Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Sáp huyết - Hồi 057

Sáp huyết
Trọn bộ 119 hồi
Hồi 057: Lời thề
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-119)

Toàn thân Triệu Trinh run rẩy, đột nhiên quay phắt người, chộp lấy hai vai Địch Thanh, ánh mắt tràn ngập vẻ áy náy day dứt, khản giọng nói:

-Địch Thanh, ngươi hiểu mẫu thân ta nhất. Ngươi nói xem, người sẽ không trách ta đâu, đúng không? Người nhất định sẽ tha thứ cho đứa con bất hiếu này, đúng không?

Thấy vẻ mặt Địch Thanh đầy kinh ngạc, Triệu Trinh hỏi dồn:

-Ngươi nói đi, ngươi nói đi!

Địch Thanh cảm thấy Triệu Trinh có chút thất thường, trong lòng khiếp hãi, lớn tiếng nói:

-Thánh thượng, lệnh đường chắc chắn sẽ không trách người. Người luôn một lòng muốn tốt cho Thánh thượng, người hiểu là Thánh thượng không hề biết chuyện. Người sẽ không trách Thánh thượng đâu, tuyệt đối sẽ không trách đâu!

Thân hình Triệu Trinh chấn động, vẻ mặt đầy sầu thảm, lầm bầm nói:

-Đúng vậy, ta không biết chuyện, người sẽ không trách ta đâu. Ta không biết chuyện, người sẽ không trách ta...

Hắn cứ lặp đi lặp lại câu nói đó, thần sắc hoảng hốt, sắc mặt tái nhợt, đột nhiên lại quay người đổ nhào xuống bên quan tài, khóc rống lên.

Nến trắng lệ trong, khóc than thiên hạ ấm lạnh; đêm lạnh đông tuyết, thờ ơ múa khúc biệt ly.

Một trận gió thổi vào, mang theo tuyết, lờn vờn xoáy thổi, Địch Thanh nhìn cảnh tuyết bay dưới ánh nến trắng như thế, không biết tại sao, trong lòng đột nhiên ớn lạnh.

Cơn ớn lạnh đó hòa cùng gió tuyết bên ngoài, khiến Địch Thanh không khỏi rùng mình. Tuyết càng lạnh, trời càng lạnh, thì ra Biện Kinh sớm đã vào độ đông giá...

Tuyết vẫn rơi, lúc Địch Thanh đến phủ đệ của Bát Vương Gia, trời tối đen như mực.

Bát Vương Gia vẫn chưa ngủ.

Ông lặng lẽ ngồi trong sảnh, nhìn bức bình phong đen sậm trong sảnh, lòng tràn đầy sự cô độc.

Địch Thanh lần đầu tiên đến phủ đệ của Bát Vương Gia, cảm thấy có chút kỳ lạ về sự lạnh lẽo trong phủ. Người mở cửa là một lão già, tuổi già trôi qua như năm tháng. Địch Thanh biết đó là quản gia của Triệu phủ, năm đó chính là người quản gia này đưa Bát Vương Gia tới cho Địch Thanh làm chứng mới giúp cho Địch Thanh miễn khỏi đại nạn.

Khi Triệu quản gia nhìn thấy Địch Thanh thì cũng không nói nhiều lời, chỉ chỉ về hướng xa xa nơi sảnh đường. Nơi đó, chiếc đèn lạng lẽ cháy trong đêm tuyết tràn đầy thanh lặng.

Địch Thanh yên lặng bước tới trước mặt Bát Vương Gia, nhưng cũng không hỏi nhiều, chỉ yên lặng chờ đợi Bát Vương Gia nói ra những lời trăn trối của Lưu Thái Hậu.

Có rất nhiều chuyện Địch Thanh không muốn suy đoán, hắn chỉ muốn có một đáp án là đủ rồi.

Con người không vì hiểu biết ít mà phiền não, mà hoàn toàn là vì biết quá nhiều. Địch Thanh đã hiểu được đạo lý này, do đó lúc Triệu Trinh đau khổ khóc lóc, hắn chỉ im lặng đi cùng. Triệu Trinh khóc mệt rồi thì quay về nghỉ tạm, hy vọng trong lòng Địch Thanh tan biến, hắn cảm giác được Bát Vương Gia chắc chắn sẽ không ngủ, hắn đoán đã không sai.

Bát Vương Gia bình tĩnh nhìn Địch Thanh, chỉ lấy tay chỉ chỉ vào cái ghế đối diện, lại chỉ chỉ vào ấm trà trên bàn.

Địch Thanh ngồi xuống, tự lấy cho mình một chén trà đầy, giơ lên làm hiệu. Bát Vương Gia gật gật đầu, cùng uống với Địch Thanh một chén. Sau khi đặt chén trà xuống, Bát Vương Gia nói:

-Địch Thanh, chúng ta vốn gặp mặt nhau không được mấy lần, nhưng ta biết ngươi là người rất đáng tin cậy, vì vậy có rất nhiều chuyện ta có thể nói với ngươi.

Địch Thanh đặt chén trà xuống, vốn định nói mình không xứng đáng được tin cậy, nếu không Vũ Thường đã không trở thành bộ dạng ngày nay, nhưng hắn cuối cùng lại không nói gì nữa.

Bát Vương Gia nhìn nét mặt ảm đạm của Địch Thanh, lâu sau mới thở dài nói:

-Thái Hậu nói không sai, Ngũ Long chính là vật của Hương Ba Lạp.

Lòng Địch Thanh trỗi dậy, nhưng Bát Vương Gia bình tĩnh nói:

-Ngũ Long đang ở trên người ngươi, phải không?

Trong lòng Địch Thanh hơi run run, mốt lúc sau mới đáp:

-Đúng vậy, bá phụ, người cần Ngũ Long sao?

Bát Vương Gia lắc lắc đầu:

-Bây giờ không cần, nhưng có thể sau này sẽ cần dùng đến. Nhưng rốt cuộc liệu có thể dùng được hay không, ta cũng không biết.

Ông nói lung tung, biết là Địch Thanh không hiểu, liền giải thích:

-Ta biết Hương Ba Lạp là một nơi vô cùng thần bí, ta cũng biết Ngũ Long tới từ Hương Ba Lạp. Nhưng có Ngũ Long rồi, không chắc có thể tìm được Hương Ba Lạp. Nếu không thì năm đó Tiên đế giữ Ngũ Long trong tay bao nhiêu năm, biết rằng nó rất kỳ dị. Nhưng sự kỳ dị này không phải ai cũng có thể cảm nhận được.

Địch Thanh lần đầu tiên nghe có một người phân tích rõ ràng về Ngũ Long như vậy, không kìm nén được nói:

-Như vậy là Tiên đế đã cảm nhận được sự kỳ dị của Ngũ Long rồi sao?

Hắn thực lòng cũng muốn hỏi Bát Vương Gia có cảm nhận được sự kỳ lạ của Ngũ Long hay không?

Bát Vương Gia khổ sở nói:

-Người đương nhiên là cảm nhận được. Nếu không phải vì năng lực cảm thụ sự thần bí của Ngũ Long, thì làm sao người có thể bị điên cuồng si mê thần tiên như vậy được?

-Vậy Người đã cảm nhận được cái gì?

Địch Thanh lo sợ bất an hỏi lại.

Bát Vương Gia trầm ngâm hồi lâu, lúc này mới suy tư nói:

-Theo như những gì ta biết được Người có ít nhất hai lần cảm nhận được sự khác thường từ Ngũ Long. Lần thứ nhất, Người nằm mơ thấy một ngọn núi bị thiêu trụi, trên núi có ánh sáng, trong ánh sáng đó có người nói với Người là muốn dạy Người thiên thu vạn đại, cách bảo vệ cơ nghiệp mãi mãi.

Địch Thanh cau mày nói:

-Trên đời này làm gì có cái phương pháp này? Tiên đế chỉ là nhìn thấy trong mơ, không thể chính xác được.

Bát Vương Gia nhìn tuyết bay bay ngoài sân, không để ý tới phản ứng của Địch Thanh, lẩm bẩm nói:

-Lần cảm ứng thứ hai, tuy là hoang đường mà lại xảy ra thật sự.

-Là cảm ứng gì?

Địch Thanh vội hỏi.

Ánh mắt Bát Vương Gia tràn đầy vẻ hoang mang, thậm chí có đôi chút sợ hãi, lâu sau mới thốt ra bốn từ: "Mười lăm tháng Tám"

"Mười lăm tháng tám?"."Mười lăm tháng tám" là cái gì?

Địch Thanh run run, nhớ lại lúc đó Quách Tuân đã nói tới bốn từ này trước mặt Lưu Thái Hậu. Lúc Quách Tuân nói xong bốn từ này, hình như thái độ của Thái Hậu có thay đổi.

Bởi vì "mười lăm tháng tám" cho nên Quách Tuân, Triệu Nguyên Nghiễm, Tiên Đế đều tin Hương Ba Lạp?

"Mười lăm tháng tám", đó rốt cuộc chỉ là một ngày, hay đó là một ký hiệu? vì sao lại có sự thần kỳ này?

Thần sắc Bát Vương Gia mơ hồ tựa như tuyết rơi, lẩm bẩm nói:

-"Mười lăm tháng tám" rất đơn giản, đêm đó là đêm trăng tròn, hoa quế đang thơm, hương thơm ngạt ngào luôn khiến người ta rất dễ mất đi bản tính.

Trong lòng Địch Thanh lo lắng, không hiểu vì sao Bát Vương Gia lại nói tới những điều này.

Trong lòng Bát Vương Gia thì lại đang nghĩ, đêm đó, ta và Thái Hậu một đêm phong tình, là vì hương hoa... hay là bởi lửa lòng? Hay là.... Ông không nghĩ tiếp nữa, khóe miệng nở nụ cười giễu cợt. Sau đó Bát Vương Gia buồn bã nói:

-Ngày hôm đó, ta bị triệu vào cung, Tiên đế đối với ta rất tốt, chuyện gì Người cũng vui vẻ thương luợng cùng ta. Ngày hôm đó Người rất hưng phấn, nói với ta ông trời sẽ ban cho ta một đứa con trai. Tiên đế trước đó cũng từng có một người con, nhưng bị chết yểu. Người luôn vì chuyện kế thừa nghiệp đế mà phát sầu, nhưng ngày hôm đó Người rất tự tin, nói là đêm đó Người sẽ có con trai.

Địch Thanh trợn tròn đôi mắt, miệng há hốc, hồi lâu sau mới hỏi:

-Thế kết quả?

-Kết quả đêm đó Ngũ Long xuất hiện kỳ dị.. cụ thể thế nào ngươi thực ra có thể hỏi Quách Tuân, bởi vì khi đó Quách Tuân cũng có mặt. Sau này ta nghe nói, đêm đó Tiên đế sủng hạnh Lý Thuận Dung, ở cùng với nàng... Sau đó thì Lý Hạnh Dung có cốt nhục của Tiên đế, cũng chính là đương kim thiên tử.

Địch Thanh không hết ngạc nhiên, đột nhiên nhớ lại năm đó lúc ở lăng Vĩnh Định, Lý Thuận Dung từng nói: "Tiên đế say đắm, sùng bái nói tu tiên, có một ngày Người uống tiên đơn...bệnh điên đại phát, nói cái gì là ông trời nói sẽ cho Người một đứa con trai. Người điên cuồng đi lại trong cung, tìm được ta, sau đó ta...mang thai Ích nhi."

Lúc đó Địch Thanh nghe thấy những lời kia nhưng lại không nghĩ gì nhiều, bây giờ kiểm chứng lại, những lời nói của Lý Thuận Dung thấy có chút không khớp. Nhưng rất hiển nhiên, Bát Vương Gia nói càng thêm tỉ mỉ, xác thực, đáng tin cậy. Hắn không ngờ rằng Quách Tuân cũng biết biết chuyện này, thảo nào khi đó Quách Tuân ở trong huyền cung, biểu hiện lúc nhìn thấy Lý Thuận Dung có chút gì đó khác thường.

Quách Tuân sớm đã biết rằng mẹ đẻ của Triệu Trinh chính là Lý Thuận Dung?

Chuyện cũ đã qua, Địch Thanh hận một nỗi không thề lập tức tìm Quách Tuân để hỏi cho rõ ngọn ngành. Có thể số phận không thể nắm chắc được, hắn ở Biện Kinh mà Quách Tuân thì lại ở Tây Bắc.

Bát Vương Gia khẽ thở dài, trong lòng đang nghĩ, đêm đó Lưu Nga cũng không chịu được sự lạnh lùng của Tam ca, vốn đã muốn ngăn cản Tam ca tin vào thần linh, kết quả bị Tam ca bạt tai mạnh một cái. Đó là lần đầu tiên Tam ca đánh Lưu Nga, cũng là lần cuối cùng. Dưới gốc cây Hoa Quế thơm hương đó, nàng đã gặp ta, khóc lóc kể lể những oan ức của nàng. Đêm đó gió rất nhẹ, hoa lại quá thơm, ta nghe nàng khóc lóc kể lể, vì sao thì....

Nghĩ đến đây ông mỉm cười, lại nghĩ, nghĩ những chuyện này thì có tác dụng gì, Lưu Nga chết rồi, sau khi nàng chết ta sẽ lập tức vạch trần những âm mưu của nàng. Ta đang hận nàng sao? Nàng chết thì cũng đã chết rồi, ta còn làm những chuyện đó thì cũng có tác dụng gì nữa? Chẳng lẽ ta thực sự nói với nàng như vậy, chưa từng yêu nàng sao? Hừ.. Ta không nói, sớm muộn cũng sẽ có người nói.

Địch Thanh suy tư hồi lâu, lúc này mới nói:

-Bởi vì chuyện "mười lăm tháng tám" nên Quách đại ca, Bá Phụ và Tiên đế đều tin chuyện Hương Ba Lạp?

Bát Vương Gia chậm rãi gật đầu nói:

-Không sai, ta vốn nửa tin nửa ngờ, nhưng những sự kỳ dị này khiến ta không thể không tin. Tiên đế nói với ta, Ngũ Long vốn là vật của Hương Ba Lạp, Hương Ba Lạp là nơi có thể thỏa mãn mọi nguyện vọng của con người. Đây vốn là lời nói vô căn cứ, ta cũng không tin. Nhưng sau đó, cuối cùng ta lại tin. Tiên Đế mãi không tìm ra Hương Ba Lạp, nhưng sức khỏe thì không ổn rồi, Người liền dựa theo tâm tư của chính mình, xây nên Lăng Vĩnh Định, mô phỏng thành hình dáng của Hương Ba Lạp, sưu tập các loại đồ vật cổ quái đặt ở trong lăng Vĩnh Định.

*****

Địch Thanh thần sắc hoảng hốt, nhớ đến năm cái cửa kỳ quái trong huyền cung, bên trong có Thiên Thu, Phật cốt, tượng phật không mặt...

Hắn tựa như mơ hồ nhớ ra điều gì, thấy Bát Vương Gia nhìn mình một cách kỳ quái, bất giác hỏi:

-Tiên đế đặt mấy thứ đó trong huyền cung để làm gì?

Khóe miệng Bát Vương Gia tràn đầy vẻ mỉa mai, thản nhiên nói:

-Ngươi còn không đoán ra sao?

Trong đầu Địch Thanh như có dòng điện chạy xẹt qua, bỗng nhiên đứng bật dậy, khóe mắt sáng lên, kêu lớn:

-Người hy vọng trường sinh, Người còn muốn sống lại!

Lời nói đã nói ra, Địch Thanh chỉ cảm thấy lưng ngực vã hết mồ hôi.

Đây thực sự là chuyện kỳ lạ hoang đường. Ngay lúc đó Địch Thanh nhớ lại rất nhiều, rất nhiều chuyện, và cũng hiểu rõ được rất nhiều chuyện.

Lúc trước ba người hắn, Triệu Trinh và Lý Thuận Dung vào huyền cung, nhìn thấy một dấu tay ở trên bàn đá. Địch Thanh nhớ là biểu hiện của Lý Thuận Dung không phải là hoảng sợ mà là khó mà tin được rằng lúc đó Lý Thuận Dung nói: "không thể nào, tuyệt đối không thể."

Địch Thanh khi đó không hiểu, nhưng bây giờ nghĩ lại, ý của Lý Thuận Dung đương nhiên là Triệu Hằng tuyệt đối không thể sống lại.

Do đó Lý Thuận Dung vội vàng đi đến nơi để quan tài của Triệu Hằng, chính là muốn xác minh lại Triệu Hằng liệu có phải đã thoát ra. Thảo nào khi đó lòng hắn buồn bã, luôn luôn lo lắng đề phòng. Khi đó hắn cũng không biết vì sao lại sợ hãi, bây giờ thì hắn đã hiểu.

Nàng sợ Triệu Hằng trong quan tài chui ra.

Nàng vô cùng sợ hãi dấu tay người lưu lại là của Triệu Hằng.

Thảo nào có rất nhiều chuyện mà Lý Thuận Dung nói cứ ấp a ấp úng, lại nói cái gì: "Sau khi Trân Tông chết, nhất định sẽ rất lạnh lẽo, ông ta hy vọng Lý Thuận Dung thường xuyên lui tới với ông ta".

Địch Thanh chỉ cảm thấy cổ họng khô rát, khổ sở nói:

-Hóa ra Lý Thuận Dung canh giữ lăng Vĩnh Định, không chỉ là vì canh giữ lăng. Bà ấy vẫn đợi có một ngày Chân Tông sống lại sẽ đi đón Chân Tông về. Lý Thuận Dung đương nhiên biết những chuyện này sao?

Bát Vương Gia gật gật đầu, giễu cợt nói:

-Không sai. Nàng cũng biết sơ sơ, nhưng nàng phần lớn là không tin. Tiên đế cho rằng thần thánh đã khiến cho Lý Thuận Dung vì Người mà sinh con trai, chứng tỏ Người và Lý Thuận Dung có duyên, cũng chính là có duyên với Hương Ba Lạp, lúc này mới lấy chuyện này ra để Lý Thuận Dung làm, nhưng mà.. Thái hậu đi rồi, Lý Thuận Dung cũng đi rồi...Trên đời này người biết những bí mật này ngoài ta và ngươi ra, Quách Tuân có thể cũng sẽ biết chút ít.

Bát Vương Gia ngừng lại, sau đó khẳng định nói:

-Chính là vì những chuyện này, ta khẳng định Hương Ba Lạp tồn tại, nếu không thì Ngũ Long từ đâu mà tới? Nhưng lăng Vĩnh định tuyệt đối không thể là Hương Ba Lạp.

Sắc mặt Địch Thanh như tro tàn, hồi lâu sau mới nói:

-Với khả năng của Tiên đế, nếu như vẫn không tìm thấy Hương Ba Lạp...

Bát Vương Gia cắt ngang lời Địch Thanh, trầm giọng nói:

-Địch Thanh, ngươi chắc là muốn nói, Tiên đế tìm không thấy thì chúng ta chắc chắn cũng không thể tìm thấy Hương Ba Lạp?

Thấy Địch Thanh buồn bã gật đầu, Bát Vương Gia lắc đầu nói:

-Ngươi sai rồi, muốn tìm Hương Ba Lạp, tuyệt đối không phải là dựa vào quyền thế địa vị, mà dựa vào duyên phận.

Địch Thanh thần sắc tiêu điều đáp:

-Cái duyên này kông phải là chuyện dễ dàng.

-Ngươi buông tay sao?

Bát Vương Gia đột ngột hỏi lại.

Địch Thanh chấn động, trong đầu lại hiện lên nụ cười nhẹ nhàng đó, nhan sắc tựa như hoa. Cầm nhanh chén trà, Địch Thanh hít một hơi thật sâu rồi nói:

-Ta hơn một năm nay, tìm quá nửa vùng Tây Bắc, bị gạt vô số lần, vẫn chưa thu hoạch được gì. Nhưng mà.... Bá Phụ, ta sẽ không từ bỏ.

Hắn nói chắc như đinh đóng cột. Vẻ mặt tuấn tú kia tuy sớm có những thăng trầm, cô đơn, nhưng đa phần là sự cương nghị bất khuất.

Bát Vương Gia thở dài nói:

-Ngươi không có manh mối, nhưng ta thì đã có manh mối rồi.

Địch Thanh nửa mừng nửa lo, vội hỏi:

-Manh mối gì?

Bát Vương Gia nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói:

-Trước khi Thái hậu lâm chung từng nói "Ngũ long vốn là vật của Hương Ba Lạp, muốn tìm Hương Ba Lạp, nhất định phải...". Câu nói này chính là manh mối.

Địch Thanh liên tục bị sự mập mờ của Ngũ Long hấp dẫn. Đến lúc này mới nhớ ra hôm nay tới đây chính là muốn hỏi lời trăn trối của Thái Hậu, nên lo sợ nói:

-Nhất định phải sao?

- Nhất định phải tìm được bản đồ.

Bát Vương Gia hít một hơi thật sâu, nói từng chữ, từng chữ một.

Địch Thanh cảm thấy trong đầu như có gì đó xẹt qua, như là mất đi cái gì đó vô cùng quý giá, không kìm được hỏi lại:

-Bản đồ gì?

-Bản đồ Hương Ba Lạp.

Bát Vương Gia nhẹ nhàng đáp.

-Ta đã tận dụng hết khả năng, cũng nghe được tin, có một người họ Tào trong tay có bản đồ Hương Ba Lạp, ta đã sai người đi mua, chỉ cần bản đồ tới tay, tìm Hương Ba Lạp không còn là chuyện gì vô căn cứ nữa cả. Bản đồ này tuyệt đối không phải là cái gì vô lý. Ta nắm chắc tám phần rằng bản đồ đó là thật.

Bỗng dưng nhìn thấy sắc mặt Địch Thaanh tái nhợt đi, Bát Vương Gia không kìm được vội hỏi:

-Địch Thanh, ngươi sao vậy?

Thiếu chút nữa Địch Thanh ngã nhào xuống bàn, hắn bỗng nhiên nhớ lại Chủng Thế Hành từng nói có một người họ Tào bán bản đồ Hương Ba Lạp, nhưng hắn căn bản không tin. Chẳng lẽ cái bản đồ đó chính là cái mà Bát Vương Gia nói?

Chẳng lẽ...cái bản đồ đó là thật?

Lúc hắn ở gần Hương Ba Lạp nhất, không ngờ lại gặp thoáng qua Hương Ba Lạp?

Địch Thanh kinh hồn bạt vía, mãi lâu sau mới nói lại lời của Chủng Thế Hành, rồi uể oải nói:

-Bá phụ, Ta vốn cho rằng Chủng Thế Hành lừa mình, không ngờ lời hắn nói là sự thật. Ta lập tức đi Tây Bắc tìm Chủng Thế Hành.

Bát Vương Gia có chút ngạc nhiên, lẩm bẩm nói:

-Kỳ quá, ta phải tốn bao công sức mới tìm được người họ Tào đó, Chủng Thế Hành sao có thể dễ dàng biết được thông tin này?

Ông trầm ngâm hồi lâu, lắc đầu nói:

-Hiền chất, ngươi chớ vội vàng, có lúc vội vàng sẽ gây phiền phức. Người ta phái đi đã xuất phát nhiều ngày rồi, chắc cũng đã quay về. Nếu ngươi đi Tây Bắc, không chừng lại để vuột mất.

Địch Thanh cau mày hỏi:

-Vậy bây giờ ta phải làm gì?

Bát Vương Gia thở dài nói:

-Đợi, ngoài chờ đợi ra, ta cũng không có cách nào hay hơn.

Địch Thanh chỉ có thể gật đầu, không kìm được lại hỏi:

-Bá phụ, họ Tào kia là ai? Vì sao người có thể chắc chắn rằng trong tay hắn có bản đồ Hương Ba Lạp?

Bát Vương Gia do dự nói:

-Ta đồng ý với hắn không thể tiết lộ lai lịch của hắn. Ta có thể khẳng định hắn có bản đồ Hương Ba Lạp cũng là rất có lý do, nhưng lý do này ta tạm thời không thể nói. Địch Thanh, ngươi hãy tin ta, sau này sớm muộn ta cũng sẽ nói.

Địch Thanh thấy Bát Vương Gia rất khó xử, cũng không tiện ép hỏi, nhưng vẫn còn một nghi vấn, lại hỏi tiếp:

-Nếu như Hương Ba Lạp trong truyền thuyết là thật, bản đồ kia cũng là thật, sao người đó không tự mình đi tìm Hương Ba Lạp để được đền bù tâm nguyện, mà ngược lại lại phải đem bán bản đồ đó đi?

Bát Vương Gia khẽ mỉm cười đáp:

-Mấu chốt trong chuyện này không khó giải thích, cũng giống như hiền chất ngươi, được coi là có khả năng bình định Tây Bắc, thế nhưng có tâm, có lực mà không có cơ hội. Cho dù có bản đồ, muốn tìm được Hương Ba lạp cũng không phải là chuyện dễ dàng. Người họ Tào kia, vốn là thế hệ sau của dân tộc vùng Tây Bắc, nghèo túng đến tận bây giờ, đã không còn có khả năng tìm được Hương Ba Lạp nữa.

Địch Thanh thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm nói;

-Thì ra là như vậy, xem ra lúc này chỉ có thể chờ đợi mà thôi.

*****

Tuyết bay, sương lạnh, mắt trời mọc rồi mặt trời lại lặn.

Địch Thanh tuy biết là phải chờ đợi, nhưng cũng không nghĩ rằng hắn ở Quách phủ để chờ mà chờ tới tận cuối xuân.

Địch Thanh ở Biện Kinh, chức quan nhàn hạ nên chẳng có việc gì. Nhưng mấy ngày tới Triệu Trinh sẽ tìm Địch Thanh vào cung tán gẫu về chuyện trị quốc.

Đó đã từng là vị quân vương do dự, bất lực, cuối cùng có thể tự mình độc quyền cai trị, dần dần quên đi những buồn thương trước đó, quên đi những chuyện dĩ vãng không vui, giữa hai đầu lông mày lúc nào cũng thấy có tinh thần thoải mái, sảng khoái.

Địch Thanh hôm nay lại được Triệu Trinh tuyên triệu, không nhịn được cau mày. Hắn biết rằng bản thân không có chút hứng thú nào với những chuyện trị quốc, tự biết kiến thức càng nói càng không thông minh. Triệu Trinh cho triệu hắn, thay vì nói là thảo luận, chi bằng nói Triệu Trinh là người ba hoa khoác lác.

Mấy ngày nay, triều đình có sự thay đổi long trời lở đất, người trong Lưỡng phủ thay đổi rất nhiều. Triệu Trinh đã phong hai vị ân sư ngày xưa là Trương Sĩ Tốn và Lý Địch làm tể tướng, Tiết Khuê vẫn còn nguyên không đổi, vẫn tham chính cho Lưỡng phủ.

Địch Thanh không bất ngờ với sự sắp đặt này, lúc đó hắn cũng ở trong cung, biết rằng Tiết Khuê ban đầu là làm công việc lựa chọn chính xác trang phục cho Thái Hậu, do đó mà được Triệu Trinh đánh giá cao. Điều khiến Địch Thanh có chút không ngờ đó là Lã Di Giản bị Triệu Trinh loại ra khỏi Lưỡng phủ, tới vùng Thiền Châu.

Địch Thanh có thể có được địa vị ngày hôm nay vẫn là được sự bổ nhiệm của Lã Di Giản. Địch Thanh cũng biết mối quan hệ giữaTriệu Trinh và Lã Di Giản vốn không tồi. Hiện giờ Triệu Trinh đương quyền, vốn là càng phải thêm trọng dụng Lã Di Giản mới đúng. Địch Thanh lờ mờ nghe được, bởi vì Quách Hoàng hậu và Lã Di Giản không hợp, nhiều lần nói Lã Di Giản vốn là người bên cạnh Thái hậu nên đối xử hai mặt để lấy lòng. Trong lòng Triệu Trinh có kiêng kỵ, nên mới đuổi Lã Di Giản tới Biện Kinh.

Nhưng nội tình rốt cuộc là thế nào? Không ai có thể khẳng định.

Nhưng ai cũng biết rằng nguyên tắc thay đổi triều thần lần này của Thiên Tử là những triều thần năm đó có mối quan hệ thân cận với Thái hậu thì đa phần bị giáng chức.

Do đó Tri phủ Khai Phong Trình Lâm bị đuổi khỏi kinh thành. Đám người của Lưỡng phủ Hạ Tủng, Trần Nghiêu cũng là vây cánh thân cận của Thái Hậu, cũng đều bị điều dời khỏi kinh thành.

Ngược lại, những người lúc trước đắc tội với Thái Hậu, ví dụ như Phạm Trọng Yêm, Tống Thụ, Âu Dương Tu, Doãn Thù...đều được quay lại kinh, thăng quan trọng dụng.

Địch Thanh đối với đám người Âu Dương Tu, Doãn Thù cũng không hiểu rõ, cũng không hẳn là quan tâm. Niềm vui duy nhất hắn cảm giác được đó là việc Phạm Trọng Yêm hồi kinh.

Hắn còn nhớ rõ Phạm Trọng Yêm.

Đó là một Phạm Trọng Yêm luôn lo lắng cho thiên hạ, dám vì người khác trước.

Đó là một Phạm Trọng Yêm thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Địch Thanh ở trong cung, nhìn thấy trọng thần triều đình quả thực không ít, nhưng hắn chỉ có ấn tượng duy nhất đối với người không được tính là trọng thần, đó là Phạm Trọng Yêm. Địch Thanh tuy không hiểu lắm về chuyện đất nước, nhưng hắn cũng biết rằng trong triều những người như Phạm Trọng Yêm càng nhiều thì càng tốt.

Rất nhiều người rời kinh thành, rồi lại rất nhiều người bị điều về kinh. Địch Thanh lại không muốn tiếp tục ở lại kinh thành, bị Triệu Trinh tuyên triệu. Địch Thanh lập tức quay người lao vào trong cung, muốn hỏi Triệu Trinh khi nào sẽ cử hắn tới vùng biên thùy.

Trong lúc vô số người phải lao tâm khổ tứ, không muốn rời xa kinh thành, chỉ có Địch Thanh mới muốn đi con đường khác ngược lại.

Ngay lúc rời khỏi Quách phủ, Triệu quản gia tới trước cửa, nói với Địch Thanh:

-Bát Vương Gia mời ngài tới Vương phủ có việc quan trọng.

Địch Thanh lập tức lui việc đi gặp Triệu Trinh sang một bên, mà đi tới phủ đệ của Bát Vương Gia trước. Đến lúc vào trong vương phủ, thấy chim Yến tử bay lơ lửng trên không, ánh nắng ấm áp của mặt trời rọi xuống người, tràn đầy thoải mái, nhưng trong lòng Địch Thanh lại cảm thấy hơi chút lạnh run.

Hắn tuy vẫn chưa nghe Bát Vương Gia nói rõ, nhưng biết rằng chuyện Bát Vương Gia mua bản đồ chắc chắn không thuận lợi.

Vào đến trong sảnh, lúc nhìn thấy nét mặt u ám của Bát Vương Gia, lòng Địch Thanh bỗng trầm xuống, nhưng vẫn không thể hỏi:

-Bá phụ, mọi việc thế nào rồi?

Mặt Bát Vương Gia hiện rõ vẻ nghiêm trọng, trầm giọng nói;

-Địch Thanh, ngươi nhất định phải bình tĩnh.

Địch Thanh đã mơ hồ cảm nhận được câu trả lời không ổn, nhưng không ngờ vẫn có thể bật cười, nhưng nụ cười ít nhiều có chút thê lương:

-Bá Phụ, người yên tâm, cháu có thể chịu đựng được.

Hắn không biết đã từng chịu bao nhiêu đả kích hy vọng, rồi thất vọng, vì vậy mới có thể bình thản nói ra câu nói này.

Ánh mắt Bát Vương Gia lộ rõ vẻ lo lắng, thần sắc cũng lạc đâu mất, nói;

-Người mà ta cử đi đã tìm được người họ Tào kia, nhưng y chết rồi, bản đồ cũng mất rồi.

Địch Thanh cũng thất vọng, nhưng càng cảm thấy rằng tấm bản đồ đó có lề lối, ngược lại có thể bình tĩnh hỏi lại:

-Bá phụ, người có biết là ai đã giết người họ Tào kia không?

Bất luận là ai cầm tấm bản đồ kia, Địch Thanh hắn nhất định phải cướp về lại.

Bát Vương Gia chau mày nói:

-Người mà ta cử đi đã kiểm tra ra trước khi tên họ Tào kia chết, từng có người đến tìm y. Đó là kẻ tình nghi lớn nhất. Thuộc hạ của ta đã nghe ngóng được rằng kẻ đến tìm người họ Tào kia tên gọi là Diệp Hỉ Tôn.

Hung thủ là Diệp Hỉ Tôn?

Bên tai Địch Thanh vang lên, thiếu chút nữa nhảy dựng lên, thất thanh nói:

-Diệp Hỉ Tôn, sao lại là y được?

Bát Vương Gia có chút kinh ngạc hỏi:

-Cháu biết y sao?

*****

Trước mắt Địch Thanh hiện lên cái khuôn mặt cao ngạo lạnh lùng đó. Đương nhiên là hắn biết Diệp Hỉ Tôn rồi, nhưng vì sao Diệp Hỉ Tôn lại giết tên họ Tào kia?

Lúc trước Diệp Hỉ Tôn bị Dạ Xoa đuổi giết vì bên mình mang theo một vật, chẳng lẽ khi đó Dạ Xoa đuổi giết Diệp Hỉ Tôn cũng chính là vì tấm bản đồ Hương Ba Lạp?

Dã Lợi Trảm Thiên, Diệp Hỉ Tôn, Dạ Xoa không ngờ cũng đều có liên quan tới Hương Ba Lạp.

Tâm tư Địch Thanh rối bời, chỉ cảm thấy tất cả mọi chuyện ngày càng trở nên mờ mịt như sương mù dầy đặc. Hắn trầm ngâm một lúc, rồi hỏi lại:

-Bá phụ, cháu từng gặp Diệp Hỉ Tôn hai lần, nhưng cũng hoàn toàn không hay biết gì về y cả. Người có biết gì về lai lịch của Diệp Hỉ Tôn không?

Bát Vương Gia lắc lắc đầu nói:

-Chúng ta chỉ tra ra được tên của y đăng ký ở quán trọ là Diệp Hỉ Tôn, còn những thứ khác hoàn toàn không biết gì cả. Ta thậm chí có chút nghi ngờ cái tên này cũng là giả nữa.

Địch Thanh cũng có nghi ngờ này, trầm ngâm một lúc, Địch Thanh đã hạ quyết tâm, nói:

-Bá phụ, cháu không thể chờ đợi thêm được nữa, cháu bắt buộc lại phải đi Tây Bắc, hỏi thăm tung tích của tên Diệp Hỉ Tôn này. Hôm nay cháu sẽ đi cầu xin Thánh thượng, mong Người cho phép cháu xuất kinh.

Nét mặt Bát Vương Gia có vẻ mệt mỏi, gất gật đầu nói:

-Như vậy cũng tốt, ta và cháu phân công nhau đi tìm, không chừng có thể sẽ nhanh hơn chút. Thánh thượng sẽ cho cháu xuất kinh chứ?

Địch Thanh kinh ngạc hỏi:

-Sao bá phụ lại nói thế?

Bát Vương Gia muốn nói thêm nhưng lại thôi, một lúc sau mới đáp:

-Cháu hãy nói với Thánh thượng việc xuất kinh trước, tuy nhiên.... nếu Người không chịu, cháu cũng chớ có xung đột với Người, tất cả nên lấy thương lượng làm chính nhé.

Địch Thanh rời Vương phủ mà trong lòng tràn đầy nghi hoặc, luôn cảm thấy Bát Vương Gia dường như không coi trọng việc hắn sẽ xuất kinh.

Trong lòng cười đau khổ, thầm nghĩ người khác đều mong muốn được vào kinh, chỉ có hắn muốn xuất kinh, chẳng lẽ cũng khó sao? Địch Thanh đến đại nội với lệnh bài thông hành nên không hề gặp trở ngại gì.

Hắn là cấm quân duy nhất trong cung không cần làm nhiệm vụ, nhưng lại có thể mang đao hoành hành. Đám thị vệ điện tiền sớm đã nhận ra Địch Thanh, thấy Địch Thanh tới ánh mắt có chút hâm mộ, cũng biết rằng Địch Thanh là người được tin cậy trong mắt Thiên tử, nên vội vàng đón tiếp.

Địch Thanh dù trong lòng lo lắng, nhưng vẫn gật đầu ra hiệu với đám người kia. Sau khi tới Đế cung, Triệu Trinh cũng đang đi tới đi lui, dường như đang suy nghĩ chuyện gì đó, nhìn thấy Địch Thanh liền cười nói:

-Địch Thanh, sao trễ thế này ngươi mới đến?

Địch Thanh thấy tâm trạng Triệu Trinh dường như rất tốt, trong lòng vui mừng, cung kính hành lễ nói:

-Thánh Thượng, thần có việc dở dang nên đến muộn một chút, mong Thánh thượng thứ tội.

Vốn cho rằng Triệu Trinh sẽ hói hắn có việc gì, Địch Thanh sẽ mượn cớ xuống thang để nhắc tới chuyện xuất kinh. Không ngờ Triệu Trinh lại không hề hỏi tới, chỉ nói:

-Ngươi đến là tốt rồi, ngươi đoán thử xem, hôm nay Trẫm cho gọi ngươi tới là có chuyện quan trọng gì?

Địch Thanh có chút kỳ quái, thấy Triệu Trinh hứng thú lên cao, đành tạm hoãn lại vấn đề của mình, dò hỏi:

-Thánh thượng cho triệu thần tới, chắc là có chuyện liên quan tới Tây bắc?

Triệu Trinh cười đáp:

-Địch Thanh, ngươi quả là người rất hiểu lòng Trẫm. Ta tìm ngươi có hai việc, trong đó có một việc liên quan đến Tây Bắc.

Địch Thanh thầm nghĩ, có một việc liên quan đến Tây Bắc, còn một việc khác là gì? Bất chợt nghe Triệu Trinh nói:

-Tây Bình Vương Triệu Nguyên Hạo năm ngoái khởi binh xâm chiếm vùng biên giới của ta, khiến quân Bảo An gặp nạn. Nếu không phải có ngươi dũng mãnh, cùng với bọn Võ Anh đốt trại Hậu Kiều thì Đại Tống của chúng ta có thể đã bị mất hết thể diện. Hừ! Ta đã cho dừng chợ Dác ở Tây Bắc, bọn chúng sẽ không có cách nào giao dịch được với ta, tổn thất càng nhiều. Lúc này, Triệu Nguyên Hạo phái sứ giả đi cầu cứu Phạm Ung, mong chúng ta mở lại chợ Dác, bọn chúng lại mong cầu hòa với chúng ta.

Trong lòng Địch Thanh bất an, dè dặt nói:

-Thánh thượng, thần biết đám người Đảng Hạng lòng muông dạ thú, Nguyên Hạo lại càng là kẻ lắm mưu nhiều kế đã lâu. Mấy năm nay, Nguyên Hạo đã chiêu nạp những người rất kỳ dị, tăng cường quân đội chuẩn bị chiến tranh, làm sao có thể dễ dàng nghỉ binh vậy? Thần chỉ e bên trong có âm mưu.

Triệu Trinh nhíu mày nói:

-Trẫm đã biết ngươi nhất định sẽ hiểu tâm tư của Trẫm, cũng có thể nhìn xuyên thấu ý đồ của Triệu Nguyên Hạo. Động tác này của Triệu Nguyên Hạo đa phần là làm tê liệt Trẫm. Trẫm đã sớm điều hai người Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn đi Tây Bắc chuẩn bị chiến tranh, lãnh binh đề phòng người Đảng Hạng.

Địch Thanh dò hỏi:

-Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn? Thần kiến thức nông cạn, chưa từng nghe qua tên họ.

Triệu Trinh đáp:

-Lưu Bình vốn là con nhà tướng, văn võ song toàn, trước kia làThứ sử Lô Châu, từng vài lần bình định dân di cư phản loạn. Lần này đi đối phó với người Đảng Hạng, dự đoán sẽ không phụ sự hy vọng của Trẫm. Thạch Nguyên Tôn cũng là con nhà hổ tướng, có thể gánh vác nhiệm vụ lớn.

Đang nói cao hứng, đột nhiên thở mạnh một hơi thật dài.

Địch Thanh không hiểu, hỏi:

-Thánh thượng nếu đã tìm được người để đối phó với Nguyên Hạo vì sao còn thở dài?

Triệu Trinh cau mày buồn rầu nói:

-Vua tôi chúng ta tuy biết rằng Nguyên Hạo dã tâm rất lớn, nhưng đám lão thần trong triều này, nghe tin Nguyên Hạo cầu hòa, xin được mở lại chợ Dác thì đều dâng tấu phân tích nói người Man ở Tây Bắc dễ trấn an, không cần binh đao. Bọn họ già cả nên hồ đồ hết rồi, một lòng muốn cầu ổn định, nhưng không có chí tiến thủ. Hiện giờ trong triều rất nhiều người phản đối việc Trẫm động binh, Trẫm hận một nỗi không thể...đuổi hết đám người bọn họ ra khỏi kinh thành.

Triệu Trinh tuy nói vậy, nhưng trong lòng cũng biết rằng tuyệt đối không thể làm như thế. Thái hậu vừa mất, anh ta đã dứt khoát thay đổi đám quan viên trong triều, đám thần tử thân cận lúc trước lên tiếng vì anh ta, lần lượt bỏ đi lấy lòng Thái hậu. Nhưng bất luận là loại thần tử nào thì xem ra cũng đều rất ghét chiến tranh. Nếu giờ anh ta lại thử thách đám thần tử này, chỉ e không đợi được đến lúc động binh ở Tây Bắc thì Biện Kinh đã bị lọan trước.

Địch Thanh biết trong lòng Triệu Trinh vẫn hận Nguyên Hạo. Thấy Triệu Trinh buồn phiền, Địch Thanh an ủi nói:

-Thánh thượng cũng đừng quá lo lắng. Việc giao chiến này không thể ngày một ngày hai có thể giải quyết được ngay. Phiến loạn Tây bắc xảy ra từ lâu, muốn bình định được thì việc cần gấp nhất lúc này không phải là xuất binh, mà là cho binh sĩ luyện tập chuẩn bị chiến tranh. Thần từng ở Tây Bắc một thời gian, phát hiện quân lính vùng biên thùy trang bị đơn sơ, tướng không biết quân. kỵ binh thiếu thốn, có thể thấy khuyết điểm rất lớn. Nếu thật sự phải xuất binh, thực không dám giấu, phần thắng sẽ không nhiều. Tình hình này nhất định phải thay đổi.

Triệu Trinh tỉnh táo lại, thở một hơi thất dài nói:

-Ngươi nói đúng.

Rồi cười ha hả nói tiếp:

-Địch Thanh, những điều ngươi nói giống với đám người Phạm Trọng Yêm, Bàng Tịch, Âu Dương Tu. Xem ra ngươi cũng có tài năng đấy chứ. Đúng rồi, lần trước Phạm Ung đem tấu chương đến nói, Chủng Thế Hành và ngươi kiến nghị xây dựng lại Khoan Châu, nói rằng nếu xây thành, bên phải có thể giúp thế lực Duyên Châu vững chắc, bên trái có thể tập trung trồng kê cho Hà Đông, phía bắc có thể tính toán cho Ngân Hạ. Ngươi nói rất hay, cả triều nếu bàn về người có chí tiến thủ thì ngươi được tính là một trong số đó.

Địch Thanh xấu hổ nói:

-Thần chẳng qua là nghe Chủng Thế Hành nói thôi. Đây mới chỉ là kiến nghị, còn chủ ý thật sự là của Chủng Thế Hành.

Triệu Trinh nói:

-Sau khi Trẫm nhận được tấu chương của Phạm Ung thì đã khen thưởng hắn, lại bắt đầu sử dụng lại Chủng Thế Hành, bổ nhiệm hắn thành chủ thành sự sửa thành. Đúng rồi...

Triệu Trinh cười đắc ý nói tiếp:

-Thành vẫn chưa xây lên, tuy nhiên Trẫm đã nghĩ kỹ tên cho thành trì rồi, gọi là thành Thanh Giản, Thanh trong từ thiên thanh, Giản trong sơn giản (khe suối). Đây là công đầu tiên mà Địch Thanh ngươi vì Trẫm đã chống lại người Đảng Hạng vùng Tây Bắc đạt được. Thanh Giản, Thanh kiến...haha.

Lúc này Địch Thanh mới hiểu Triệu Trinh đặt tên như vậy là nói Khoan Châu do Địch Thanh hắn xây dựng. Có chút lo sợ, nghi hoặc, cũng có đôi chút cảm động, Địch Thanh đáp:

-Thánh thượng, thành trì do ai xây không quan trọng, nhưng việc Thánh thượng trọng dụng người tài như Chủng Thế Hành mới chính là điều may mắn của Tây bắc.

Triệu Trinh đi tới đi lui trong điện, trầm ngâm nói:

-Trẫm đã điều tra rõ, Chủng Thế Hành cũng là triều thần, chẳng qua vì đắc tội với Thái Hậu mà bị giáng chức. Người như thế nhất định là người chính trực, Trẫm nên trọng dụng.

Địch Thanh thầm nghĩ, Người chưa từng gặp qua Chủng Thế Hành, nếu không thì cũng không thể đưa ra kết luận như vậy. Chẳng qua Thánh thượng coi trọng Tây Bắc như vậy, nếu như ta xin trấn thủ biên cương, nhất định Người sẽ ưng thuận.

Triệu Trinh mừng vui, không nhận ra tâm sự nặng nề trong lòng Địch Thanh, lại nói:

-Có thể kết bạn với người như Địch Thanh ngươi thật tuyệt vời. Đúng rồi, lần trước ngươi còn nói Bao Chửng là người tốt, Trẫm đã tra xét vụ án Phần Châu, phát hiện Nhâm Biện tội ác tày trời nên đã lưu đày đi Lĩnh Nam rồi. Tuy nhiên...tên Bao Chửng này dường như rất quật cường, dám phản bác lại kiến nghị của Trẫm.

Hóa ra Bao Chửng biết tạm thời không có manh mối việc Nhâm Biện câu kết với giáo đồ Di Lặc, chỉ có thể lấy việc Nhâm Biện lấy công cụ của công để dùng cho việc riêng, giết người bừa bãi để tố tội gã. Triệu Trinh luôn cảm thấy Nhâm Biện ở Sơn Tây cũng có chút công lao, cũng không muốn Nhâm Biện bị đầy đi ngàn dặm. Nhưng đã thấy sự kiên quyết của Bao Chửng, dám phản đối đề nghị của Triệu Trinh, cuối cùng dưới sự kiên quyết của Bao Chửng, Lưỡng phủ vẫn quyết định lưu đày Nhân Biệm tới vùng hoang vu cách xa ba ngàn dặm.

Đại Tống xưa nay không xử trảm văn thần mà chỉ lưu đầy Lĩnh Nam. Mặc dù Nhâm Biện tự sinh tự diệt thì đã là sự trừng phạt rất nặng rồi.

*****

Gió xuân ấm áp, nhộn nhịp hỗn loạn. Địch Thanh cô đơn đứng đó, như đang đứng ở đồng cỏ bát ngát, nghe thấy Ông cụ Cao vẫn đang nhiệt tình nói:

-Sau đó cô ấy có gặp lại ngươi chưa? Ta nói cho cô ấy tên của ngươi, xem ra cô ấy rất hài lòng. Cô ấy rất thích Phượng Cầu Hoàng đó, mỗi khi tới đây, cô ấy đều nhìn ngắm rất lâu. Địch tiểu ca, hay là ngươi hãy lấy một giỏ đi, ta đảm bảo ngươi tặng cho cố ấy giỏ hoa này, cô ấy sẽ rất thích.

Địch Thanh muốn nói: "Cô ấy sẽ thích", nhưng cổ họng nghẹn cứng, ngực đau đớn, lâu sau mới cất giọng nhẹ nhàng nói:

-Cô ấy không cần nữa rồi.

Hắn không biết phải dùng hết bao nhiêu công sức mới nói ra được câu này, cuối cùng chỉ cúi đầu.

Ông cụ Cao cuối cùng cũng nhận ra có chút không đúng, vội nó:

-Không cần cũng được.

Đang lúc nói chuyện, bỗng bên cạnh có một bàn tay mập mạp với tay cầm lấy giỏ hoa.

Một người khẽ nói:

-Hoa này... bản công tử muốn có.

Địch Thanh nghe thấy giọng nói quen thuộc, lấy ống tay áo lau mắt, ngẩng đầu nhìn vô cùng kinh ngạc.

Người đang đến đúng là Triệu Trinh, anh ta vẫn ăn mặc như Thánh công tử năm đó, tay cầm quạt giấy, có một người đứng bên cạnh, đó chính là Diêm Văn Ứng. Triệu Trinh nhìn giỏ hoa trên tay Diêm Văn Ứng, rồi lại nhìn Địch Thanh, từ từ bước tới nói:

-Địch Thanh, ngươi có biết vì sao ta muốn giữ ngươi lại kinh thành không?

Địch Thanh lắc lắc đầu. Triệu Trinh sụt sùi nó:

-Bởi vì ngươi và ta quen biết bao năm qua, chưa từng mưu toan gì với ta, ta thực sự rất cần người như ngươi.

Địch Thanh có đôi chút xúc động, nhưng vẫn chỉ nhẹ nhàng lắc đầu.

Phi Tuyết đứng bên nhìn Triệu Trinh và Địch Thanh, ánh mắt vẫn trong veo, ngây thơ, tựa như đang nhìn gì đó, đột nhiên nói:

- Ngươi có biết vì sao hắn nhất định muốn rời Biện Kinh không?

Triệu Trinh hơi giật mình, quay qua nhìn Phi Tuyết, hồi lâu mới nói:

-Ngươi...đang nói chuyện với ta?

Phi Tuyết nhìn đăm đăm vào Triệu Trinh với vẻ bình tĩnh trước sau như một:

-Không sai. Ta đúng là đang nói chuyện với ngươi. Địch Thanh không nợ ngươi gì chứ?

Diêm Văn Ứng quát lớn:

-To gan.

Triệu Trinh khoát khoát tay, cắt ngang tiếng quát của Diêm Văn Ứng, phiền muộn nói:

-Ngươi nói không sai, Địch Thanh quả là không nợ ta, là ta nợ hắn, bởi vậy ta mới muốn bù đắp cho hắn.

-Nếu ngươi là bạn anh ta thì không nên miễn cưỡng anh ta.

Ánh mắt Phi Tuyết lạnh lùng, bình thản nói:

-Chỉ cần ngươi không miễn cưỡng anh ta, anh ta sẽ rất cảm kích ngươi. Anh ta không phải là kẻ tham lam, chẳng qua... anh ta là một kẻ si mê. Rốt cuộc ngươi muốn anh ta cảm kích ngươi cả đời, hay là muốn anh ta ghét ngươi cả đời?

Địch Thanh rất ngạc nhiên, thầm nghĩ vì sao Phi Tuyết lại hiểu rõ chuyện trong lòng hắn như vậy? Những điều Phi Tuyết nói, chẳng lẽ là giúp Địch Thanh giải quyết những khó khăn?

Ánh mắt Triệu Trinh lộ vẻ trầm tư, nhìn Phi Tuyết tràn đầy kinh ngạc.

Phi Tuyết lại nói với Triệu Trinh:

-Ngươi đương nhiên cũng là người có những sở thích, nếu ngươi có thể, liệu có giống được như Địch Thanh? Hãy đặt mình vào địa vị anh ta, ngươi không nên làm khó anh ta nữa.

Sắc mặt Triệu Trinh đã đổi, nhớ tới Vương mỹ nhân, đầu óc rộn ràng.

Chuyện cũ như cát làm mờ mắt, nhưng khó mà thôi lưu luyến.

Địch Thanh cảm kích nhìn Phi Tuyết, rồi lại nhìn Phượng Cầu Hoàng, hạ quyết tâm, bỗng nhiên tiến lên trước, nhìm chằm chằm Triệu Trinh nói:

-Thánh công tử, ta cầu xin công tử một chuyện. Năm đó ta và Vũ Thường gặp nhau ở chùa đại tướng quốc, đã lọt vào mắt xanh của nhau, cùng thề nguyện. Năm đó Địch Thanh chỉ tặng cho nàng một giỏ hoa, nàng đã tặng lại cho hắn một tấm chân tình. Địch Thanh đời này sẽ mãi không quên được Vũ Thường.

Hắn gọi là "Thánh công tử", thứ nhất là biết Triệu Trinh không muốn tiết lộ thân phận, thứ hai còn là giống như đang đùa với Triệu Trinh.

Lúc Triệu Trinh nghe thấy ba từ " Thánh công tử" thì sắc mặt lo lắng, lại nhìn thấy ánh mắt dứt khoát của Địch Thanh, than thở trong lòng, chỉ nghĩ: "Năm đó Trẫm... tại sao lại không có được sự kiên trì như của Địch Thanh. Trẫm không như hắn. Địch Thanh là kẻ có tình, cũng sẽ không vô nghĩa đối với Trẫm, Trẫm hà tất phải đau khổ làm khó hắn nữa?

-Năm đó, lúc đi huyện Củng, thần từng nói: " Vũ Thường, khi ta trở về sẽ thưa chuyện với bá phụ, bá mẫu để cưới nàng. Địch Thanh vô tài, vô thế, chỉ có tấm lòng chân thành" Câu nói này, Vũ Thường ghi nhớ, ta ghi nhớ.

Địch Thanh nhắc lại những lời nói năm đó, cứ như Vũ Thường đang ở trước mặt.

Có lẽ thời gian trôi nhanh, nhưng lời hứa vẫn còn nguyên, và cũng sẽ không thay đổi.

-Ta không biết Vũ Thường liệu có tỉnh lại hay không, ta không biết còn có thể nhìn thấy nàng mở mắt hay không, ta càng không biết liệu có tìm được Hương Ba Lạp hay không.

Mi mắt Địch Thanh ướt ướt, một lúc nhìn Triệu Trinh nói:

-Nhưng ta biết một điều, trái tim này của Địch Thanh mãi mãi không thay đổi.

Hắn nói chắc như đinh đóng cột, cắt tuyết xẻ băng:

-Trong lòng ta, Vũ Thường đã là vợ của ta, bất luận là sống hay chết! Cuộc đời này Địch Thanh không cầu quan cao, không cầu hậu tước, Địch Thanh có thể không cần gì hết, nhưng ta không thể không có tấm lòng của Vũ Thường. Địch Thanh không cầu điều gì, chỉ cầu xin công tử cho ta xuất kinh, lại chiến đấu ở Tây Bắc. Địch Thanh sống cũng được, chết cũng xong, chiến đấu không phụ thiên hạ, lòng không phụ Vũ Thường. Cuộc đời này Địch Thanh không hối hận, không tiếc nuối.

Sau khi nói xong, hắn hành lễ, rồi lại không nói gì nữa. Thân thể cường tráng đó tựa như núi Trầm Ngư, trong hương hoa viết lên niềm vui, nỗi buồn. Hắn đã quyết định, bất luận thế nào cũng phải xuất kinh, không ai có thể ngăn cản được hắn.

Triệu Trinh lặng lẽ nhìn sự kiên trì của Địch Thanh, lâu sau mới nói:

-Lần này ta đến vốn là muốn cho ngươi xuất kinh.

Đột nhiên Địch Thanh ngẩng đầu, ánh mắt có chút bất ngờ, nhưng đầy ý cảm ơn.

Phi Tuyết lại nhìn vẻ mặt của Triệu Trinh, ít nhiều cũng có chút kinh ngạc. Trong đôi mắt trong suốt của nàng tựa như có màn sương mù bao phủ.

Triệu Trinh cầm lấy giỏ Phượng Cầu Hoàng từ tay Diêm Văn Ứng đưa cho Địch Thanh, than thở:

-Ta đã không tặng được cho ngươi cái gì, giỏ hoa này coi như một chút lòng thành của ta. Địch Thanh, Tây Bắc lạnh giá, ngươi phải bảo trọng.

Nói xong, vỗ vỗ vai Địch Thanh. Triệu Trinh có đôi chút rầu rĩ, vốn dĩ muốn nói thêm điều gì đó, cuối cùng lại quay người bước đi.

Bước đi trên phố, Triệu Trinh đột nhiên muốn khóc rống lên, chỉ là đang nghĩ: "Năm đó nếu ta ở trước mặt Thái Hậu, cũng kiên trì như vậy thì kết quả sẽ như thế nào?"

Đáng tiếc có một số chuyện mãi mãi sẽ không có đáp án.

Địch Thanh cầm giỏ hoa, nhìn Triệu Trinh đi xa, trong lúc nhất thời bị kích động không nói được gì, chờ cho tinh thần hồi phục lại, cảm kích nhìn về phía Phi Tuyết, muốn cảm ơn những câu nói ban nãy của cô thì phát hiện Phi Tuyết đã biến mất không thấy đâu nữa.

Nàng lặng lẽ đến, rồi lẳng lặng đi, tựa như khói mà không phải khói.

Phố dài, trăng hoa đẹp đẽ, người con trai cầm bó hoa đứng đó, nhưng lòng thì hướng về phía xa xa, không biết tiếng than thở ở đâu vọng đến phá vỡ ngày dài, bay tới tận quan ải.

Bầu trời rộng lớn, có con chim Ưng bay qua, quanh quẩn phía chân trời xa xa, nhìn xuống chúng sinh, làn sương dày đặc phủ trắng cây cối, những chiếc lá ngả vàng, vạn vật đã bắt đầu vào tiết trời mùa đông.

Vùng Khoan Châu cổ cách đông bắc Duyên Châu hơn hai trăm dặm thiếu đi sự yên lặng đầu đông, nhưng lại có nhiều hơn bầu không khí sục sôi.

Khoan Châu vốn là thành cổ bỏ hoang, trong quá trình tu sửa lại gần một năm nay, đã san mặt đất cao hơn, gọi là thành Thanh Giản.

Kể từ khi triều định hạ chỉ để cho Chủng Thế Hành làm phán quan Phu Châu, sau khi phụ trách việc tu sửa thành Thanh Giản, bách tính ở hai bên thành, bất luận là người Khương hay người Hán đều vui mừng nhảy múa, chủ động đến khiêng đá nâng cao mặt đất, đào hào lũy, mương rãnh.

Trước kia trại Kim Minh ở phía bắc, đa phần là người Khương và người Hán lẫn lộn, nhưng mỗi khi có chiến sự, Đại Tống lúc nào cũng trốn tránh không chịu xuất hiện, giữ vững trại Kim Minh. Từ đó đến nay, phía Bắc là nơi cư ngụ của những người dân không may mắn, liên tiếp bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, khổ không thể tả hết. Lần này xây thành ở phía bắc của trại Kim Minh, mọi người đều không khỏi cho rằng đây là nơi phúc lợi cho dân chúng, nên hăng hái đến giúp đỡ.

Hoàng hôn xuống, một đám quan sĩ đang xác cát vào thành, có một người dân đang đào thành hào kêu lên:

-Cát Đô đầu, mọi người mệt muốn chết rồi, lại đây nói chuyện về Địch chỉ huy giải lao chút đi.

Trời tuy lạnh, vị Cát Đô đầu đó vẫn cởi trần, để lộ ra thân thể cường tráng, trên trán vẫn đẫm mồ hôi. Nghe thấy vậy tháo cát rồi hỏi:

-Hôm qua ta kể đến đâu rồi nhỉ?

Một người đàn ông mặt đỏ bừng tiếp lời:

-Địch chỉ huy đại chiến Thiết Diều Tử, công phá trại Hậu Kiều, phẫn nộ với chuyện của La Hầu Vương, kể tới mười bảy lần rồi...tuy nhiên mỗi lần đều không giống nhau. Nhưng dù sao cũng nghe nhiều rồi, Đô đầu kể cái gì khác mới mẻ hơn đi.

*****

Thường Ninh đáp:

-Địch Thanh vốn 1à diều hâu thì nên có chỗ cho hắn sải cánh. Địch Thanh là nhân kiệt, cũng không cần dựa vào thân phận Hoàng thân, Thường Ninh cũng không mong muốn điều gì, chỉ mong Địch Thanh một mảnh si tình cuối cùng có thể gửi gắm. Không có ai sai cả, nếu thực sự sai thì chỉ sai ở chỗ, Thường Ninh đã gặp đúng người nhưng không đúng dịp.

Nói xong câu này, trong mắt nàng có chút buồn bã, nàng lại hành một lễ rồi nói:

-Thường Ninh về phòng đây. Thánh thượng, Thường Ninh xin cáo lui.

Thường Ninh duyên dáng rời khỏi đế cung, chỉ còn tiếng ngọc bội leng keng quanh quẩn trong gió, như nỗi lòng của người con gái.

Địch Thanh rời cung, trong lòng cũng thấy áy náy. Hắn biết cự tuyệt một người con gái như vậy, thực sự rất khiến cho người ta mất thể diện, nhưng hắn không còn lựa chọn nào khác.

Lúc cần dừng nếu không dừng thì ngược lại sẽ phải chịu kỳ loạn. Hắn thà để cho Thường Ninh hận hắn chứ không muốn có chút vướng mắc nào với nàng.

Lơ mơ đi trên đường, không biết đi bao lâu, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa phảng phất tới, dòng người ồn ào, bất chợt hắn mới phát hiện ra thì ra không do lơ đãng, hắn đã tới trước chùa Đại Tướng Quốc.

Mấy ngày nay hắn cũng không tới chùa Đại tướng quốc, đây vốn là nơi mà hắn và Vũ Thường lần đầu tiên gặp nhau. Hắn không có nhu cầu lui tới nữa, vì chuyện cũ đã khắc sâu trong trí não hắn.

Tâm trí bấn loạn, lơ đãng mà hắn tới nơi đây, nhìn chùa Đại tướng quốc huy hoàng, sáng chói, nhưng trong đầu hắn không có ý định vào trong, bỗng trong lòng nghĩ: "Khi đó, nếu như mình không vào trong chùa Đại tướng quốc thì sẽ không gặp được Vũ Thường. Nếu như mình không gặp Vũ Thường, tuy suốt đời cơ cực thì trong lòng cũng không oán hận. Dù sao.. Vũ Thường cũng sẽ không xảy ra chuyện."

Không thể gạt bỏ cái suy nghĩ này trong đầu hắn, khiến hắn luôn thấy đau đớn trong lòng. Hắn tuy biết Dương Vũ Thường sẽ không hối hận, nhưng sự thủy chung của hắn khó mà mất được.

Lững thững đi qua, vô tình đến trước một lán hoa, trước lán có một cụ già, thấy Địch Thanh thì chào nói:

-Quan khách, ngài chẳng phải là Địch tiểu ca sao?

Địch Thanh ngẩng đầu nhìn lại, nhìn thấy cụ già mặt đầy nếp nhăn, đã nhớ ra người này họ Cao, gật đầu đáp:

-Cao lão trượng, người vẫn bán hoa sao?

Bỗng dưng nhớ lại, lúc trước hắn đã gặp Vũ Thường lần thứ hai ở đây, khi đó đã ngây thơ tặng Vũ Thường một giỏ hoa, tên loài hoa đó là Phượng Cầu Hoàng.

Phố xá kẻ đến người đi, đã cuối xuân, trăm hoa khoe sắc, Địch Thanh ngơ ngác đứng nhìn đám hoa Phượng Cầu Hoàng phía không xa.

Hoa đẹp, nhưng người thì không còn nữa, phố xá nhộn nhịp nhưng lòng thì ở quan ải.

Không biết từ đâu vang lên tiếng đàn trầm tĩnh, khua những đám hoa còn lại bay phấp phới, hoa thương tiếc rơi đầy vai, đầu Địch Thanh, thổi qua những đầu ngón tay đang run rẩy của Địch Thanh.

Hắn chậm rãi bước qua, nhìn đám hoa Phượng Cầu Hoàng thật lâu. Cụ già Cao đến bên hỏi:

-Địch tiểu ca, nếu ngươi thích thì hãy lấy đi.

Cụ già Cao vẫn nhớ rõ ân tình của Địch Thanh ngày trước, nhưng lại không biết chuyện cũ năm đó.

Địch Thanh cười cay đắng, chỉ lắc lắc đầu, quay người bước đi thì nhìn thấy một đôi mắt đang nhìn hắn chằm chằm, trong ánh mắt tràn đầy vẻ trong sáng.

Giống như năm đó.

Mấy năm nhìn lại, vẫn tương tư sớm tối.

Trong lòng Địch Thanh rên lên một tiếng, mơ hồ kêu lên: "Vũ Thường...". Hắn loạng choạng, chỉ tưởng là mộng ảo, nhưng sau khi tinh thần hồi phục lại, sự tiêu điều càng tăng lên, ánh mắt ẩn chứa sự kinh ngạc, ngạc nhiên nói;

-Phi Tuyết, sao lại là cô?

Người nhìn Địch Thanh đó chính là Phi Tuyết.

Địch Thanh chưa từng nghĩ rằng Phi Tuyết lại tới tận Biện Kinh, hắn còn lầm tưởng Phi Tuyết là Vũ Thường.

Đây vốn là chuyện rất kỳ lạ. Phi Tuyết và Vũ Thường là hai loại người hoàn toàn khác nhau, nhưng Địch Thanh mỗi lần thấy Phi Tuyết thì đều chú ý đến đôi mắt mà bỏ qua nhan sắc của cô.

Phi Tuyết lặng lẽ nhìn Địch Thanh, rồi cũng lặng lẽ hỏi:

-Tại sao không phải là ta?

Cô vẫn giữ vẻ bình tĩnh trước sau như một, khó mà thăm dò được sự cổ quái bên trong con người cô.

Địch Thanh nhất thời không thể trả lời, tuy có rất nhiều nghi hoặc nhưng cảm thấy không cần phải hỏi. Vì sao Phi Tuyết tới Biện Kinh, vì sao tới đây, vì sao luôn có vẻ hứng thú đối với hắn?

Chỉ là có hứng thứ, không phải là có tình ý. Địch Thanh hiểu rất rõ ràng điều này.

Trầm ngâm nhìn Phi Tuyết hồi lâu, Địch Thanh mới trả lời:

-Biện Kinh thực ra cũng không tệ.

Mỗi lần gặp Phi Tuyết hắn đều có những ấn tượng khác nhau. Ban đầu hắn bị Phi Tuyết hỏi tên, cảm giác gan nàng to một cách thần kỳ. Sau này tuy biết Phi Tuyết chẳng qua chỉ là tôn nữ của một nguời thợ rèn tầm thường, nhưng cảm giác người con gái này có tinh thần, mưu kế thật phi thuờng. Lần này gặp lại Phi Tuyết, lại thấy trong mắt nàng vẻ như hiểu rất rõ trò đời.

Người con gái này có suy nghĩ khác hoàn toàn khác so với tuổi đời của nàng.

Ánh mắt Phi Tuyết cuối cùng cũng nhìn đi nơi khác, nhìn vào đám người đang nhốn nhao, nói:

-Biện Kinh dường như không tệ, nhưng ta không thích, sự tốt xấu của một nơi không thể dựa vào sự phồn hoa của nơi đó, không thể dựa vào nới đó có nhiều hay ít hoa, không dựa vào nới đó có nhiều hay ít người, chỉ dựa vào tấm lòng ngươi.

" Chỉ dựa vào tấm lòng ngươi"? Địch Thanh lẩm bẩm nhắc lại, trong lòng lại thấy đau buồn.

Những điều Phi Tuyết nói không sai, nơi có Vũ Thường thì đâu đâu cũng đều là tiên cảnh, không có Vũ Thường thì Biện Kinh và Tây Bắc có khác gì nhau?

-Rất nhiều thứ mà người khác cảm thấy rằng rất tốt, rất tốt, nhưng nếu trong lòng ngươi không thích thì là không tốt.

Ánh mắt Phi Tuyết trong suốt, đột nhiên hỏi lại:

-Mặt nạ mà ta tặng ngươi, ngươi có thích không?

Một hồi sau Địch Thanh mới đáp:

-Thích.

Phi Tuyết cười cười:

-Có thể tưởng tượng tất có rất nhiều người không thích, thậm chí là sẽ sợ, sẽ ghét.

Điều nàng nói có hàm ý sâu xa.

Địch Thanh nhíu mày, hồi lâu mới nói:

-Ta nhớ cô muốn ta giúp cô làm một việc, giờ cô sẽ nói với ta chứ?

Ánh mắt trong veo như nước mùa thu của nàng nhìn lại, sau một hồi, ánh mắt có phần nuối tiếc nói:

-Nói rồi ngươi cũng sẽ không đồng ý. Bây giờ ngươi ngay cả Biện Kinh cũng không thể rời đi được, sao có thể cùng ta đi đến nơi thiên sơn vạn thủy?

Địch Thanh hơi ngạc nhiên, không hiểu vì sao Phi Tuyết biết hắn tạm thời không thể rời Biện Kinh. Người con gái này, chẳng lẽ thật sự có trực giác khiến người ta kinh ngạc vậy sao? Phi Tuyết muốn đưa hắn đi đâu?

Thiên sơn vạn thủy? Đó là đi đâu?

Địch Thanh đang vô cùng kinh ngạc, Phi Tuyết lại nhìn đi nơi khác về hướng hoa Phượng Cầu Hoàng, lẩm bẩm nói:

-Hoa năm nay đẹp như hoa năm trước, người năm ngoái đến năm nay đã già, đã biết người già không giống hoa, tiếc cho những đám hoa rơi. Đời người là một chuỗi khổ, thật không giống như hoa nở hoa tàn.

Địch Thanh không biết ý tứ trong câu nói của Phi Tuyết, càng không hiểu vì sao nàng như còn trẻ mà lại đa cảm như vậy. Vừa định rời đi, cụ già Cao đứng bên đột nhiên nói:

-Đúng rồi, Địch tiểu ca, ngươi cầm lấy một giỏ hoa đi, không phải lần trước ngươi cũng tặng cô gái đó một giỏ hoa sao? Cô ấy rất thích hoa này.

Địch Thanh thấy ngực đập thình thịch, giọng có chút run run:

-Vì sao lão biết cô ấy thích hoa này?

Ông cụ Cao cười nói:

-Đương nhiên là ta biết, từ sau khi ngươi tặng hoa cho cô ấy, mấy ngày đó ngày nào cô ấy cũng tới đây, hỏi tên của Địch tiểu ca, hỏi khi nào ngươi sẽ đến, và có đến nữa hay không? Thì sao mà lão không biết được chuyện này? Liên tiếp nhiều ngày cô ấy luôn đi bộ tới đây. Địch tiểu ca, có phải cô ấy đang chờ ngươi không? Ta thấy chắc là cô ấy đang chờ ngươi. Đó là một người con gái tốt, ngươi không nên bỏ qua. Có một lần cô ấy còn tự minh giúp ta bắt sâu cho hoa. Kinh nghiệm chăm sóc hoa của cô ấy không hề thua kẽm lão đâu.

Địch Thanh trong lòng run rẩy, nhớ lại Tiểu Nguyệt từng nói: "Tiểu thư rất yêu thích loài hoa này, chăm sóc rất tốt, cô ấy không cho tôi chăm sóc hoa. Mấy ngày nay cô ấy lại không chăm sóc hoa nữa, chúng tôi đều chờ cô ấy, hoa cũng chờ cô ấy..."

Trong lòng chua xót, Địch Thanh cúi đầu không nói gì, hai giọt nước làm ướt đẫm hàng mi. Gió xuân không hiểu dính đầy tay áo. Hắn chỉ tặng cho Dương Vũ Thường một giỏ hoa, nhưng Dương Vũ Thường đã tặng lại hắn cả một mùa xuân.

Thì ra Vũ Thường vẫn luôn đứng trước mai trong đêm tuyết trông ngóng, thảo nào Vũ Thường gọi hắn là đại ca "Ngốc".

Hắn thực sự quá ngốc, quá ngốc, bởi vì cho đến tận hôm nay, nếu người ngoài không nói thì vẫn còn bao nhiêu chuyện hắn không biết gì.

*****

Gió xuân ấm áp, nhộn nhịp hỗn loạn. Địch Thanh cô đơn đứng đó, như đang đứng ở đồng cỏ bát ngát, nghe thấy Ông cụ Cao vẫn đang nhiệt tình nói:

-Sau đó cô ấy có gặp lại ngươi chưa? Ta nói cho cô ấy tên của ngươi, xem ra cô ấy rất hài lòng. Cô ấy rất thích Phượng Cầu Hoàng đó, mỗi khi tới đây, cô ấy đều nhìn ngắm rất lâu. Địch tiểu ca, hay là ngươi hãy lấy một giỏ đi, ta đảm bảo ngươi tặng cho cố ấy giỏ hoa này, cô ấy sẽ rất thích.

Địch Thanh muốn nói: "Cô ấy sẽ thích", nhưng cổ họng nghẹn cứng, ngực đau đớn, lâu sau mới cất giọng nhẹ nhàng nói:

-Cô ấy không cần nữa rồi.

Hắn không biết phải dùng hết bao nhiêu công sức mới nói ra được câu này, cuối cùng chỉ cúi đầu.

Ông cụ Cao cuối cùng cũng nhận ra có chút không đúng, vội nó:

-Không cần cũng được.

Đang lúc nói chuyện, bỗng bên cạnh có một bàn tay mập mạp với tay cầm lấy giỏ hoa.

Một người khẽ nói:

-Hoa này... bản công tử muốn có.

Địch Thanh nghe thấy giọng nói quen thuộc, lấy ống tay áo lau mắt, ngẩng đầu nhìn vô cùng kinh ngạc.

Người đang đến đúng là Triệu Trinh, anh ta vẫn ăn mặc như Thánh công tử năm đó, tay cầm quạt giấy, có một người đứng bên cạnh, đó chính là Diêm Văn Ứng. Triệu Trinh nhìn giỏ hoa trên tay Diêm Văn Ứng, rồi lại nhìn Địch Thanh, từ từ bước tới nói:

-Địch Thanh, ngươi có biết vì sao ta muốn giữ ngươi lại kinh thành không?

Địch Thanh lắc lắc đầu. Triệu Trinh sụt sùi nó:

-Bởi vì ngươi và ta quen biết bao năm qua, chưa từng mưu toan gì với ta, ta thực sự rất cần người như ngươi.

Địch Thanh có đôi chút xúc động, nhưng vẫn chỉ nhẹ nhàng lắc đầu.

Phi Tuyết đứng bên nhìn Triệu Trinh và Địch Thanh, ánh mắt vẫn trong veo, ngây thơ, tựa như đang nhìn gì đó, đột nhiên nói:

- Ngươi có biết vì sao hắn nhất định muốn rời Biện Kinh không?

Triệu Trinh hơi giật mình, quay qua nhìn Phi Tuyết, hồi lâu mới nói:

-Ngươi...đang nói chuyện với ta?

Phi Tuyết nhìn đăm đăm vào Triệu Trinh với vẻ bình tĩnh trước sau như một:

-Không sai. Ta đúng là đang nói chuyện với ngươi. Địch Thanh không nợ ngươi gì chứ?

Diêm Văn Ứng quát lớn:

-To gan.

Triệu Trinh khoát khoát tay, cắt ngang tiếng quát của Diêm Văn Ứng, phiền muộn nói:

-Ngươi nói không sai, Địch Thanh quả là không nợ ta, là ta nợ hắn, bởi vậy ta mới muốn bù đắp cho hắn.

-Nếu ngươi là bạn anh ta thì không nên miễn cưỡng anh ta.

Ánh mắt Phi Tuyết lạnh lùng, bình thản nói:

-Chỉ cần ngươi không miễn cưỡng anh ta, anh ta sẽ rất cảm kích ngươi. Anh ta không phải là kẻ tham lam, chẳng qua... anh ta là một kẻ si mê. Rốt cuộc ngươi muốn anh ta cảm kích ngươi cả đời, hay là muốn anh ta ghét ngươi cả đời?

Địch Thanh rất ngạc nhiên, thầm nghĩ vì sao Phi Tuyết lại hiểu rõ chuyện trong lòng hắn như vậy? Những điều Phi Tuyết nói, chẳng lẽ là giúp Địch Thanh giải quyết những khó khăn?

Ánh mắt Triệu Trinh lộ vẻ trầm tư, nhìn Phi Tuyết tràn đầy kinh ngạc.

Phi Tuyết lại nói với Triệu Trinh:

-Ngươi đương nhiên cũng là người có những sở thích, nếu ngươi có thể, liệu có giống được như Địch Thanh? Hãy đặt mình vào địa vị anh ta, ngươi không nên làm khó anh ta nữa.

Sắc mặt Triệu Trinh đã đổi, nhớ tới Vương mỹ nhân, đầu óc rộn ràng.

Chuyện cũ như cát làm mờ mắt, nhưng khó mà thôi lưu luyến.

Địch Thanh cảm kích nhìn Phi Tuyết, rồi lại nhìn Phượng Cầu Hoàng, hạ quyết tâm, bỗng nhiên tiến lên trước, nhìm chằm chằm Triệu Trinh nói:

-Thánh công tử, ta cầu xin công tử một chuyện. Năm đó ta và Vũ Thường gặp nhau ở chùa đại tướng quốc, đã lọt vào mắt xanh của nhau, cùng thề nguyện. Năm đó Địch Thanh chỉ tặng cho nàng một giỏ hoa, nàng đã tặng lại cho hắn một tấm chân tình. Địch Thanh đời này sẽ mãi không quên được Vũ Thường.

Hắn gọi là "Thánh công tử", thứ nhất là biết Triệu Trinh không muốn tiết lộ thân phận, thứ hai còn là giống như đang đùa với Triệu Trinh.

Lúc Triệu Trinh nghe thấy ba từ " Thánh công tử" thì sắc mặt lo lắng, lại nhìn thấy ánh mắt dứt khoát của Địch Thanh, than thở trong lòng, chỉ nghĩ: "Năm đó Trẫm... tại sao lại không có được sự kiên trì như của Địch Thanh. Trẫm không như hắn. Địch Thanh là kẻ có tình, cũng sẽ không vô nghĩa đối với Trẫm, Trẫm hà tất phải đau khổ làm khó hắn nữa?

-Năm đó, lúc đi huyện Củng, thần từng nói: " Vũ Thường, khi ta trở về sẽ thưa chuyện với bá phụ, bá mẫu để cưới nàng. Địch Thanh vô tài, vô thế, chỉ có tấm lòng chân thành" Câu nói này, Vũ Thường ghi nhớ, ta ghi nhớ.

Địch Thanh nhắc lại những lời nói năm đó, cứ như Vũ Thường đang ở trước mặt.

Có lẽ thời gian trôi nhanh, nhưng lời hứa vẫn còn nguyên, và cũng sẽ không thay đổi.

-Ta không biết Vũ Thường liệu có tỉnh lại hay không, ta không biết còn có thể nhìn thấy nàng mở mắt hay không, ta càng không biết liệu có tìm được Hương Ba Lạp hay không.

Mi mắt Địch Thanh ướt ướt, một lúc nhìn Triệu Trinh nói:

-Nhưng ta biết một điều, trái tim này của Địch Thanh mãi mãi không thay đổi.

Hắn nói chắc như đinh đóng cột, cắt tuyết xẻ băng:

-Trong lòng ta, Vũ Thường đã là vợ của ta, bất luận là sống hay chết! Cuộc đời này Địch Thanh không cầu quan cao, không cầu hậu tước, Địch Thanh có thể không cần gì hết, nhưng ta không thể không có tấm lòng của Vũ Thường. Địch Thanh không cầu điều gì, chỉ cầu xin công tử cho ta xuất kinh, lại chiến đấu ở Tây Bắc. Địch Thanh sống cũng được, chết cũng xong, chiến đấu không phụ thiên hạ, lòng không phụ Vũ Thường. Cuộc đời này Địch Thanh không hối hận, không tiếc nuối.

Sau khi nói xong, hắn hành lễ, rồi lại không nói gì nữa. Thân thể cường tráng đó tựa như núi Trầm Ngư, trong hương hoa viết lên niềm vui, nỗi buồn. Hắn đã quyết định, bất luận thế nào cũng phải xuất kinh, không ai có thể ngăn cản được hắn.

Triệu Trinh lặng lẽ nhìn sự kiên trì của Địch Thanh, lâu sau mới nói:

-Lần này ta đến vốn là muốn cho ngươi xuất kinh.

Đột nhiên Địch Thanh ngẩng đầu, ánh mắt có chút bất ngờ, nhưng đầy ý cảm ơn.

Phi Tuyết lại nhìn vẻ mặt của Triệu Trinh, ít nhiều cũng có chút kinh ngạc. Trong đôi mắt trong suốt của nàng tựa như có màn sương mù bao phủ.

Triệu Trinh cầm lấy giỏ Phượng Cầu Hoàng từ tay Diêm Văn Ứng đưa cho Địch Thanh, than thở:

-Ta đã không tặng được cho ngươi cái gì, giỏ hoa này coi như một chút lòng thành của ta. Địch Thanh, Tây Bắc lạnh giá, ngươi phải bảo trọng.

Nói xong, vỗ vỗ vai Địch Thanh. Triệu Trinh có đôi chút rầu rĩ, vốn dĩ muốn nói thêm điều gì đó, cuối cùng lại quay người bước đi.

Bước đi trên phố, Triệu Trinh đột nhiên muốn khóc rống lên, chỉ là đang nghĩ: "Năm đó nếu ta ở trước mặt Thái Hậu, cũng kiên trì như vậy thì kết quả sẽ như thế nào?"

Đáng tiếc có một số chuyện mãi mãi sẽ không có đáp án.

Địch Thanh cầm giỏ hoa, nhìn Triệu Trinh đi xa, trong lúc nhất thời bị kích động không nói được gì, chờ cho tinh thần hồi phục lại, cảm kích nhìn về phía Phi Tuyết, muốn cảm ơn những câu nói ban nãy của cô thì phát hiện Phi Tuyết đã biến mất không thấy đâu nữa.

Nàng lặng lẽ đến, rồi lẳng lặng đi, tựa như khói mà không phải khói.

Phố dài, trăng hoa đẹp đẽ, người con trai cầm bó hoa đứng đó, nhưng lòng thì hướng về phía xa xa, không biết tiếng than thở ở đâu vọng đến phá vỡ ngày dài, bay tới tận quan ải.

Bầu trời rộng lớn, có con chim Ưng bay qua, quanh quẩn phía chân trời xa xa, nhìn xuống chúng sinh, làn sương dày đặc phủ trắng cây cối, những chiếc lá ngả vàng, vạn vật đã bắt đầu vào tiết trời mùa đông.

Vùng Khoan Châu cổ cách đông bắc Duyên Châu hơn hai trăm dặm thiếu đi sự yên lặng đầu đông, nhưng lại có nhiều hơn bầu không khí sục sôi.

Khoan Châu vốn là thành cổ bỏ hoang, trong quá trình tu sửa lại gần một năm nay, đã san mặt đất cao hơn, gọi là thành Thanh Giản.

Kể từ khi triều định hạ chỉ để cho Chủng Thế Hành làm phán quan Phu Châu, sau khi phụ trách việc tu sửa thành Thanh Giản, bách tính ở hai bên thành, bất luận là người Khương hay người Hán đều vui mừng nhảy múa, chủ động đến khiêng đá nâng cao mặt đất, đào hào lũy, mương rãnh.

Trước kia trại Kim Minh ở phía bắc, đa phần là người Khương và người Hán lẫn lộn, nhưng mỗi khi có chiến sự, Đại Tống lúc nào cũng trốn tránh không chịu xuất hiện, giữ vững trại Kim Minh. Từ đó đến nay, phía Bắc là nơi cư ngụ của những người dân không may mắn, liên tiếp bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, khổ không thể tả hết. Lần này xây thành ở phía bắc của trại Kim Minh, mọi người đều không khỏi cho rằng đây là nơi phúc lợi cho dân chúng, nên hăng hái đến giúp đỡ.

Hoàng hôn xuống, một đám quan sĩ đang xác cát vào thành, có một người dân đang đào thành hào kêu lên:

-Cát Đô đầu, mọi người mệt muốn chết rồi, lại đây nói chuyện về Địch chỉ huy giải lao chút đi.

Trời tuy lạnh, vị Cát Đô đầu đó vẫn cởi trần, để lộ ra thân thể cường tráng, trên trán vẫn đẫm mồ hôi. Nghe thấy vậy tháo cát rồi hỏi:

-Hôm qua ta kể đến đâu rồi nhỉ?

Một người đàn ông mặt đỏ bừng tiếp lời:

-Địch chỉ huy đại chiến Thiết Diều Tử, công phá trại Hậu Kiều, phẫn nộ với chuyện của La Hầu Vương, kể tới mười bảy lần rồi...tuy nhiên mỗi lần đều không giống nhau. Nhưng dù sao cũng nghe nhiều rồi, Đô đầu kể cái gì khác mới mẻ hơn đi.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-119)


<