nhiên là ở lại trấn thủ thành, không phải là tốt lắm sao? Ngươi yên tâm giữ thành, giúp ta đánh giặc kiếm tiền. Ta sẽ dốc toàn lực giúp ngươi tìm Hương Ba Lạp. Mọi người đều không thiếu nợ nhau, còn có thể giúp nhau phát huy thế mạnh một cách tốt nhất.

Địch Thanh lại ngồi xuống, cố gắng lặng yên.

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh phút chốc có thể trấn tĩnh lại, âm thầm gật đầu, trong lòng nghĩ Địch Thanh thay đổi càng ngày càng nhiều, cũng vững vàng hơn. Hắn nghe thấy tin này mà vẫn có thể trấn tĩnh được, vậy là đã có phong độ của một vị đại tướng.

Một người nếu ngay cả bản thân mình cũng không thể khống chế nổi thì sao có thể khống chế cả ngàn quân?

Mắt đảo đi đảo lại thăm dò, Chủng Thế Hành bỗng nhớ ra một chuyện, nói;

-Đúng rồi, Địch Thanh, chúng ta mấy ngày qua kiếm được không ít tiền. Ta đã nói rồi, có một phần cho ngươi.

Dứt lời ông ta cười với vẻ mệt mỏi.

Địch Thanh biết chỉ có hắn là không nghĩ ra cách, không có Chủng Thế Hành thì sẽ chẳng có đâu ra cửa để kiếm tiền.

Mấy ngày nay Chủng Thế Hành lựa chọn dân chúng vào ở, rút trước tiền thuê nhà để buôn muối mỏ cũng kiếm được không ít. Địch Thanh nghe nói cũng có một phần tiền, lắc lắc đầu nói:

-Lúc trước tuy nói rồi, nhưng ta thật sự không cần, nếu lão đồng ý thì hãy đem số tiền đó của ta dùng vào việc xây thành đi.

Chủng Thế Hành vỗ tay, cười nói:

-Quân tử nhất ngôn, chớ có nuốt lời.

Địch Thanh cũng không nhiều lời, trong lòng lại nghĩ: "Chủng Thế Hành một năm nay thật sự quá vất vả rồi."

Mấy ngày nay Địch Thanh và Chủng Thế Hành sớm tối ở cùng nhau, sớm đã biết Chủng Thế Hành chẳng qua là bề ngoài keo kiệt, con người này ngày thường hết ăn rồi lại uống, nhưng tiền bạc rất phân minh. Nếu như phải tiêu tiền của bản thân thì cả ngày thịt không đụng tới một miếng, chỉ ăn chút rau quả cho khỏi đói, vì vậy mà vẻ mặt lúc nào cũng xanh xao.

Triều đình tuy nói là đồng ý xây thành Thanh Giản, nhưng Phạm Ung chi tiền luôn không khéo léo, lại mượn cớ nói trại Kim Minh chi tiêu rất lớn, do đó những khoản tiền cần thiềt để xây dựng thành Thanh Giản đều không thể đến đúng lúc, đúng chỗ.

Nếu như không có Chủng Thế Hành liều mạng kiếm tiền, lại tiết kiệm từ trong kẽ răng, thì thành Thanh Giản là sao có thể xây dựng nhanh chóng như thế này được.

Địch Thanh không kìm được nhớ lại một trước hai tháng trước, trong lòng vẫn không nguôi xúc động.

Khi đó, vào lúc xây thành khẩn trương nhất, thành Thanh Giản đột nhiên xảy ra vấn đề nghiêm trọng, đó là trong thành đào không ra nguồn nước, cho đào giếng thì không ngờ đào trúng tầng nham thạch.

Việc này nếu ở vào lúc không có chiến tranh thì không thành vấn đề, bởi vì có thể lấy nước từ sông Diên ngoài thành. Nhưng nếu thật sự đang chiến tranh, bị người vây quanh thành, trong thành lại không có nước, không chiến cũng thất bại. Lúc đó nguời ở thành Thanh Giản lo lắng không yên, người có thể bình tĩnh chỉ có Địch Thanh và Chủng Thế Hành. Chủng Thế Hành qua một đêm mà đầu bạc trắng, tóc trên trán rụng mấy trăm sợi. Ngày hôm sau Chủng Thế Hành quyết định tiếp tục đào giếng, đào lên được một sọt đá thì thưởng một trăm đồng tiền đồng.

Binh lính trong thành đào ba ngày liên tục, còn gian khổ hơn so với ác chiến, cuối cùng đến ngày thứ ba thì đào được nguồn nước.

Toàn thành mừng vui.

Những sợi tóc bạc trắng của Chủng Thế Hành cuối cùng cũng có tác dụng, không hề kêu đau đầu, nhưng rớt nước mắt.

Tuy rằng Chủng Thế Hành vẫn luôn kêu lớn, muốn làm ăn buôn bán lớn thì phải đầu tư, nhưng bắt đầu từ ngày hôm đó Địch Thanh mới hiểu sâu sắc hơn con người của Chủng Thế Hành. Hắn mới thà bị Chủng Thế Hành lừa, có ai biết đâu, cái đầu trọc kia, đôi giầy mục nát và khuôn mặt xanh xao thì có loại tình cảm thế nào?

Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh nhìn ông ta xuất thần, không kìm nổi sờ sờ lên mặt hỏi:

-Mặt ta nở hoa sao?

Địch Thanh phất áo đứng lên, cười nói:

-Đâu có, chẳng qua lão vì ta vất vả thế này đi tìm hiểu tin tức, ta nên mời lão ăn bữa cơm.

Chủng Thế Hành chảy nước miếng, cuống quít gật đầu nói:

-Tiểu tử ngươi cũng có lương tâm đấy.

Đi theo Địch Thanh về phía thành trì, Chủng Thế Hành nói:

-Địch Thanh, ta thực ra luôn có một kế hoạch.... Binh lính không phải ở việc nhiều, mà là ở việc tinh anh. Ta mấy năm nay thực ra quen biết rất nhiều binh sĩ có chí, hay là chúng ta sắp xếp bọn chúng vào đội quân để cho ngươi chỉ huy. Có một số người tính cách hơi kỳ quái một chút, nhưng ta nghĩ ngươi có thể trấn áp được bọn họ.

Nói chưa dứt thì có tiếng vó ngựa truyền tới.

Một kẻ cưỡi ngựa phi như bay tới, Địch Thanh vốn tưởng là việc quân có gì khẩn cấp, lại nhìn thấy người mới tới có khuôn mặt ngựa, vừa mừng vừa sợ, hỏi:

-Trương Ngọc, sao lại là ngươi?

Người mới tới là người bạn tốt của Địch Thanh ở trong kinh, tên Trương Ngọc.

Hai người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh là những người mà Địch Thanh kết bạn đầu tiên ở trong kinh thành. Trương Ngọc còn cùng với Địch Thanh sánh vai hợp lực, có thể nói là những nguời bạn sinh tử.

Sau khi trong cung thay đổi, đám thị vệ từng trải qua sự việc năm đó đều tự xin đi trấn thủ biên cương. Võ Anh đến Nhu Viễn ở đường Hoàn Khánh, Vương Khuê thì đi Trấn Nhung quân của đường Kính Nguyên, còn hai người Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đều bị phân làm chỉ huy sứ trong trại Kim Minh.

Mọi người đều ở Tây bắc, chỉ vì mỗi người một nhiệm vụ, ngoài Địch Thanh ra thì tất cả đều không được tự ý đi đâu.

Địch Thanh ở thành Thanh Giản đã lâu, ngoài việc thủ thành thì chính là tìm tung tích của Hương Ba lạp. Hôm nay gặp được Trương Ngọc, thật là niềm vui bất ngờ.

Nét mặt Trương Ngọc đầy vẻ vất vả, gặp được Địch Thanh cũng vô cùng vui mừng, liền xoay người nhảy xuống ngựa nói:

-Địch Thanh, ngươi vẫn khỏe chứ?

Một câu nói rất đỗi bình thường, nhưng không biết bao hàm bao nhiêu sự ân cần thăm hỏi.

Địch Thanh còn nhớ rõ Trương Ngọc từng cứu tính mạng hắn. Trương Ngọc làm sao mà không nhớ được rằng Địch Thanh vì hắn mà ngăn cản đao kiếm?

Địch Thanh gật gật đầu nói:

-Không chết được, còn ngươi, thế nào rồi?

Trương Ngọc thấy nét mặt Địch Thanh đầy vẻ phong sương, luyện rèn, mất đi vẻ non nớt năm đó, có phần cương nghị hơn, trong lòng thầm nghĩ: "Hắn đa phần đã có thể thoát khỏi bóng ma năm đó rồi", rồi cười sang sảng đáp:

-Ta cũng rất khỏe. Tuy nói giao tranh bách tính thống khổ, nhưng ở trại Kim Minh vẫn luôn nhàn rỗi, tay chân thấy ngứa ngáy rồi. Nghe nói ngươi hai năm nay ở Tây Bắc rất có danh tiếng, ta thật sự không phục đâu. Đều là chỉ huy sứ mà sao sự chênh lệch lại lớn thế?

Anh ta nói xong lại cười không ngớt.

Địch Thanh biết Trương Ngọc đang đùa, trong lòng thấy thật ấm áp, không kìm được nói:

-Lần này ngươi đến thành Thanh Giản là có việc gì vậy?

Trương Ngọc nhớ ra cái gì đó, thò tay vào ngực lấy ra một phong thư, nói:

-Lần này ta đến là đưa ngươi bức thư này. Là của Quách Tuân - Quách đại nhân gửi cho ngươi.

*****

Địch Thanh lấy làm ngạc nhiên nó:

-Vì sao Quách đại ca lại kêu ngươi đưa thư?

Nhận bức thư, cảm giác bức thư rất mỏng nhưng lại nặng trĩu trong tay.

Địch Thanh càng ngạc nhiên, thầm nghĩ liệu đây là thư sao? Đó chính là một thỏi bạc, cũng không thể nặng đến như vậy được.

Không đợi mở ra, Trương Ngọc đứng bên giải thích nói:

-Ban đầu Quách đại nhân định tự mình giao bức thư này cho ngươi, đại nhân đi ngang qua trại Kim Minh, lúc tìm Thiết Bích tướng công thì được biết người Đảng Hạng lại có dấu hiệu xuất binh, nên vội vàng quay về phòng bị, biết được mối quan hệ giữa ta và ngươi không tệ, mới bảo ta giao bức thư này cho ngươi.

Địch Thanh mở phong thư, rút bức thư ra, trước mặt là một vệt ánh sáng vàng chói...

Chủng Thế Hành trừng đôi mắt tròn xoe như hai quả trứng gà, kêu lên:

-Tổ tông ơi, đây là thư sao?

Địch Thah rút ra, đây là một tấm giấy viết thư mỏng bằng bạch kim, bên trên chữ được khảm bằng vàng. Một tờ giấy viết thư đơn giản như vậy, nhưng giá trị vô cùng.

Góc dưới cùng bên phải của bức thư dùng vàng khảm ra một cây tram. Còn mặt chính bức thư, trên nền bạch kim lồi lên một bức vẽ hình Phật.

Bức tượng Phật mặt mũi hiền lành, tuy có đôi chút giống Phật Di lặc, nhưng chỉ có bụng là không to như vậy.

Phong thư này, trong sự xa hoa lại mang vẻ kỳ quái. Cây kim, hình tượng phật đó là biểu thị ý nghĩa gì?

Mà Quách Tuân từ khi nào lại có bút tích xa xỉ như vậy?

Địch Thanh hết ngạc nhiên này lại đến ngạc nhiên khác khi thấy trên giấy viết bạch kim có mấy chữ được khảm bằng vàng thì chăm chú nhìn.

Mấy chữ đó là: "Muốn đi Hương Ba Lạp, phải tìm Điệt Mã".

Địch Thanh kinh ngạc nhìn chín chữ đó, nhất thời cảm thấy thật sự lẫn lộn.

Điệt Mã, Điệt Mã là cái gì?

Quách Tuân nếu chỉ muốn nói chín chữ này thì bảo Trương Ngọc truyền đạt cho hắn là được rồi. Nhưng Quách Tuân cố ý đưa cho hắn bức thư này, rốt cuộc là có ý gì? Bức thư này...thật kỳ quái.

Không biết bao lâu, lúc này Địch Thanh mới nhìn về phía Trương Ngọc, không hiểu nói:

-Trương Ngọc, bức thư này rốt cuộc có ý gì? Quách đại ca muốn nói điều gì chứ?

Hắn tuy không hiểu, nhưng thấy Quách Tuân vẫn nhớ không quên vì hắn mà tìm Hương Ba Lạp, trong lòng Địch Thanh vô cùng cảm kích.

Trương Ngọc cũng bị sự xa hoa của bức thư kia làm cho vô cùng kinh ngạc, lẩm bẩm nói:

-Cha mẹ ơi! nếu sớm biết là loại thư này thì ta truyền tin miệng cũng được rồi. Tờ giấy viết thư này, nếu là đổi lấy rượu thì có thể đổi được bao nhhiêu rượu nhỉ?

Anh ta tất nhiên là đang nói đùa, định thần lại, Trương Ngọc nói:

-Quách đại nhân vội vã rời đi, chỉ bảo ta giao bức thư này cho ngươi. Đúng rồi, ngài còn nói mấy câu, ngài nói sự việc một lời không nói hết được, nhưng ngài ấy đã tìm được manh mối quan trọng liên quan tới Hương Ba Lạp ở Thổ Phiên. Đợi ngài xử lý xong việc quân, sẽ nói cụ thể với ngươi.

Trong lòng Địch Thanh chấn động, biết rằng Quách Tuân trước giờ không dễ mà nói ra. Quách Tuân nếu đã nói tìm ra manh mối quan trọng thì tuyệt đối sẽ không làm Địch Thanh thất vọng.

Trương Ngọc đã xoay người nhảy lên ngựa.

Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:

-Ngươi... định đi luôn sao?

Trương Ngọc gật đầu đáp:

-Đúng vậy, Thiết Bích tướng công nể mặt Quách đại nhân nên mới để ta đi giao thư. Thư giao tới rồi, ta cũng phải nhanh chóng quay trở về. Dẫu sao nghe Quách đại nhân nói người Đảng Hạng có khả năng sẽ xuất binh vào mùa đông này. Ta cũng là chỉ huy sứ, phải nhanh chóng trở về trấn thủ trại. Ban đầu Vũ Hanh muốn đi đưa thư...nhưng vì ta rất muốn nhìn thấy ngươi nên đã cướp lấy chạy đi.

Trong lòng Địch Thanh cảm kích, thầm nghĩ quãng đường từ trại Kim Minh tới thành Thanh Giản cũng đến chừng hai trăm dặm. Trương Ngọc đã bôn ba như vậy, tình sâu nghĩa nặng, há lại liếc mắt nhìn đơn giản vậy sao?

Nhưng rốt cuộc Địch Thanh không nói lời cảm ơn, chỉ ân cần nói:

-Trời lạnh rồi, nhìn có vẻ như tuyết sắp rơi, ngươi đi đường cẩn thận.

Trương Ngọc cười ha hả, khoát khoát tay, quay ngựa rồi nghênh ngang rời đi.

Địch Thanh nhìn Trương Ngọc đi xa, nhìn xuyên qua màn sương thấy bóng người xa tận chân trời, rồi dần dần phai nhạt.

Cây cối bạc phơ, gió bắc lạnh, Địch Thanh thở, hà hơi thành sương, lúc này mới phát hiện thì ra thấm thoắt đã lại đến mùa đông giá rét. Đột nhiên cảm thấy mặt hơi lạnh, Địch Thanh ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên trời không biết từ lúc nào tuyết đã bắt đầu rơi.

Cánh tuyết nhảy múa, như những chùm sao liên tục rơi xuống. Địch Thanh không kìm được nhìn Chủng Thế Hành, trong lòng bề bộn không thôi.

Hắn vừa mới có một chút niềm tin là Hương Ba Lạp ở mười một châu Hà Tây, vì sao Quách Tuân đột nhiên nói chắc chắn với hắn là muốn tìm Hương Ba Lạp thì phải tìm Điệt Mã.

Điệt Mã rốt cuộc là cái gì chứ? Hương Ba Lạp và Thổ Phiên có liên quan? Suy nghĩ của Địch Thanh dồn dập, nhất thời không thể tìm được manh mối.

Trương Ngọc nhanh chóng quay ngựa trở về, thấy tuyết rơi dầy, đêm đã khuya tìm một nơi kín gió để nghỉ ngơi, ngày mai trời sáng rồi lại chạy tiếp về trại Kim Minh.

Tuyết rơi nhiều như dồn cả đến, nhuộm trắng cả vạn dặm.

Núi non trùng điệp như rồng, sông Hoàng Hà một dải, bao la hùng vĩ.

Trương Ngọc không còn lòng dạ nào thưởng thức cảnh tuyết rơi, chỉ trắch ông trời gây rắc rối cho hắn. Đến gần buổi trưa, cuối cùng cũng về tới trại Kim Minh.

Dưới bầu trời, trại Kim Minh như rồng cuộn, hổ ngồi, coi thường trời đất. Phân trại ba mươi sáu của trại Kim Minh giống như Thương rồng vảy ngược, mỗi tấm vảy bất kỳ đều phát ra sự thần uy khiến người ta phát sợ.

Trương Ngọc hồi lệnh trước, đi về phía trại An Phong với vẻ u ám.

Trại Kim Minh có mười tám tuyến Khương Binh, ba mươi sáu doanh trại, uốn lượn trong núi tạo thành rào chắn quan trọng nhất cho vùng Duyên Châu Tây bắc. Lý Vũ Hanh canh gác trại Tiền Xuyên ở đầu phía nam, còn Trương Ngọc phụ trách trấn thủ trại An Phong ở tận bắc.

Phía bắc trại An Phong mười mấy dặm chính là vùng đất mà Khương Hán lẫn lộn.

Trương Ngọc đã không thấy được nụ cười khi gặp Địch Thanh, trong lòng chỉ nghĩ: "mấy ngày nay cũng không gặp được Vũ Hanh, không biết hắn thế nào rồi. Lúc gặp Địch Thanh, nhắc một câu tới Vũ Hanh, nhưng mà không ngờ Địch Thanh cũng lạnh lùng. Vũ Hanh cũng không biết mình đi đưa thư cho Địch Thanh, kể từ sau khi rời kinh, cũng kông biết thái độ của Vũ Hanh lạnh lùng trước, hay là ta xem thường hắn trước đây. Nếu có thời gian rảnh thì cũng muốn tìm hắn nói chuyện một chút. Sự việc trôi qua đã lâu vậy rồi, vì sao mình vẫn không thể bỏ qua được chứ?

Thì ra năm đó Tào phủ đánh một trận, Địch Thanh, Trương Ngọc kề vai sát cánh chiến đấu, còn Lý Vũ Hanh lại trốn ở một bên. Trương Ngọc mỗi lần nghĩ tới chuyện đó, trong lòng đều có chút thắc mắc. Sau này ở lăng Vĩnh Định, Lý Vũ Hanh vẫn nhát gan như trước, vẫn ỷ vào Địch Thanh cứu mạng y. Điều vô lý nhất là trong lúc cung biến, Lý Vũ Hanh trong cuộc loạn chiến lại không ra sức giết giặc, ngược lại lại giả chết để thoát thân.

Bởi vậy mà Trương Ngọc trở nên lạnh lùng với Lý Vũ Hanh, sau khi đến Tắc Hạ, mối quan hệ của hai người cũng không vì ở cùng điện mà thân thiết hơn, ngược lại còn trở nên bất hòa.

Mỗi lần nghĩ tới chuyện này, trong lòng Trương Ngọc cũng không biết là cảm giác của mình thế nào.

Lúc tới gần trại An Phong, bỗng nhiên nghe thấy những tiếng ồn ào ở phía bắc trại, Trương Ngọc hơi run, vội hỏi binh lính của trại:

-Có chuyện gì vậy?

*****

Trại binh trả lời:

-Trương chỉ huy, ngài trở về rồi, có hơn ngàn người Khương đang khiêu chiến ngoài trại. Ngài không có mặt, Lý công tử và Hồ phó chỉ huy đã xuất trại nghênh chiến rồi.

Trong lòng Trương Ngọc kinh sợ, anh ta biết Lý công tử chính là Lý Hoài Bảo, cũng chính là con trai của Thiết Bích Tướng công Lý Sĩ Bân. Còn Hồ phó chỉ huy tên gọi là Hồ Chước, vốn là trợ thủ của Trương Ngọc, phò tá Trương Ngọc trấn thủ trại An Phong.

Lý Hoài Bảo xuất binh, thắng thì còn dễ ăn nói, nếu như có chuyện, chỉ e Trương Ngọc anh ta khó mà tránh khỏi liên can.

Nghĩ đến đây, Trương Trương Ngọc vội vàng tới phía bắc trại, chưa tới gần thì đã nghe thấy những tiếng hoang hô từng đợt. Trương Ngọc giương mắt nhìn, thấy phía trước có người thúc ngựa chạy tới. Người dẫn đầu đó cũng có vẻ tuấn tú, tuy chỉ hai mắt hơi bé, quầng mắt thâm đen, bộ dạng như thiếu ngủ.

Trương Ngọc nhận ra người đó chính là Lý Hoài Bảo, anh ta thở phào một cái, rồi nghênh đón nói:

-Lý công tử, công tử không sao chứ?

Lý Hoài Bảo liếc Trương Ngọc một cái, bỗng nhiên bật cười ha hả.

Trương Ngọc có chút khó hiểu, không kìm được hỏi lại:

-Vì sao Lý công tử lại cười như vậy?

Lý Hoài Bảo cười một hồi lâu rồi mới quay đầu sang một người đàn ông mặt xanh đứng bên cạnh nói:

-Ta thì có chuyện gì được chứ? Hồ Chước, ngươi hãy kể lại chuyện nực cười cho chỉ huy sứ của các ngươi nghe đi.

Hồ Chước vốn là trợ thủ của Trương Ngọc, nhưng nhìn ánh mắt Trương Ngọc mỉm cười thì châm biếm nói:

-Trương chỉ huy, sự việc thật sự buồn cười. Người Khương khiêu chiến bên ngoài trại, ban đầu vênh váo tự đắc. Lý công tử đang tuần tra nơi đây, thấy thế giận giữ, lệnh cho binh sĩ ra tay xuất kích. Không ngờ mới giương cờ khỏi doanh trại thì đám người Khương đó liền quay đầu bỏ chạy.

Nói dứt lời gã lại cười ha hả.

Trương Ngọc thầm nghĩ: "điều này thì có gì đáng cười chứ? Lý Hoài Bảo ngươi ở trước mặt ta thể hiện sự uy phong, người Khương thấy các ngươi giương cờ liền bỏ chạy, ở đây dường như có gì đó kỳ lạ."

Trương Ngọc xử lý công việc khôn khéo, thấy mọi người đều đang cao hứng, không tiện nghi ngờ, chỉ thản nhiên nói:

-Lý công tử thật uy phong.

Hồ Chước nói theo:

-Uy phong nhất, buồn cười nhất không phải là người Khương tháo chạy, mà là Lý công tử đuổi theo, có người Khương ngã ngựa, thấy Lý công tử quát hỏi vì sao không đánh mà bỏ chạy, ngài đoán xem bọn chúng trả lời thế nào?

Trương Ngọc thấy vẻ mặt Hồ Chước ngạo mạn, trong lòng giận giữ, nhưng vẫn giữ sự bình tĩnh nói:

-Ta rất ngốc, không đoán được.

Hồ Chước giễu cợt nói:

-Người Khương đó nói chúng vốn cho rằng nơi đây chỉ có mình Trương chỉ huy nên mới dám đến, không ngờ Lý tướng quân cũng ở đây, bọn chúng nhìn thấy cờ của Thiết Bích tướng công thì sự dũng cảm đều tan biến hết, nào dám đánh lại?

Dứt lời gã lại cười lớn.

Mọi người cùng cười, Lý Hoài Bảo ngồi trên ngựa cũng cười ngặt nghẽo, chỉ vào Trương Ngọc nói:

-Trương chỉ huy à, ngươi...haha.

Y không nói gì nữa, nhưng tỏ ý kinh miệt mà không cần nói cũng biết. Y vung roi da, thúc ngựa bỏ đi.

Trương Ngọc đứng đó, trong lòng tức giận, nắm chặt hai bàn tay, móng tay gần như đâm vào da thịt anh ta.

Lý Hoài Bảo đâu thèm để tâm tới tâm trạng của Trương Ngọc. Y vốn là kẻ kiêu xa. Mấy năm gần đây ỷ vào danh tiếng của phụ thân nên làm mưu làm gió ở trại Kim Minh, kiêu ngạo thành quen. Sau khi làm nhục Trương Ngọc, Lý Hoài Bảo chẳng còn muốn đi tuần tra các trại khác nên chuẩn bị trở về nghỉ ngơi, không ngờ có thủ hạ tên gọi là Thượng Quan Nhạn vội vã chạy tới báo:

-Lý công tử, Hạ Tùy Hạ Bộ Thự đến đây, anh ta tìm ngài khắp nơi.

Lỳ Hoài Bảo khẽ giật mình, hỏi lại:

-Hạ Bộ Thự đến đây làm gì?

Cha con Lý Gia ở trại Kim Minh tuy là chúa đất, nhưng chức quan của Lý Hoài Bảo còn thua xa Hạ Tùy. Hơn nữa Hạ Tùy còn có người cha là Đô bộ thự, cho dù là Lý Sĩ Bân cũng kông dám chậm trễ. Lý Hoài Bảo cũng luôn luôn khách khí với Hạ Tùy.

Thượng Quan Nhạn đáp:

-Nghe nói người Đảng Hạng lại xuất binh rồi, lần này tấn công toàn diện Tây bắc. Không chỉ Hạ Bộ Thự đến, mà cha anh ta là Đô bộ thự cũng đến, lúc này đang bàn bạc với tướng công về chuyện làm thế nào đối phó người Đảng Hạng.

Lý Hoài Bảo hơi kinh sợ, sau đó cười lạnh lùng nói:

-Bất luận người Đảng Hạng đánh tới như thế nào, chẳng lẽ còn dám đánh tới trại Kim Minh sao?

Trại Kim Minh đã do ba đời Lý Gia xây dựng nhiều năm, được mệnh danh là tường đồng vách sắt của tây Bắc.

Mấy năm gần đây, biên thùy tuy có lúc chiến loạn, nhưng trại Kim Minh trước sau không bị tấn công quá lớn.

Thượng Quan Nhạn cười xòa nói:

-Đúng vậy, đúng vậy, nhưng...công tử vẫn muốn gặp Hạ bộ thự sao? Lúc này hạ bộ thự đang ở trong Khoan Tâm đường của trại Hoàng Đôi.

Trại Hoàng Đôi là một phân trại xa hoa nhất của trại Kim Minh, bên trong có tòa nhà vô cùng xa xỉ. Khoan Tâm đường là nơi tinh xảo nhất trong trại Hoàng Đôi, bên trong có ca múa vô cùng tuyệt vời, còn có rượu uống mãi không bao giờ hết.

Lý Hoài Bảo nghe nói Hạ Tùy đang ở trại Hoàng Đôi, bất giác khẽ cười nói;

-Ngươi làm rất tốt, đưa ta đi nào.

Lý Hoài Bảo luôn cảm thấy Hạ Tùy và y là cùng một loại người, đều là không nhịn tửu sắc, là những nhân vật phóng đãng. Lý Hoài Bảo cũng không muốn đi gặp Hạ Thủ Vân. Đô bộ đầu tất nhiên là do Thiết Bích tướng công tiếp đón, còn việc chiêu đãi Bộ thự mới là việc mà Lý Hoài Bảo y nên làm.

Lỳ Hoài Bảo chưa tới Khoan Tâm đường đã nghe thấy tiếng đàn vang lên du dương, khóe miệng bất giác nở nụ cười.

Hạ Tùy đang ngồi trong Khoan Tâm đường, mắt chăm chú xem múa hát ở trước đường.

Trong đại đường có một vũ nữ mặc chiếc váy màu trắng quay tròn xung quanh, nhảy múa như tuyết bay, để lộ hai bắp chân trắng nõn đẫy đà.

Ánh mắt Hạ Tùy dường như muốn rớt xuống thân thể vũ nữ kia.

Thượng Quan Nhạn vốn đang tiếp đãi, Lý Hoài Bảo lắc đầu dừng lại, lặng lẽ chờ màn múa hát dừng, Lý Hoài Bảo thầm nghĩ: "Cha con Hạ thị quyền cao chức trọng, cha ta đang chiêu đãi Hạ Thủ Vân, mình nhất định phải khiến cho Hạ Tùy hài lòng mà quay về mới được."

Đợi bài múa xong, vũ nữ cuộn tròn tại chỗ, chiếc váy chảy xuống như muốn rơi, tựa như bài ca đưa tiễn mặt trời lặn lúc hoàng hôn

Bên trong đường yên tĩnh, yên tĩnh như tuyết, tuyết là cô quạnh.

Tiếng vỗ tay vang lên, Lý Hoài Bảo vỗ tay bước vào, cười lớn nói:

-Hạ công tử, điệu múa này... có được không?

Hạ Tùy như là mới nhìn thấy bộ dạng của Lý Hoài Bảo, ngồi xuống mỉm cười đáp:

-Không ngờ trại Kim Minh cũng có màn ca múa này. Ta cho dù ở Biện Kinh cũng ít được thấy.

Lý Hoài Bảo đi tới chỗ thủ hạ của Hạ Tùy ngồi, cùng cười nói:

-Hạ công tử nếu thích có thể hàng ngày đến đây thưởng thức.

Ánh mắt Hạ Tùy chớp chớp, khẽ thở dài nói:

-Ta thì vẫn thích, nhưng cha ta không cho phép. Người Đảng Hạng lại xuất binh ra Hạ Lan Nguyên, xuôi xuống phía nam tấn công quân Bảo An, bao vây tấn công cửa bắc, tình hình quân sự Tây Bắc rất cấp bách rồi.

Lý Hoài Bảo cười lớn đáp:

-Người Đảng Hạng tấn công vội thì có ích gì? Có Đô bộ thự và Bộ thự điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế, người Đảng Hạng còn không phải là sẽ giống năm trước, thất bại mà quay về sao?

Hạ Tùy cười khách khí, trong điệu cười giống như ẩn chứa điều gì,

- Lý công tử thật biết nói chuyện. Đô bộ thự cố nhiên có thể bày mưu tính kế, nhưng nếu trại Kim Minh phòng thủ kiên cố thì vẫn có thể thoải mái như vậy. Nhưng cẩn thận một chút vẫn hơn, do đó Đô bộ thự và ta đến đây là còn muốn xem trại Kim Minh chuẩn bị thế nào rồi.

Lý Hoài Bảo kiêu ngạo nói:

-Hạ công tử cứ yên tâm, cho dù người Đảng Hạng có cả trăm vạn hùng binh đánh tới cũng không thể làm được gì trại Kim Minh. Còn trại Kim Minh đây thì còn thành Duyên Châu. Hạ công tử chắc không biết chuyện hôm nay nhỉ.

Y không xưng hô theo cấp quan của Hạ Tùy, mà xưng hô theo quan hệ cá nhân, chính là muốn lôi kéo mối quan hệ này.

Hạ Tùy hơi có chút kinh ngạc, nói:

-Hôm nay đã xảy ra chuyện gì vậy?

Lý Hoài Bảo lại đem chuyện người Khương thấy cờ thì hồn bay phách lạc nói lại, rồi cười đắc ý. Tinh thần Hạ Tùy hơn rung lên, đập bàn nói:

-Không ngờ Thiết Bích tướng công uy danh như vậy, một khi đã như vậy, ta còn lo lắng gì nữa?

Lý Hoài Bảo cười nói:

-Đúng là như vậy. Hạ công tử ở đây, không cần lo lắng điều gì cả.

Hạ Tùy đột nhiên lắc đầu đáp:

-Haiz, ta chỉ lo một chuyện.

-Hạ công tử lo lắng chuyện vì vậy?

Lý Hoài Bảo có chút ngạc nhiên hỏi lại.

Nét mặt Hạ Tùy lộ vẻ đau khổ nói:

-Ta chỉ e ở đây rượu ngon quá nhiều, ta sẽ say chết ở đây mất.

Lý Hoài Bảo bừng tỉnh ngộ, biết là Hạ Tùy đùa, cười lớn nói:

-Hạ công tử thật biết cách nói chuyện. Thượng Quan Nhạn, đi lấy loại rượu ngon nhất tới đây, đêm nay ta và Hạ công tử không say không về.

Rượu chảy xuôi như nước, múa xoay tròn như gió.

Trong tửu sắc, thời gian lúc nào cũng trôi nhanh như dòng nước chảy siết.

Màn đêm đã buông xuống, bóng đêm dần về khuya nhưng trước Khoan Tâm đường càng thêm náo nhiệt, vũ nữ uốn lượn như cuồng phong cuốn tuyết.

Hạ Tùy liếc nhìn ra ngoài trời, ánh mắt hiện lên vẻ kỳ dị, cuối cùng vươn vai, lẩm bẩm nói:

-Đến lúc rồi.

Xem ra gã uống rất nhiều, nhưng ánh mắt không hề có vẻ say.

Lý Hoài Bảo sớm đã tám phần say, không nghe rõ Hạ Tùy nói gì, nói lớn:

-Hạ công tử, ngài còn muốn gì nữa? Có gì thì cứ nói, ở đây có ta sẽ lấy cho ngài ngay.

Nét mặt bẽn lẽn, nhìn vũ nữ múa trước đường, Lý Hoài Bảo cười dâm tà nói:

-Ta thấy công tử hình như rất thích cô bé vũ nữ này, hay là đêm nay hãy để có bé đó phục vụ ngài?

Hạ Tùy không nhìn vũ nữ, đột nhiên nói:

-Lý công tử, cha ta đối với Lý gia ngươi thế nào?

Lý Hoài Bảo lại cười, mượn cớ say, vỗ thật mạnh vào ngực đáp:

-Ân trọng như núi.

Những lời này của Lý Hoài Bảo cũng không trái lương tâm, bởi vì không lâu trước, Nguyên Hạo từng gửi thư, cẩm bào và đai vàng ở Tống cảnh, hẹn với Lý Sĩ Bân phản Tống, nhưng bức thư này không biết vì sao lại rơi vào tay Hạ Tùy, sự việc này cũng bị Phạm Ung biết được.

Tạo phản vốn lạ tội danh lớn, nhưng Hạ Thủ Vân, Hạ Tùy đều cho rằng đây là kế phản gián của Nguyên Hạo, lại nói với Phạm Ung là cha con Lý gia và người Đảng Hạng có mối thù tuyền kiếp, tuyết đối sẽ không làm việc này. Phạm Ung nghe đề nghị của Hạ Thủ Vân rằng đem chuyện này ra cũng không giải quyết được gì.

Chính vì chuyện này nên cha con Lý gia rất cảm kích cha con Hạ gia.

Hạ Tùy thở nhẹ nhàng, từ từ đứng dậy, đi tới trước mặt Lý Hoài Bảo, hỏi:

-Vậy bây giờ cha con ta có việc rất khó, không biết ngươi có bằng lòng giúp không?

Lý Hoài Bảo lảo đảo đứng dậy, cố sức gật đầu đáp:

-Được, ngài nói đi, Hạ.. công tử, ngài... ngài... nếu như muốn lấy đầu ta, ta cũng xin dâng hai tay.

Dứt lời, y cười hì hì, dùng hai tay nắm lấy đầu rồi đưa về phía Hạ Tùy, xong lại cười ha hả.

Y đã say lắm rồi, đi đứng không còn vững nữa, đột nhiên nghe một tiếng "choang".

Lý Hoài Bảo vẫn chưa tỉnh cơn say, chợt cảm thấy cổ lạnh lạnh, chỉ cảm thấy toàn thân như bay lên, nhìn xuống phía dưới, chỉ thấy tay trên Hạ Tùy cầm chiếc đao, trên đao có máu, đang đối diện với một cái xác không đầu.

Lý Hoài Bảo bỗng bừng tỉnh:

- Ta..

Không kịp nghĩ gì nhiều, y đã lại cảm thấy không còn cảm giác gì nữa.

Hạ Tùy chỉ một đao là chém bay đầu Lý Hoài Bảo, máu tươi tuôn chảy, nhuộm đỏ cả sắc xuân.

Tiếng đàn đột ngột dừng lại, Hạ Tùy liền quát lên:

-Tiếp tục gảy đàn đi.

Tiếng đàn lại cất lên, vũ nữ nhảy múa không ngừng, xoay tròn xung quanh.

Trong đường, Thượng Quan Nhạn không hề có chút bối rối, nhưng mặt thì xanh lên.

Hạ Tùy quay đầu nhìn Thượng Quan Nhạn nói:

-Đến lúc rồi. Ở đây còn một nhân vật nữa là Trương Ngọc. Sau khi ngươi thu dọn hắn, hãy làm việc theo như kế hoạch.

Thượng Quan Nhạn hành lễ rồi rút lui. Hạ Tùy chậm rãi đi ra ngoài Khoan Tâm đường.

Tuyết đang lạnh, trời đất trắng xóa.

Hạ Tùy với tay nắm một nắm tuyết lau vết máu trên thanh đao. Thân đao sáng quắc ánh lên khuôn mặt dữ tợn. Hạ Tùy lau xong thân đao, lại chờ một chút, lúc này mới thủng thỉnh lấy từ trong ngực ra một ống trúc, rồi đốt sợi đồng.

Một tiếng "bụp" vang lên, trong đêm tối mịt mùng đột nhiên xuất hiện một đóa hoa chói lọi, pháo hoa như đóa hoa với hàng ngàn cánh hoa nở rộ, rực rỡ lóa cả mắt, chiếu sáng trại Kim Minh.

Thời gian rất nhanh, xa xa có những ánh lửa bập bùng, chiếu sáng cả màn đêm.

Sau khi pháo hoa tan hết, bầu trời đêm lại vắng lặng, ánh lửa khắp bốn phía, tất thảy ba mươi sáu trại Kim Minh bỗng nhiên sôi sục lên.

Hạ Tùy nhìn ánh lửa không chút ngạc nhiên, chỉ cười rồi thì thào nói:

-Trại Kim Minh... tường đồng vách sắt? Hay cho một tường đồng vách sắt!

Bên trong tiếng cười lạnh lùng của gã còn mang cả vẻ đắc ý.

Bên trong đường, ca múa vẫn chưa ngừng, tiếng đàn gấp gáp, mọi việc dường như vừa mới xảy ra. Chẳng qua là trò khôi hài, nhưng cái váy trắng kia lúc lắc như tuyết hoa tung bay, tựa như là một khúc hát tiễn đưa Lý Hoài Bảo, lại giống như là kết cục của trại Kim Minh, mở ra khúc dạo đầu ảm đạm.


Đấu Thần Tuyệt Thế

Hồi (1-119)


<