← Hồi 053 | Hồi 055 → |
Cát Chấn Viễn hơi đỏ mặt, vâng dạ không nói gì. Địch Thanh cười nói:
- Bọn họ không hiểu Cao đại ca nhưng ta thì hiểu. Cao đại ca dẫn dắt bọn họ, ta cũng có thể yên tâm. Cao đại ca, khi ta đi đã tự nhủ với mình, nhất định phải dẫn bọn họ trở về!
Nói rồi hắn chăm chú nhìn Cao Kế Long.
Cát Chấn Viễn nghe Địch Thanh nói bình thản nhưng rất dứt khoát nên không khỏi xao động trong lòng.
Cao Kế Long chăm chú nhìn Địch Thanh nói:
- Địch huynh đệ, ngươi yên tâm, ta đối xử với bọn họ như đối với ngươi vậy.
Y đưa tay ra nắm lấy dây cương, đưa cho Địch Thanh:
- Địch huynh đệ, chúng ta mới quen mà như đã thân. Ta có được huynh đệ như ngươi, thật sự rất vui mừng. Con ngựa này đã đi theo đại ca nhiều năm, có hơi già nhưng sức mạnh dưới chân vẫn còn, đại ca không có gì tặng cho ngươi, chỉ tặng ngươi con ngựa này, mong rằng... ngươi chớ ghét bỏ.
Địch Thanh thấy con ngựa đó lông màu xanh nhạt, móng lớn, cực kỳ dũng mãnh, rõ ràng là một con ngựa tốt và vẫn là con ngựa mà Cao Kế Long yêu mến. Hắn vốn muốn khước từ nhưng nhìn ánh mắt đầy ân cần của Cao Kế Kong, Địch Thanh không từ chối nữa, nhận lấy dây cương và nói:
- Vậy xin đa tạ Cao đại ca.
Cao Kế Long thấy Địch Thanh không khách khí, trong lòng rất mừng rỡ, lập tức đưa Địch Thanh ra khỏi trại Hậu Kiều.
Địch Thanh dặn dò thuộc hạ mấy câu rồi lập tức tranh thủ buổi đêm thúc ngựa lao về phía đông bắc.
Tiếng vó ngựa xa dần, tiếng ngựa hí từ ngọn núi xa xa vọng lại. Cao Kế Long nhìn theo hướng đó, nhíu mày lẩm bẩm nói:
- Phạm đại nhân tìm Địch huynh đệ, rốt cuộc có chuyện gì gấp đây?
Địch Thanh thúc ngựa quay về, vấn đề hắn đang suy nghĩ giống như Cao Kế Long. Hắn và Phạm Ung vốn không dính líu gì với nhau, nay Phạm Ung vội vã tìm hắn để làm gì?
Địch Thanh nghĩ mãi không hiểu nên quyết định không nghĩ nữa. Đi mãi đến khi trời sáng, hắn thấy hơi mệt mỏi, lúc này mới nhớ ra hắn đã chiến đấu ác liệt suốt cả một ngày một đêm, cho dù người đúc bằng sắt cũng không chống cự nổi.
Địch Thanh nóng lòng trở về để hỏi cho rõ, nếu theo tính cách của hắn, chắc chắn sẽ chạy một mạch về, nhưng thấy con ngựa thở ra cả bạch khí nhuộm sương, hắn thầm nghĩ đây là ngựa của Cao đại ca, phải đối xử tử tế mới được. Chuyện Phạm Ung tìm hắn kể cả có gấp đến đâu thì cũng phải nghỉ ngơi mới có sức để đi tiếp.
Nghĩ đến đây, Địch Thanh thoáng thấy bên đường có tòa miếu đổ nát, hắn thúc ngựa tới, xoay người xuống ngựa, để mặc con ngựa ăn cỏ bên ngoài nghỉ ngơi một lát, còn mình bước vào trong miếu.
Ngôi miếu đổ nát, trong lúc chiến tranh loạn lạc đã không còn tăng nhân từ lâu. Cửa miếu đã bị đổ một nửa bên, trên bàn thờ Phật cúng tượng Phật Như Lai, đầy bụi bặm.
Địch Thanh ngơ ngác nhìn bức tượng Phật Như Lai đó rất lâu, rồi đột nhiên quỳ xuống.
Hắn quỳ gối trước Phật, dáng vẻ cung kính dập đầu.
Trời chưa sáng rõ, sương mù bao phủ. Một con quạ đang đậu trên cành cây khô ngoài miếu, nó nghiêng đầu nhìn người đang quỳ trong miếu, hình như không hiểu nổi người đó tại sao lại quỳ lạy với một tượng Phật bằng gỗ như thế.
Địch Thanh lẩm bẩm trong miệng:
- Như Lai Phật Tổ, ta vốn không tin ngài, nhưng ta lại rất muốn tin ngài biết bao? Hơn một năm qua, ta đi khắp Tây Bắc, cuối cùng không tìm được Hương Ba Lạp, lúc này mới chuyển sang chiến đấu ở biên cương. Địch Thanh vốn không muốn đánh, nhưng lại không thể không chiến. Mấy ngày qua, không biết bao nhiêu người đã chết trong tay ta...
Hắn nói rất nhỏ, thần sắc u buồn, cứ ngây người ra nhìn Phật Tổ Như Lai như vậy, như muốn thổ lộ hết nỗi lòng ẩn chứa rất lâu.
- Đêm qua ta dẫn người đến công phá trại Hậu Kiều, khi thấy khói lửa ngút trời, rất nhiều người chết trận mà không khỏi đau buồn. Ta không biết mình làm đúng hay sai, nhưng ngoài cách này ra ta không còn lựa chọn nào khác. Ta biết hành động này nhất định có tội nghiệp, nhưng tất cả sát nghiệp chỉ mong ngài tính hết lên người Địch Thanh ta, không liên quan đến người khác.
Trong lòng hắn thực sự muốn nói rằng tất cả mọi thứ không dính dáng gì đến Vũ Thường.
Hắn không muốn nói ra, cũng không dám nói và càng không nỡ nói.
Cái tên đó chôn chặt trong đáy lòng hắn quá sâu, nhưng chưa bao giờ rời bỏ, cũng chưa hề thay đổi.
*****
Bỗng dưng nhớ ra, trước đây trên trang bìa trong của đao phổ lộng hành từng trông thấy bốn câu do Lý Tồn Hiếu viết:
"Vị xuất sơn trung tiện uy danh, thiên quân bách chiến ngã hoành hành.
Đả biến thiên hạ vô địch thủ, bất phụ như lai chích phụ khanh!"
(Chưa rời núi trung ao ước uy danh,
Ngàn quân bách chiến ta hoành hành.
Đánh khắp thiên hạ không có đối thủ,
Không phụ Như Lai chỉ phụ khanh!)
Địch Thanh hơi chua xót trong lòng, trước đây khi hắn nhận lấy đao phổ, ý chí rất hăng hái, còn chưa hiểu được hàm ý sâu sa của câu nói đó, thế nhưng giờ hắn mang máng hiểu ra tâm tình của Lý Tồn Hiếu khi viết ra bốn câu này.
Lẽ nào Lý Tôn Hiếu cũng có tâm trạng giống như hắn hiện giờ.
Dù là ngàn quân bách chiến thì sao? Kể cả đánh khắp thiên hạ không có địch thù thì sao chứ?
Có đôi khi, đã bỏ lỡ cả cuộc đời!
Địch Thanh hắn không cầu uy danh, không cần hoành hành, không cầu bễ nghễ thiên hạ, chỉ mong người trong mộng liếc mắt một cái với mình thì cuộc đời này đã trọn vẹn rồi.
Năm tháng trôi đi quá nhanh, dù có nhớ được chuyện xưa thì cũng sao có thể quay về được khoảng thời gian đó?
Khóe mắt ươn ướt, gương mặt tuấn tú cứng đơ lại, Địch Thanh nhìn tượng Phật kia, Phật chủ cũng như đang nhìn hắn. Mãi sau, Địch Thanh mới nói tiếp:
- Địch Thanh biết sát nghiệt nặng nề, bản thân không có mặt mũi nào cầu xin nhiều thứ. Tuy nhiên nếu Phật tổ thương ta đã làm một số việc cỏn con cho dân chúng Tây Bắc thì xin ngài một ngày nào đó hãy chỉ đường cho Địch Thanh tới Hương Ba Lạp, đời này Địch Thanh sẽ không bao giờ quên ân tình đó.
Dứt lời, Địch Thanh dập đầu sát đất lạy tạ. Một lúc lâu sau mới đứng dậy nghiêng người dựa vào hương án, chìm sâu vào giấc ngủ.
Trời mờ mờ sáng, gió rét đã ngừng thổi, chim chóc cũng thôi không hót nữa, chúng đang lặng lẽ nhìn chàng trai mệt mỏi ngủ trước hương án kia.
Một tia nắng nhẹ chiếu lên người chàng trai tóc mai đã hoa dâm kia, đôi mắt nhắm chặt lại, bất ngờ chảy ra hai giọt nước mắt.
Nước mắt trong suốt lăn xuống gương mặt cương nghị, tạo nên đường cong mềm mại.
Địch Thanh mở mắt ra, quay đầu lại nhìn Phật tổ lần nữa, rồi đứng dậy và ra khỏi miếu.
Tuấn mã hí dài, như đang kể chuyện mà cũng như muốn an ủi. Địch Thanh chỉ vỗ vỗ đầu ngựa, nhẹ nhàng nói:
- Ngựa à, vất vả cho ngươi rồi. Chúng ta đi thôi.
Hắn xoay người lên ngựa, không cần giơ roi, tuấn mã đã bốn vó lao thẳng về hướng Đông Bắc.
Ngựa phi nhanh như gió, chưa đến giờ Ngọ đã tới địa giới của Diên Châu. Đi thêm nửa canh giờ nữa, thành Diên Châu đã ở trong tầm mắt.
Địch Thanh ghìm ngựa đi chậm, hắn lại suy nghĩ không biết Phạm Ung tìm hắn có việc gì, đúng lúc này, bên đường bỗng lao ra một bóng người, chặn lại trước ngựa!
Địch Thanh kinh ngạc, tuấn mã đột ngột dựng đứng lên, hắn quát:
- Ngươi... ấy, sao lại là ngươi?
Người chặn ngựa lại đó vẫn đi một đôi giày cỏ hở đầu ngón chân trong khi thời tiết sắp vào đông thế này, ngoài Chủng Thế Hành ra thì còn ai nữa?
Địch Thanh thật sự rất ngạc nhiên, thầm nghĩ Chủng Thế Hành này đúng là âm hồn không tan, vừa mới đây ở Diên Châu, tối qua đã chạy tới Bảo An Quân, hôm nay sao lại chặn hắn ở Diên Châu?
Người này là thần tiên hay là con giun trong bụng hắn vậy? Nếu không sao lại biết rõ hành tung của hắn như thế?
Chủng Thế Hành như đã nhìn ra suy nghĩ của Địch Thanh, vừa cười vừa nói:
- Địch chỉ huy, ta không phải thần tiên, ta cố ý chờ ngươi ở đây.
Nói xong gã há miệng ngáp một cái.
Địch Thanh xuống ngựa, đứng trước mặt Chủng Thế Hành, ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi chờ ta làm gì? Sao ngươi biết ta sẽ đi đường này?
Hắn càng nghĩ càng khó lý giải nổi, lông mày nhíu chặt lại.
Chủng Thế Hành tỏ vẻ rất oan uổng liền nói:
- Ngươi không phải là vợ của ta, ngươi nói xem ta đợi người làm gì!
Địch Thanh hỏi vặn lại:
- Ngươi cũng có vợ sao?
Hắn thầm nghĩ nếu ngươi có vợ trời sáng mới quay về, ngươi thật sự phải đợi. Loại người keo kiệt như thế, sao lại có ai chịu lấy gã chứ?
Chủng Thế Hành khẽ mỉm cười:
- Thật hổ thẹn, ta không những có vợ mà còn có ba con trai.
Gã thở dài nói tiếp:
- Ôi, nuôi con thật khó. Vất vả mới buôn được chút muối xanh, còn bị sung quân.
Nói rồi gã nhìn Địch Thanh đầy kỳ vọng.
Địch Thanh mới nhớ ra tên Chủng Thế Hành này đúng là không có việc sẽ không tìm tới, dứt khoát là yêu cầu chuyện muối xanh kia. Hắn cau mày nói:
- Ta đồng ý việc của ngươi thì sẽ làm cho ngươi, có điều hiện giờ ta khá bận...
*****
- Bận đi gặp Phạm đại nhân sao?
Chủng Thế Hành giảo hoạt hỏi.
Địch Thanh lại ngạc nhiên, mãi sau mới nói:
- Sao ngươi lại biết?
Chủng Thế Hành cười ha hả:
- Chuyện này nói toạc ra chẳng có gì lạ. Phạm đại nhân tìm ngươi khắp Bảo An Quân, ta tình cờ biết được liền tìm người thay người đưa tin chuyển lời đến, nếu không người đưa tin đó làm sao tìm được Cao Kế Long, sao biết được ngươi đang ở trại Hậu Kiều chứ? Ta biết nếu ngươi không chết, nhất định sẽ không giải quyết chuyện muối xanh trước mà sẽ vội quay về Diên Châu, vì thế liền vượt lên trước đợi ngươi ở con đường phải đi qua.
Địch Thanh giật mình, buồn cười nói:
- Đống muối xanh đó mặc dù bán được ít tiền, nhưng đáng để ngươi phí công vậy không?
Chủng Thế Hành vỗ đùi, nhe răng đáp:
- Ngươi còn có chút thông minh, biết lão đợi ngươi còn có chuyện khác.
Địch Thanh nhìn lên trời xanh, dắt ngựa bước đi:
- Vừa đi vừa nói chuyện.
Hắn sớm đã nhìn ra Chủng Thế Hành mặc dù nhìn như con buôn nhưng lại là người có tâm, vì thế không từ chối tán gẫu với gã.
Chủng Thế Hành lê gót giầy đi theo Địch Thanh, nói ngay vào vấn đề:
- Tiểu tử... ta thấy ngươi rất có đầu óc, thực ra là có khiếu buôn bán.
Địch Thanh cười nói:
- Lẽ nào ngươi thật sự muốn cùng làm ăn với ta sao? Ngươi không sợ phải đền bù chết ngươi ư?
Chủng Thế Hành ‘phì’ một tiếng, nói tiếp;
- Ngươi không thể nói điều gì may mắn sao?
Gã hơi trầm ngâm:
- Lão có đầu óc, tiểu tử ngươi có dũng lực, chúng ta hợp tác với nhau sẽ có cả dũng lẫn mưu, làm ăn còn chẳng phải là một bữa ăn sáng sao? Độ tinh khiết của muối xanh Tây Bắc tốt hơn rất nhiều so với muối phân giải của chúng ta ở đây... Lão bôn ba đã lâu, nhận ra chỉ buôn bán mới kiếm được nhiều tiền.
Địch Thanh cũng biết chút ít về chuyện muốn xanh và muối phân giải.
Đại Tống đều có hạn chế đối với việc buôn bán muối và trà, muối biển chuyển vào đất liền, do chi phí vận chuyển làm cho giá cả cực kỳ cao. Muối phân giải là một loại muối tự sản xuất nơi biên thùy, họ khai khẩn đất đai, dẫn nước ao vào, tự nhiên sẽ phong hóa thành muối, nhưng tạp chất rất nhiều, mùi vị cũng kém hơn nhiều so với muối biển, giá cả cũng không hề rẻ.
Muối xanh được người Khương đặc biệt bán ở Diêm Châu và Linh Châu, chất lượng rất tốt mà giá cả phải chăng, vì thế người Tống nơi biên thùy thường mua muối xanh dùng hàng ngày. Người Khương thiếu thốn vật phẩm nên cũng dựa vào việc bán muối xanh để đổi lấy những đồ dùng hàng ngày như lương thực, tiền, đồng sắt và thư tịch của Đại Tống.
Chủng Thế Hành nói mà nước miếng bay tứ tung, khoa tay múa chân:
- Nói thật với ngươi, hiện giờ người Đảng Hạng đột nhiên xuất binh, các cuộc chiến ở Tây Bắc dừng lại hoàn toàn, làm ăn gián đoạn. Người Tống vội, người Khương cũng vội nên cần có chỗ làm ăn. Chúng ta chỉ cần cung cấp nơi buôn bán, lấy tiền hoa hồng và thuế thì ngân lượng kia chẳng phải ào ào tới sao?
Địch Thanh nói:
- Việc này triều đình không cho phép.
Chủng Thế Hành xảo quyệt nói:
- Lệnh của triều đình luôn luôn thay đổi, khi có lệnh cấm, chúng ta đương nhiên phải kiềm chế lại, nhưng nếu hủy bỏ lệnh cấm, cơ hội này chẳng phải đã tới rồi sao? Mọi việc dự trù trước, chúng ta sớm chuẩn bị thì sẽ sớm có ngày kiếm được bộn tiền.
Địch Thanh nghĩ thầm:
"Những thứ ngươi nói này có quan hệ gì đến ta?"
Lão đầu này mỗi lần nói chuyện đều không phải không có mục đích."
Trong lúc suy nghĩ, Địch Thanh buột miệng hỏi:
- Kiếm tiền có ích lợi gì?
Chủng Thế Hành nhìn Địch Thanh như nhìn quái vật:
- Ngươi nói gì? Cả đời lão đây là lần đầu tiên nghe có người hỏi như vậy, thật không biết trả lời thế nào.
Địch Thanh thở dài, chân thành nói:
- Chủng lão trượng, tiền đối với ta không có tác dụng lớn lắm... Chuyện này, có thể ta không giúp được ngươi rồi! Ta còn phải đi gặp Tri Châu đại nhân...
- Đợi một chút.
Chủng Thế Hành vội vàng nói:
- Chẳng lẽ ngươi không biết, có tiền sẽ có thể mua trang bị sao? Trại Tân của chúng ta đến giờ vẫn còn cực kỳ rách nát, tại sao, chẳng phải là triều đình không cấp tiền sao! Ngươi muốn tăng cường cho biên phòng thì nhất định phải có tiền.
Địch Thanh tim đập thình thịch, ít nhiều đã hiểu được dụng tâm của Chủng Thế Hành, liền gật đầu nói:
- Ngươi nói cũng đúng. Nhưng ta có thể làm gì đây?
Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh đã thả lỏng, liền gian xảo nói:
- Việc ngươi làm được nhiều lắm, lần này chẳng phải ngươi muốn đi gặp Phạm tri châu sao?
Thấy Địch Thanh gật đầu, Chủng Thế Hành nói:
- Vùng Diên Châu này là thiên hạ của Phạm tri châu, ngươi có thể nói việc này với lão ta...
Địch Thanh hờ hững trả lời:
- Đề nghị lão ta buôn lậu muối xanh ư? Ngươi có bệnh chứ ta thì không.
Chủng Thế Hành thở dài:
- Đầu óc ngươi bị vó ngựa đá sao? Những lời chúng ta nói hôm nay đương nhiên không thể nói y như thế với Phạm tri châu, chúng ta có thể nói cách khác...
Gã xoa cái đầu hói, lại vò mấy sợi tóc, rành mạch nói:
- Ngươi có thể nói như vậy... Ngươi nói người Đảng Hạng có dã tâm như sói, lần này tấn công Bảo An Quân, lần sau không biết sẽ tiến công nơi nào. Diên Châu này nếu có sơ suất, Phạm tri châu chắc chắn phải gánh trách nhiệm không thể đùn đẩy, trại Kim Minh mặc dù không kém nhưng dù sao cũng quá lẻ loi, nếu có thể xây thêm một chỗ để bảo vệ cho phía bắc của Diên Châu, đó là chuyện ổn thỏa nhất.
Địch Thanh hứng thú lắng nghe:
- Sau đó nếu thành trì thật sự được xây xong, chúng ta có thể chống lại người Đảng Hạng ở ngoài sáng, ngấm ngầm buôn lậu muối xanh kiếm tiền sao?
Thấy ánh mắt Chủng Thế Hành sáng lên hưng phấn, Địch Thanh hỏi:
- Vậy chọn địa điểm ở đâu mới được?
Chủng Thế Hành nói:
- Nơi này đương nhiên phải không được tu sửa đã nhiều năm, còn ở cánh sườn của trại Kim Minh, tốt nhất gần phía trước để tránh việc làm ăn bị trại Kim Minh cướp mất...
Địch Thanh tiếp lời:
- Tốt nhất còn có thể xây thành men theo đường dây cung đã vẽ ra lần trước, tới khi đó chúng ta có thể tìm cớ xây thành là để giành lấy Tuy châu của người Đảng Hạng? Thực ra chúng ta ngấm ngầm khống chế sợi dây đó, không để cho người khác can thiệp vào chuyện làm ăn của chúng ta.
Chủng Thế Hành thở dài nói:
- Nếu ngươi thật lòng muốn làm ăn thì sẽ không có đường sống cho người khác... Đáng tiếc... tâm tư của ngươi không nằm ở đây. Nếu theo ý của lão thì xây thành ở Khoan Châu là tốt nhất. Khoan Châu cách Hà Đông cũng gần, chúng ta còn có thể chuyển lương thực ở đó tới Diên Châu bán.
Khoan Châu vốn là vùng đất cổ, nằm cách hơn trăm dặm về phía Đông Bắc giữa trại Kim Minh và Diên Châu, hiện đã hoang vu từ lâu.
Địch Thanh nghĩ một lúc lâu, lẩm bẩm nói:
- Nghe ngươi nói như vậy thì xây thành ở đó quả thực không tồi. Một là xây thành có thể củng cố phòng thủ của Diên Châu, hai là có thể giành lấy Tuy Châu, tấn công qua Hoành Sơn để chuẩn bị. Ba là việc trung chuyển lương thực chuẩn bị chiến đấu cũng thuận tiện.
Chủng Thế Hành thấy Địch Thanh nói như thế bèn phấn khích xoa tay tiếp lời:
- Nói hay lắm, ta không nghĩ nhiều như tiểu tử nhà ngươi. Nghe nói Phạm đại nhân đối xử với ngươi rất tốt, tới khi đó ngươi hãy nói những chuyện này với lão ta xem...
- Tại sao ta phải nói?
Địch Thanh đột nhiên phản ứng:
- Thật ra ta cũng là người làm ăn, việc không có lợi sẽ không làm. Chuyện này đối với ngươi mà nói là rất hay, nhưng ta lại không có chút lợi lộc gì.
Chủng Thế Hành nghẹn họng nhìn trân trân, mãi sau mới cất giọng:
- Ngươi muốn lợi ích thế nào?
Địch Thanh đảo con ngươi, nhớ ra một việc liền nói:
- Ta nhớ ngươi từng nói, có người họ Tào đang bán bản đồ của Hương Ba Lạp, ngươi mua tấm bản đồ đó tặng ta, ta sẽ giúp ngươi nói chuyện này.
Hắn không tin thật sự có cái gì mà bản đồ của Hương Ba Lạp, mất bao lâu tìm kiếm như thế, chỉ ôm ý muốn được xem một chút.
Chủng Thế Hành đỏ mặt, gào lên như giết lợn:
- Chi bằng ngươi giết ta đi còn hơn. Tên họ Tào đó đã ra giá hai mươi lượng vàng liền.
Địch Thanh xoay mình lên ngựa, ung dung nói:
- Tùy ngươi thôi, dù sao chuyện này với ta có cũng được, không cũng chẳng sao.
Nói xong hắn liền rời đi, Chủng Thế Hành la ầm lên như bị cắt thịt:
- Được lắm, coi như ta sợ ngươi rồi, ta đi tìm tên họ Tào, ngươi đi tìm Phạm đại nhân đi.
Địch Thanh bật cười, thúc ngựa tiến vào thành Diên Châu.
Men theo con phố dài của cổ đạo tới trước phủ Tri Châu, không đợi Địch Thanh thông báo danh tính thì Cảnh Phó đã bước ra, thấy Địch Thanh liền kéo hắn lại, vui vẻ nói:
- Ngươi đã về rồi sao, Tri châu đại nhân đang chờ ngươi.
Địch Thanh hạ giọng hỏi:
- Cảnh tòng quân, Phạm đại nhân tìm ta có chuyện gì vậy?
Cảnh Phó thì thầm đáp lại:
- Không phải Phạm đại nhân tìm ngươi, là Thánh thượng có chỉ, lệnh cho ngươi lập tức hồi kinh! Phạm đại nhân không dám chậm trễ mới phát công văn khẩn tìm ngươi.
Địch Thanh giật mình và hơi kinh ngạc:
- Thánh thượng tìm ta làm gì?
Cảnh Phó gượng cười nói:
- Điều đó chúng ta làm sao biết được? Có điều ý chỉ của Triều đình, kể cả Phạm đại nhân cũng không dám chậm trễ.
Trong khi nói chuyện, hai người đã bước ào phòng, Phạm Ung đang thưởng thức ca múa, thấy Địch Thanh tới liền lệnh cho ca múa tạm dừng, đứng dậy ra đón Địch Thanh:
- Địch Thanh, đi đường vất vả rồi.
Phạm Ung bước tới, đưa bàn tay mập mập trắng trắng nắm lấy tay Địch Thanh, nhẹ nhàng như tình nhân gặp nhau. Lão nhìn Địch Thanh từ trên xuống dưới, thấy hắn không thiếu tay thiếu chân mới thở phào trong lòng, thầm nghĩ:
"Tên Địch Thanh này thật không đơn giản, thánh thượng đã hạ chỉ bảo hắn hồi kinh, không biết sẽ cắt cử trọng trách gì đây? Ta vốn không nên sai Địch Thanh đến Bảo An Quân, nếu thật sự xảy ra chuyện ắt chọc giận thiên tử, lão phu chỉ sợ phải cắm rễ ở Tây Bắc rồi. Lần này hắn hồi kinh, mong hắn nhân tiện giúp lão phu nói mấy lời hay."
Địch Thanh chắp tay thi lễ, cuối cùng rụt tay về và nói:
- Phạm đại nhân, ta và Cao... đám người Vũ Anh vừa phá xong trại Hậu Kiều đã nghe đại nhân điều lệnh, không biết có gì dặn bảo?
Cảnh Phó mừng rỡ hỏi:
- Các ngươi đã công phá được trại Hậu Kiều sao? Đúng là một tin tốt lành.
*****
Phạm Ung cũng hơi ngạc nhiên, liên tục gật đầu nói:
- Tốt, tốt lắm. Bản phủ nhất định sẽ ghi công lao cho ngươi, lập tức bẩm báo Triều đình.
Dừng lại một chút, Phạm Ung kéo Địch Thanh ngồi xuống.
Phạm lão phu từ trước đến nay đều coi thường Vũ Anh, kể cả với Hạ Thủ Vân cũng có lúc không hề khách khí như vậy.
Trầm ngâm một lát, lão nói tiếp:
- Địch Thanh, thật ra chuyện là như vậy. Thánh thượng phái người truyền chỉ, bảo ngươi sau khi nhận chỉ lập tức phi ngựa mau chóng quay về Kinh thành, vì thế bản phủ mới gấp rút lệnh gọi ngươi về.
Phạm Ung làm ra vẻ quan tâm, nói:
- Bản phủ đã chuẩn bị lộ phí cho ngươi rồi, trên đường ngươi cầm công văn của bản phủ, có thể trưng mã, dùng thuyền, dọc đường không phải lo gì cả.
Địch Thanh đứng dậy thi lễ:
- Phạm đại nhân đã chiếu cố, ty chức xin khắc ghi trong lòng.
Câu này của hắn cũng rất thật lòng, mặc dù Phạm Ung không có gì nổi bậtnhưng vẫn luôn đối xử tốt với hắn, ít nhất lúc đầu khi ở Tân Trại, nếu không có lão, Địch Thanh cũng không chịu nổi áp lực của Hạ Thủ Vân.
Phạm Ung tươi cười, thầm nghĩ tên Địch Thanh này có chút đầu óc. Trước mắt quân Tống đã phá trại Hậu Kiều của người Đảng Hạng, nghe Hạ Thủ Vân nói, người Đảng Hạng của Bảo An Quân cũng có dự định rút quân. Phạm Ung nghe nói Địch Thanh quen biết Thiên tử nên mới tặng lộ phi ban ơn cho hắn, chỉ cần Địch Thành chịu nói vài lời hay cho lão trước mặt Thiên tử thì lão nhờ vào những công lao này, về kinh có hy vọng rồi.
Nghĩ đến đây, Phạm Ung đỡ Địch Thanh dậy nói:
- Địch Thanh, bản phủ tiễn ngươi lên đường.
Lão kéo tay Địch Thanh ra khỏi phủ Tri châu định dặn dò mấy câu thì Địch Thanh bất ngờ nói:
- Phạm tri châu, ty chức còn có chuyện muốn bẩm báo.
Thấy Phạm Ung gật đầu, Địch Thanh liền nói qua đề nghị của Chủng Thế Hành, đương nhiên sự việc được nói đơn giản hơn, có thêm có bớt.
- Chuyện này vốn do Chủng Thế Hành đề xuất, ty chức thấy khả thi. Ty chức... còn chuẩn bị nói chuyện này với Thánh thượng.
Phạm Ung kiên trì nghe xong, chỉ thấy Địch Thanh bắt chó đi cày, không hài lòng lắm. Thế nhưng nghe thấy câu cuối cùng của Địch Thanh, lão liền thay đổi suy nghĩ, chuyện tu sửa thành trì không có rủi ro còn được coi như có công lao, lại bán ân tình của Địch Thanh, sao không biết thời biết thế chứ? Lão mỉm cười đáp:
- Địch Thanh, việc này bản phủ sẽ lập tức dâng bản sớ lên nói rõ với Thánh thượng, ngươi không cần làm thêm hành động thừa này nữa.
Địch Thanh lôi chuyện của Triệu Trinh ra là muốn để Phạm Ung coi trọng việc này, mục đích đã đạt được, hắn cung kính nói:
- Phạm đại nhân biết lắng nghe như vậy, Thánh thượng nếu có hỏi đến phong tình ở Tây Bắc, ty chức chắc chắn sẽ bẩm báo đúng sự thật.
Phạm Ung nghe Địch Thanh dông dài mãi, thấy câu này nghe xuôi tai liền nở nụ cười tươi rói.
Địch Thanh lập tức cáo từ, hắn vẫn cưỡi con ngựa mà Cao Kế Long tặng, lòng vòng mãi rồi cũng nhận lấy không khách sáo, hắn đi thẳng theo hướng đông nam, qua Đồng Quan rồi men theo Hoàng Hà xuống phía đông, thẳng tiến tới Biện Kinh.
Đi đường không phải một ngày, dọc đường mưa gió cùng với tuyết rơi liên miên, trời đã vào đông rét mướt.
Địch Thanh ngày đi đêm nghỉ, một ngày đã tới thị trấn nhỏ Hiếu Nghĩa. Đúng lúc tuyết rơi nhiều, đường khó đi, Địch Thanh thương xót con ngựa, thấy trời đã hoàng hôn mà không tìm được dịch quán, vì thế quyết định tìm nhà trọ nghỉ ngơi một đêm.
Sau khi vào nhà trọ, Địch Thanh tìm phòng để hành lý, sau đó kêu ít rượu và thức ăn, gọi tiểu nhị tới dò hỏi:
- Tiểu nhị, nơi này cách Biện Kinh bao xa nữa?
Tiểu nhị đáp:
- Khách quan, đi về phía trước ba mươi dặm nữa sẽ tới Củng huyện. Qua Củng huyện đi xuyên qua kênh đào sẽ cách kinh thành không xa nữa. Nếu trước đây không có tuyết rơi, cưỡi ngựa nhanh thì hai ngày là tới, nhưng con đường này khó đi, muốn đi Biện Kinh e rằng phải bốn, năm ngày nữa.
Địch Thanh nhìn tuyết rơi bên ngoài, lẩm bẩm nói:
- Hóa ra... sắp tới Củng huyện rồi.
Hóa ra... hắn đã cách vũ Thường không xa nữa.
Tuyết lạnh rơi như hoa mai, trắng xóa một vùng, trong đống tuyết mênh mông đó, có những bông tuyết bay lơ lửng, như có thiếu nữ xinh đẹp đang đạp tuyết tìm mai, tươi cười nhìn quanh.
Địch Thanh vừa uống rượu vừa ngắm tuyết, đang lúc say sưa thì nghe thấy bên ngoài có tiếng bước chân vang lên, có hai người mặc áo tơi đang bước vào, mang theo một cơn gió lạnh.
Địch Thanh bèn liếc nhìn, thấy hai người đó đều dùng mũ đi mưa che mất nửa bên mặt, bước chân nhẹ nhàng. Địch Thanh cúi đầu xuống, thầm suy xét, hai tên này không giống dân thường, thời tiết này mà đi đường gấp rút như thế, không hiểu là vì cái gì?
Trong phòng chỉ có mỗi một người khách là Địch Thanh, vì thế hai người đó đưa mắt liếc nhìn Địch Thanh.
Tuy nhiên thấy Địch Thanh đầu đội mũ mềm, cúi đầu uống rượu, bộ dạng rất bình thường, hai người đó cũng không để ý nữa. Tiểu nhị chạy ra đón, hai người chỉ gọi rượu ấm rồi vùi đầu uống, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa hàng, giống như đang đợi ai đó.
Mặc dù Địch Thanh thấy hai người đó có phần kỳ dị nhưng không muốn để ý nhiều đến chuyện vớ vẩn, nhìn tuyết rơi mỗi lúc một dày, hắn nảy ý định đi ra ngoài một chuyến. Nghĩ là làm, hắn khoác áo ra khỏi nhà trọ.
Lúc này hoàng hôn đã buông xuống, gió càng thêm lạnh, tuyết rơi nhiều như lông ngỗng đổ ập vào đầu vào mặt hắn, Địch Thanh lơ đễnh, cứ đi theo chiều gió, đột nhiên ngửi thấy mùi hương thơm dìu dịu.
Hắn đi tìm theo mùi thơm, thấy bên đường cách đó không xa có cây mai nghiêng nghiêng. Cành mai khô cứng treo đầy dây ngọc, nếu không phải nhờ hương thơm thì mọi người rất khó phân biệt là hoa nở hay là tuyết rơi.
Trời đông lạnh lẽo hoa mai nở, tự cho mình là thanh cao, kèm theo vẻ hào hùng giữa trời đất.
Có một người đang đứng cạnh cây mai, nghe thấy tiếng bước chân vang tới liền quay đầu nhìn, thấy Địch Thanh đi tới, người đó hơi ngạc nhiên, lý do chính là gã không ngờ rằng đêm lạnh như vậy cũng có người bồi hồi trên đường.
Địch Thanh thấy người đó có vóc dáng trung bình, quần áo rách nát, sau lưng đeo bọc quần áo cũng rách rưới như thế. Da gã hơi đen, tướng mạo uy nghiêm, hai mắt nhìn sắc lạnh như thấu rõ trò đời.
Hai người nhìn nhau giây lát, người đó đã chắp tay nói:
- Vị huynh đài, xin mời, tới đây để thưởng mai sao?
Địch Thanh không ngờ câu nói của người đó đã nhìn thấu tâm tư hắn nên hơi kinh ngạc, chỉ gật đầu.
Người đó thấy Địch Thanh im lặng không nói, biết hắn không thích đáp lời liền gật đầu, cất bước rời đi. Không ngờ trời lạnh tuyết cứng, người đó trượt chân suýt ngã xuống đất.
Địch Thanh giơ tay ra, kéo cổ tay và nhẹ nhàng giữ người đó lại.
Người đó lúc này mới nhìn thấy hình xăm trên mặt Địch Thanh, ánh mắt có vẻ ngạc nhiên, thế nhưng không hề sợ hãi hay khinh miệt, gã chỉ hỏi:
- Huynh đài có thân thủ thật tốt.
Địch Thanh bật cười, nhận thấy người đó nói năng thanh nhã, giống văn nhân hơn nên mỉm cười nói:
- Trời lạnh đường trơn, hãy cẩn thận hơn.
Người đó cũng cười, khi gã không cười trông vẻ mặt uy nghiêm, nhưng khi cười thì rạng rỡ như hoa nở ngày xuân:
- Đa tạ huynh đài nhắc nhở, xin hỏi gần đây có nhà trọ nào không?
Địch Thanh chỉ vào căn nhà trọ mình đang ở:
- Thị trấn này chỉ có nhà trọ đó.
Người đó chắp tay tỏ ý cảm tạ rồi sải bước rời đi.
Địch Thanh đứng trước cây mai, người con gái xinh đẹp đó như lại hiện ra trước mắt, tuyết rơi nhiều, nụ cười yếu ớt, hương thơm mát, tình ấm nồng.
- Vũ Thường, nàng vẫn khỏe chứ?
Địch Thanh lẩm bẩm một mình.
Hơn một năm qua, chỉ khi không có người hắn mới hỏi như vậy, nhưng không có ngày nào đêm nào hắn không thôi nhớ nhung. Gió lạnh thổi qua, Địch Thanh giơ tay ra chạm vào những bông hoa mai như tuyết mà giống như chạm vào người trong mộng.
Lâu sau – hắn mới xoay người lại, mang theo gió tuyết trở về.
Tuyết rơi lặng lẽ, tiếng gió thổi nghẹn ngào, tiếng bước chân lách cách, như khẽ than về tình thâm duyên cạn trên thế gian này.
Địch Thanh chưa bước vào nhà trọ, bỗng nhiên nghe thấy trước cửa có người nói:
- Đúng rồi, chính là hắn.
Giọng nói đó dù nhỏ nhưng Địch Thanh nghe rất rõ ràng.
Mặt khác có người nói:
- Hạ thủ trong đêm là được.
Bỗng dưng giọng nói ấy ngưng bặt, rõ ràng đã nghe thấy tiếng bước chân của Địch Thanh.
Địch Thanh không dừng chân, vẫn trở về phòng như không có chuyện gì, thấy phòng đối diện còn sáng đèn, hắn thầm nghĩ người thưởng mai lúc nãy chắc đang ở trong đó. Hai người nói chuyện vừa rồi chính là hai người uống rượu đợi người lúc trước, bọn chúng muốn ra tay với ai? Chẳng lẽ muốn hạ thủ với Địch Thanh ta?
Địch Thanh nhíu mày, vừa ngồi xuống giường bỗng nhiên ánh mắt đăm chiêu nhìn quanh khắp nơi.
Trong phòng vẫn bài trí như cũ, nhưng Địch Thanh biết chắc chắn có người đã vào phòng, bọc quần áo hắn để trên giường có vẻ khác thường, nút thắt trên đó hơi khác.
Có người đã động vào bọc đồ của hắn!
Địch Thanh trông thì có vẻ tùy ý nhưng cực kỳ tỉ mỉ, nút thắt trên bọc quần áo của hắn rất đặc biệt, người ngoài rất khó làm theo. Người động vào bọc đồ này dù cũng cẩn thận, cố hết sức không để Địch thanh phát hiện ra hành tung, thế nhưng vẫn lộ ra sơ hở trên nút thắt đó.
Địch Thanh không hô tiểu nhị bắt trộm, chỉ giả vờ như không có chuyện gì, nhẹ nhàng và khéo léo mở bọc quần áo ra.
Ngân lượng và quần áo trong đó không mất, công văn của Phạm đại nhân cũng còn nguyên.
Địch Thanh chỉ để những đồ vật bình thường trong bọc quần áo, vật quan trọng luôn mang theo bên người, thấy tình hình như thế bèn nghĩ:
"Người này là ai? Nếu là kẻ trộm chắc chắn không thể không lấy ngân lượng đi, nhưng nếu không phải trộm đồ đạc thì nó đến là vì ta!"
Hắn suy nghĩ kỹ càng, trong chốc lát đã nghĩ thông suốt điểm này nên càng thấy lạ lùng. Chuyện hắn phi ngựa quay về Biện Kinh là bất ngờ, ngoài Phạm Ung ra hẳn ít người biết việc này, ai cố ý đến đây vì hắn? Địch Thanh hắn có chỗ nào mà thu hút mọi người đến vậy?
*****
Địch Thanh trầm ngâm một lát liền đẩy cửa ra gọi:
- Tiểu nhị, mang ít nước nóng lại đây.
Trong lúc gọi, hắn cúi đầu nhìn ra trước cửa, ở đó có lều ngăn tuyết đọng, ngoài lều không để lại dấu chân của ai.
Tên trộm đó rõ ràng cũng là người cẩn thận, theo đường chính mà đến nhưng không hề để lại dấu vết.
Đợi tiểu nhị đưa nước nóng tới, Địch Thanh cảm ơn và hỏi:
- Tiểu nhị, vị khách ở phòng đối diện là mới đến sao?
Tiểu nhị gật đầu nói:
- Đúng thế, vị khách đó mặc dù mặt đen nhưng rất nhã nhặn, có điều nhìn có vẻ nghèo, mặc quần áo rách, tiền thưởng cũng không cho một xu.
Địch Thanh cười cười, nghe vậy biết nhã ý liền nhét một xâu tiền vào tay tiểu nhị, hỏi tiếp:
- Hai người ban nãy uống rượu ở tiền sảnh là người trong vùng sao? Ngươi có quen không? Bọn họ đang ở đâu?
Tiểu nhị được tiền thưởng, mặt mày hớn hở, lắc đầu nói:
- Tuyệt đối không phải người bản địa, người trong thị trấn này tiểu nhân đều biết. Hai người đó ở sát vách của khách quan, nhưng lúc này chỉ đang uống rượu, chưa ngủ.
Địch Thanh gật đầu, cảm ơn tiểu nhị, sau khi về phòng tắm rửa liền tắt đèn khoanh chân ngồi trên giường. Hắn vận khí tập trung tinh thần, nhìn ra ngoài cửa sổ, cũng để ý tới động tĩnh sát vách.
Đêm khuya chìm sâu, Địch Thanh đợi đến nửa đêm cũng không nghe thấy bên cạnh có người, thầm nhíu mày, đột nhiên nghe thấy phòng đối diện có người quát:
- Các ngươi làm gì thế?
Địch thanh rùng mình, thầm kêu không xong rồi, hai người đó không phải vì hắn mà đến, mục tiêu muốn động thủ lẽ nào là người mặt đen thưởng mai kia?
Hắn nghĩ đến đây rồi khẽ đẩy cửa đi ra, lướt qua tới dưới cửa sổ phòng đối diện, nghiêng người nép vào tường, một ngón tay chọc rách giấy dán cửa sổ để nhìn rõ tình hình trong phòng.
Người mặt đen khoác áo đứng trong phòng, vẻ mặt nghiêm nghị. Có hai người đối diện với gã, tay cầm đơn đao, chính là tửu khách mặc áo tơi.
Tửu khách đứng bên tay trái cười nhạt nói:
- Ngươi không biết chúng ta muốn làm gì sao? Nếu biết điều thì mau lấy thứ đó ra, ngươi có thể không chết. Nếu ngươi không biết điều, ha ha.
Y giương cao đơn đao trong tay, ánh đao sáng ngời, chói sáng khuôn mặt ngựa dài dài của y.
Người mặt đen vẫn bình tĩnh, lạnh lùng nói:
- Các ngươi là do Nhâm Biện phái tới sao?
Tên mặt ngựa đó khẽ giật mình, cười khà khà:
- Hắc than đầu, sao ngươi biết?
Địch Thanh đang suy xét trong lòng xem cuối cùng ba người này có khúc mắc gì với nhau, tuy nhiên hắn tin người mặt đen hơn là vì đôi mắt của người đó.
Đôi mắt kia không có sự sợ hãi, không hoang mang, chỉ có sự bất khuất và nghiêm nghị.
Đôi mắt người mặt đen sáng sắc lạnh, cười nói:
- Các ngươi lén lén lút lút đến, quên thay áo tơi. Trên áo các ngươi còn có ký hiệu của Phúc Ký kìa. Phúc Ký vốn là tên gọi cũ của Phần Châu ở Sơn Tây, ta vừa từ Phần Châu trở về, các ngươi từ đó theo ta tới, đương nhiên là do Phần Châu tri châu sai khiến rồi!
Địch Thanh giật mình, không lý giải nổi tại sao Phần Châu tri châu lại phái người từ ngàn dặm xa xôi tới giết người mặt đen kia.
Người mặt ngựa đó khí sắc u ám, người bên cạnh vén chiếc nón tre lên, để lộ khuôn mặt gầy gò hung ác, y quát:
- Không sai, chính Nhâm đại nhân bảo chúng ta tới. Hắc than đầu, ngươi không nói ra việc này, huynh đệ ta còn bỏ qua cho ngươi...
Địch Thanh nhìn thấy mặt người đó chợt giật mình, chỉ thấy mang máng đã gặp qua người này. Thế nhưng rốt cuộc đã gặp ở đâu, hắn nhất thời chưa nghĩ ra.
Người mặt đen chậm rãi nói:
- Ta đã vạch trần lai lịch của các ngươi rồi, các ngươi đương nhiên phải giết người bịt miệng chứ? Nhưng e rằng các ngươi không nghĩ tới, khi ta rời khỏi Phần Châu đã viết tấu chương, liệt kê từng tội trạng của Nhâm Biện, trạm dịch đã chuyển tới triều đình. Kể cả ta chết ở đây, Nhâm Biện cũng không thoát khỏi sự trừng phạt!
Tên mặt ngựa trái lại nở nụ cười:
- Chúng ta chỉ quan tâm tới chuyện giết ngươi, Nhâm Biện có thể thoát tội hay không, không nằm trong phạm vi xem xét của chúng ta.
Người mặt đen hơi kinh sợ trong lòng, thầm nghĩ nghe giọng điệu của hai tên này thì không phải thuộc hạ của Nhâm Biện, hai người này từ đâu tới? Dù sợ hãi nhưng hắn vẫn bình bĩnh đáp lại:
- Chỉ sợ... các ngươi không có bản lĩnh ấy.
Gã bất ngờ giơ tay ra, nâng chiếc bàn lên.
Tên mặt ngựa và tên hung ác đều kinh ngạc, dù biết người này là văn nhân, tuyệt đối không phải đối thủ của bọn chúng, thế nhưng bọn chúng vẫn lùi lại phía sau một bước. Người mặt đen dùng lực ném, bàn rơi xuống đất, rầm một tiếng đã thấy gãy thành mấy miếng.
Chiêu này thật sự kỳ quái, tên mặt ngựa lúng ta lung túng, còn tên hung ác kia đã hiểu ra, cười lạnh lùng nói:
- Ngươi cố ý gây âm thanh, cho rằng người khác sẽ đến cứu sao? Bao hắc đầu, ngươi nhầm rồi! Chẳng ai dám đến cứu ngươi đâu! Ta nói cho ngươi biết, nếu ngươi thật sự không sợ chết thì không nên để người ngoài đến chết cùng.
Người mặt đen đó cực kỳ căng thẳng, lúc này bất ngờ bên ngoài phòng có một người cất giọng nói:
- Ngươi sai rồi, vẫn có người dám ra tay đấy.
Hai người mang nón tre đều kinh ngạc, quay đầu lại nhìn, thấy cửa phòng đột nhiên mở, một cơn gió lạnh ùa vào khiến bọn chúng phải đứng ép sát vào tường, tập trung tinh thần chống đỡ.
Địch Thanh đã ôm vỏ đao dựa vào cạnh khung cửa, nụ cười vẫn giữ trên khóe miệng nhưng ánh mắt lại có hào quang lóe lên.
Hắn nhìn chằm chằm tên mặt mũi hung ác kia, thoáng cái như đang hồi ức lại chuyện cũ. Cuối cùng hắn đã nhớ ra y là ai!
Người mặt đen đó tỏ ra vô cùng mừng rỡ, gã đang đợi Địch Thanh thì hắn quả nhiên đã tới.
Tên hung ác nham hiểm đó thấy Địch Thanh nhìn mình nhưng không nhớ ra Địch Thanh là ai, thấy vẻ mặt hắn tự nhiên mà không khỏi kinh hãi, y quát:
- Ngươi bớt lo chuyện không đâu đi, ở đây không có việc của ngươi.
Địch Thanh lắc đầu nói:
- Xa quản gia, ngươi nhầm rồi, ở đây có việc của ta.
Người hung ác đó khi nghe thấy ba chữ ‘Xa quản gia’ liền lùi lại
Người đó chính là Xa quản gia, thuộc hạ của Triệu huyện lệnh ở Tây Hà trước đây, vốn là giáo đồ Di Lặc. Lúc đó giáo đồ Di Lặc tạo phản, Quách Tuân bắt Côn Tử và Tác Minh, cố ý thả Xa quản gia về sào huyệt, sau đó đánh gọn một mẻ lưới các giáo đồ Di Lặc, tuy nhiên tên Xa quản gia này cuối cùng không gặp lại.
Chuyện cũ như khói bay đi, Địch Thanh cũng không ngờ hai người lại gặp lại nhau ở đây.
Địch Thanh biết người trước mặt là Xa quản gia liền nghĩ đến:
"Theo lời Diệp Tri Thu, Phật Di Lặc ở thung lũng Phi Long là Triệu Doãn Thăng, Tứ Đại Thiên Vương đều là người trong Bát bộ, còn tên Xa quản gia trước mặt thì sao, rốt cuộc là giáo đồ Di Lặc bị mê hoặc hay là người Tống sống nương nhờ vào người Đảng Hạng? Sao y có quan hệ với Phần Châu tri châu?"
Bộ mặt Xa quản gia co quắp, hung dữ nhìn chằm chằm vào Địch Thanh nhưng không nhận ra hắn là ai. Mấy năm nay Xa quản gia không thay đổi diện mạo là mấy, nhưng Địch Thanh trải qua mấy năm vất vả rèn luyện, từ lâu đã không còn trẻ trung ngây ngô như trước, Xa quản gia sao nhận ra được?
- Ta tên là Địch Thanh.
Địch Thanh nhắc lại:
- Lúc trước ngươi và Triệu Vũ Đức làm xằng làm bậy, chặt đứt chân của đại ca ta, lẽ nào ngươi không nhớ sao?
Xa quản gia giật mình, nhớ lại chuyện cũ liền cười ha hả nói:
- Hóa ra ngươi chính là tên tiểu tử đã nấp dưới xe. Địch Thanh, trước đây ngươi tòng quân chạy thoát, hôm nay sẽ không có vận may như thế nữa đâu.
Mặc dù y cho rằng Địch Thanh rất có thể sẽ liều mạng, nhưng y cũng không chút sợ hãi.
Địch Thanh đã sớm học được cách che giấu nỗi tức giận, bình tĩnh nói:
- Mấy năm nay ta luôn không gặp may mắn, nhưng hôm nay vận khí ta rất tốt... lại gặp được ngươi. Xa quản gia, nếu ngươi có thể chặt đứt hai chân của mình, sau đó quỳ xuống xin ta, ta sẽ không giết ngươi.
Xa quản gia cười ha hả, cười chảy cả nước mắt, chỉ vào Địch Thanh nói:
- Chỉ dựa vào hai ngươi thôi sao?
Mặc dù y đang cười, nhưng trong tiếng cười đã có chút e ngại.
Địch Thanh vẫn lạnh lùng đáp:
- Đúng thế!
Hắn mới vừa nói xong, Xa quản gia đã phi người nhào tới.
Đồng bọn của Xa quản gia gần như đồng thời lao tới, vung đao ra chém.
Người mặt đen thấy tình thế như vậy, quá sợ hãi kêu lên:
- Huynh đài cẩn thận.
Vừa dứt lời đã nghe thấy mấy tiếng bang bang vang lên, Xa quản gia kêu gào thảm thiết rồi té lăn trên đất.
Còn đồng bọn của Xa quản gia đã ngất đi từ lâu.
Địch Thanh chưa rút đao khỏi vỏ đã đánh xỉu tên mặt ngựa đó, chặt gãy hai chân của Xa quản gia, tiện tay chém đứt luôn hai cánh tay của y.
Xa quản gia đau nhức khắp người, hai cánh tay cũng gãy, không thể lật mình được, đau đớn không tả nổi, gào thét:
- Địch Thanh, ngươi thật là ác độc!
Người mặt đen tỏ vẻ không nhịn nổi nữa, nhưng vẫn trầm ngâm không nói.
Địch Thanh cười lạnh lùng:
- Ta ác sao? Tứ chi của ngươi đều đã gãy, đau lắm phải không? Hơn nghìn người ở thung lũng Phi Long trước đây chết thảm vì các ngươi, phải tìm ai để nói cho rõ đây?
Xa quản gia đầm đìa mồ hôi, nghiến răng nói:
- Ngươi hãy giết ta đi.
Địch Thanh không để ý tới Xa quản gia mà nhìn người mặt đen hỏi:
- Huynh đài, còn chưa thỉnh giáo đại danh, những người này sao lại muốn giết ngươi?
Người mặt đen đó chắp tay nói:
- Đa tạ Địch huynh giúp đỡ, tại hạ Bao Chửng, tự là Hi Nhân...
← Hồi 053 | Hồi 055 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác