Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Danh môn - Hồi 325

Danh môn
Trọn bộ 340 hồi
Hồi 325: “Toái Diệp tiêu tức”
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-340)

" Cổ Đại". Giọng nói của Thôi Diệu run rẩy, đầy sự kích động. Cái tên đó đã nhiều lần vang lên trong giấc mơ của hắn. Nhưng giờ đây: " Thật là nàng sao. Không phải là ta đang nằm mơ đấy chứ"

Cổ Đại quá đỗi vui mừng khi Thôi Diệu tỉnh lại, những giọt nước mắt hạnh phúc cứ thế lăn dài trên má nàng. Nàng chậm rãi quỳ xuống bên cạnh tình lang. Nàng lau đi những giọt nước mắt hạnh phúc, đồng thời vuốt ve khuôn mặt gầy gầy xương xương, xạm nắng xạm gió của Thôi Diệu. Nàng nghẹn ngào nói: " Cái người ác tâm này, thiếp cứ nghĩ chàng sẽ không sống nổi đâu, chàng có biết chàng đã hôn mê bao lâu rồi không hả"

Thôi Diệu chỉ cảm thấy thân thể cực kỳ suy nhược, bản thân hắn cũng không biết mình đã hôn mê bao lâu nữa, Mọi chuyện với hắn cứ như ngày hôm qua vậy. Hắn đưa tay phải nắm thật chặt lấy bàn tay mềm mại của Cổ Đại. Trong lòng trào dâng biết bao nhiêu ngàn vạn những tình cảm, những lời nói. Đôi môi hắn mấp máy, nhưng cuối cùng hắn chỉ nói một câu: " Vì nàng, ta tuyệt đối sẽ không đi tìm cái chết đâu"

Nghe xong những lời ân tình ấy, Cổ Đại lại khóc như mưa, nước mắt cứ thế tuôn trên đôi má hồng. Suốt một tháng gian khổ bôn ba, suốt một tháng kiên trì không quản gió mưa để đi tìm tình lang. Nàng đã phải vượt qua bao hiểm nguy. Đã có lúc nàng mệt mỏi, mềm yếu muốn trở về nhà, sống yên ổn bên phụ thân. Nhưng nếu như thế thì những lời thệ hải minh sơn với ái lang đã tan thành mây khói rồi. Bỗng nhiên Cổ Đại ôm mặt khóc rưng rức. Tất cả hạnh phúc cùng với những vất vả, đắng cay đều được dòng nước mắt ấy cuốn trôi đi hết.

" Chàng có biết không? Tới hôm nay là chàng đã hôn mê ba ngày bốn đêm rồi đấy. Mỗi ngày, thiếp chỉ còn biết cho chàng uống nước, cố gắng hết sức để duy trì tính mạng cho chàng. Chàng làm thiếp lo lắng muốn chết đi được" Cổ Đại vừa nói, vừa dùng cái muỗng nhỏ bón cho hắn một chút nước mát mà nàng vừa lấy từ con suối ở ngay trước mặt. Nàng hé miệng cười rồi nói tiếp: " Thật ra thì ngay lúc ở Mộc Lộc thành thiếp đã nhìn thấy chàng rồi. Lúc đó thiếp cảm thấy người mặc bộ trang phục đen, che cả kín cả khuôn mặt đó trông rất giống chàng. Nhưng thiếp cũng không dám khẳng định chắc chắn, cho nên thiếp mới bám theo. Thật là quá nguy hiểm, nếu như thiếp không nhanh trí thì có lẽ giờ đây chúng ta đã âm dương cách biệt mất rồi. Chàng biết không, khi thiếp nghe nói chàng bị người Đại Thực bắt đi rồi, thiếp luôn nghĩ cách để cứu chàng ra, nhưng thật sự cho đến tận lúc này thiếp cũng chưa nghĩ ra cách nào để cứu chàng ra được"

Nói đến đây, dường như Cổ Đại lại muốn bật cười, bật cười vì tạo hóa đã thương xót bọn họ. Suốt một tháng lầm lũi hành trình tìm kiếm thì bỗng vô tình nàng lại gặp được tình lang của mình trong chốn sa mạc này. Cổ Đại tựa hồ còn rất nhiều lời muốn nói, nàng nói không chỉ bằng miệng mà ánh mắt của nàng cũng toát ta đầy sự hưng phấn, sung sướng. Nghĩ đến điều gì đó nàng bỗng nhiên nhướng mày hỏi Thôi Diệu: " Nhưng đám binh lính Đại Thực kia tại sao lại muốn đuổi giết chàng chứ. Chẳng lẽ chàng đã chạy trốn hay sao"

Cánh tay trái của Thôi Diệu ngoài việc bị chém mấy nhát đao ra, còn bị gãy xương nữa. Cũng may là Cổ Đại sớm phát hiện nên đã tìm mấy thanh gỗ làm nẹp để cố định lại chỗ xương gẫy đó rồi. Hắn tuyết đối không thể cử động cánh tay trái đó. Lúc này, Thôi Diệu thoải mái nằm ngửa trên một tấm nệm êm ái mà Cổ Đại đã công phu dùng thứ cỏ mềm để sắp xếp. Sau mấy ngày hôn mê chỉ uống nước cầm hơi, cho nên bây giờ hắn cảm thấy đói bụng, hắn đang nhớ tới những cái bánh mỳ thơm ngon, cho nên khi đáp lời Cổ Đại hắn cũng có phần mơ hồ: " Là bọn người ở Ba Cách Đạt muốn giết huynh, sở dĩ như vậy là vì huynh bị cuốn vào vòng xoáy đầu tranh quyền lực trong nội bộ Đại Thực. Tóm lại một lời thì không thể nào nói hết được chuyện này đâu. Chỉ lo không biết những người tùy tùng kia có thể giữ nổi tính mạng không nữa"

" Vẫn còn có bảy người sống sót mà, buổi sáng hôm nay bọn họ có tụ tập lại. Và hiền tại đã quay trở lại địa điểm cũ để tìm kiếm cái gì đó"

Thôi Diệu nghe vậy, ngẩn người ra, hắn kinh ngạc hỏi: " Là sao, nơi này chẳng lẽ là ốc đảo sao"

" Đến bây giờ huynh mới nhận ra điều đó hay sao hả" Cổ Đại liếc nhìn Thôi Diệu rồi nũng nịu nói tiếp: " Ốc đảo này, cách chỗ huynh vị tập kích chừng hơn năm mươi dặm. Chúng ta đã giết binh lính Đại Thực, nếu không trốn đi xa thì huynh nghĩ xem chúng ta liệu còn giữ nổi mạng sống hay không"

Thôi Diệu suy nghĩ một chút, xác nhận những lời của Cổ Đại quả thật rất đúng, binh lính Đại Thực vì cưỡi ngựa cho nên không thể nào tiến vào vùng sa mạc được, thế cho nên hắn mới có cơ hội chạy thoát được. Rồi đột nhiên Thôi Diệu như nghĩ ra chuyện gì đó, hắn cuống quyết sờ vào trong ngực áo. Sắc mặt đại biến. Phong thư mà Lạp Hy Đức đích thân viết đã không còn trong người hắn nữa rồi.

" Huynh đang tìm cái này có phải không" Cổ Đại lấy từ trong cái túi da ở bên cạnh một cái hộp nhỏ bằng vàng. Khi mở hộp ra, Thôi Diệu thấy tín thư của Lạp Hy Đức vẫn còn nguyên vẹn, không có bất cứ hao tổn gì cả. Đến lúc này hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi đưa tay nhận lấy chiếc hộp từ Cổ Đại và cẩn thận cất chiếc hộp đó vào trong ngực áo của mình. Hắn trầm tư một lát rồi nói với Cổ Đại: " Hiện tại ta mang trên mình một sứ mệnh quan trọng không thể nào trễ nải trên hành trình được. Chờ sau khi những người kia quay trở về, chúng ta sẽ lập tức lên đường để sớm trở về Trường An

Cả một vùng bình nguyên Quan Trung lại đang bước vào vụ hè thu. Khắp nơi, đâu đâu cũng là những ruộng lúa vàng óng, trĩu bông. Cả một cánh đồng vàng ngút ngàn tầm mắt như không có giới hạn. Ở các thửa ruộng nông dân đang bận rộn thu hoạch lúa của nhà mình, những tiếng cười nói, hân hoan rộn rã. Năm ngoái Quan Trung xảy ra nạn hạn hán, cho nên sản lượng thu hoạch bị sụt giảm mất bốn phần. Rồi phải chi viện cho chiến tranh nữa, cho nên vô hình chung sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường phần nào rơi vào tình trạng thiếu lương thực. Một đấu gạo tăng lên tới ba trăm năm mươi văn tiền. Lập tức triều đình phải tiến hành điều tiết ba trăm vạn thạch lương thực từ vùng Hoài Nam tới để giải quyết tạm thời tình trạng thiếu lương thực ở đây. Và hôm nay, cả Đại Đường lại bước vào một vụ thu hoạch mới, cũng rất may là cho tới tận đêm trước của ngày thu hoạch vẫn không hề xuất hiện thiên tai hay địch họa gì cả. Cho nên nhân dân cả một vùng bình nguyên Quan Trung ai nấy cũng đều vui mừng, phấn khởi. Bắt đầu từ trung tuần tháng sáu không chỉ Quan Trung mà thậm chí là cả Đại Đường cũng bước vào vụ gặt. Sau vụ thu hoạch hè thu, thì toàn bộ Hoài Bắc và một bộ phận các ruộng ở chân đất cao của Quan Trung, Hà Đông, Lũng Hữu lại bắt đầu bước vào cấy vụ lúa nước thứ hai trong năm. Còn các chân ruộng thấp hơn thì người dân cũng cho trồng các loại đậu đỗ. Còn ở khu vực phía nam của Hoài Thủy, khu vực này có đủ điều kiện để trồng cấy hai vụ lúa. Và lúc này, nơi đây cũng đang bước vào thu hoạch lúa sớm.

Mặc dù triều đình một mực khích lệ và thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, nhưng vẫn luôn xác định nông nghiệp trước sau gì cũng là cơ sở để lập quốc. Dân lấy lương thực, ăn uống no đủ làm đầu. Điều này đã khắc sâu trong suy nghĩ và hành động của mỗi người dân thậm chí là mỗi viên quan của Đại Đường. Và cứ vào tháng sáu hàng năm chính là lúc mà cuộc sống ở Đại Đường trở nên bận rộn nhất trong năm. Từ hoàng đế tới từng cửu phẩm Chủ bạ, cho đến các quan viên đều phải xuống đến tận đồng ruộng. Tất cả bọn họ đều đội nón cỏ, tay cầm lưỡi hái, tay quệt mô hôi toát ra như tắm, hoàn toàn giống như một bách tính lao động bình thường. Đây là cảnh thường thấy của thời hoàng triều thịnh thế. Suốt một dải đất từ vùng ngoại ô phía đông của thành Trường An cho tới Tân Phong huyện, chính là khu vực gần với sông Vị Hà, cho nên ngay từ xưa nơi đây đã là một vùng đất giàu có của cả Quan Trung. Vốn dĩ chỗ này phân bố tổng cộng là hơn một ngàn nông trang lớn nhỏ. Phần lớn là tài sản riêng của các hoàng thân, quyền quý. Nhưng với việc thanh lọc và bãi bỏ nhưng đặc quyền của người trong hoàng thất ở năm Đại Trị thứ nhất và việc bãi bỏ chế độ nô lệ từ năm Đại Trị thứ tư, Trương Hoán thật sự đã thực hiện một cuộc cải cách lớn, mang tầm chiến lược: một số lượng lớn nông trang biến mất, hiện tại còn sót lại chưa đến một trăm nông trang. Số này phần lớn là đất đai thế tập vĩnh nghiệp của các đại gia tộc. Còn lại rất nhiều ruộng đất đã được chia cho nông dân, và dĩ nhiên là bọn họ trở thành những người có tài sản. Mỗi hộ tùy theo có thể nhận từ mười lăm đến hai mươi mẫu ruộng. Ngoại trừ binh lính có công và quan lại ra, còn tất cả đều nộp thuế lên triều đình với mức hai mươi phần trăm. Các loại thu nhập khác triều đình không đánh thuế người dân được hưởng hoàn toàn. Đồng thời triều đình còn ban ra thánh chỉ, nói rõ rằng, mức thuế ấy sẽ được thực hiện trong vòng năm mươi năm, cho dù gặp hoàn cảnh nào cũng không thay đổi. Điều này đã giúp cho dân chúng không còn băn khoăn lo ngại gì cả, tất cả đều yên tâm làm ăn, tăng gia sản xuất.

*****

Nếu như ai khôn khéo hay tinh ý một chút sẽ nhận ra chính sách mới về nông nghiệp của triều đình có điểm rất độc đáo. Đó là mỗi hộ dân dù nhân khẩu nhiều hay ít cũng đều được nhận cùng một tiêu chuẩn ruộng đất. Như vậy vô hình chung, quy mô của các hộ sẽ nhỏ đi đồng thời việc sinh con gái cũng sẽ trở thành một phong trào phổ biến. Điều này cũng chính là điều mong muốn của những nhân vật đầu não trong triều đình. Họ mong muốn rằng trong năm mươi năm này, số lượng nhân khẩu cùng ruộng cày có thể khôi phục đạt mức như năm Thiên Bảo thứ nhất, khi đó dân số Đại Đường là năm ngàn vạn người.

Sáng sớm hôm nay, Trương Hoán đã dẫn theo tất cả các quan lại trong triều đình đi tới ngoại ô phía đông của thành Trường An để giúp dân chúng thu hoạch lúa. Vị hoàng đế này, đầu đội mũ nan, chân đi giày vải, trên người mặc một chiếc áo ngắn, tay cầm lưỡi hái cùng thu hoạch lúa với dân chúng. Nhìn Trương Hoán như một nông dân thứ thiệt vậy. Đây cũng không phải là lần đầu tiên vị hoàng đế này cùng tham gia cắt lúa với bà con. Ngay từ lúc còn ở Võ Uy, Lũng Hữu, Trương Hoán cũng đã dẫn theo các quan viên của mình giúp dân chúng thu hoạch lúa. Và từ đó việc làm này đã trở thành thông lệ. Đối với các quan viên thì điều này không hề bắt buộc, tất cả đều có thể tham gia hoặc không tham gia. Nếu có thành ý thì tới, còn không muốn đi thì cũng không cần miễn cưỡng. Nhưng có điều đây cũng là một dịp để khảo hạch về điều thiện quan trọng nhất trong bốn điều thiện của kẻ làm quan: nghe được điều đức nghĩa.

Có thể cùng tham gia gặt lúa với dân chúng cũng chưa chắc là có thể nghe được những điều đức nghĩa. Nhưng nếu không tham gia thu hoạch lúa hay tham gia qua loa hời hợt cho có mặt thì tuyệt đối sẽ không thể nào nghe được dù chỉ một lời bàn luận về đức nghĩa. Hàng năm đều có các Ngự sử giám sát đi các nơi để điều tra, thu thập về tình hình quan lại ở các địa phương. Dĩ nhiên các Ngự sử giám sát này, một là không hỏi các quan viên, hai là không vào nha môn mà bọn họ đến tận các bờ ruộng, gặp từng người dân để hỏi han về các quan viên của địa phương đó. Ngoài ra, các Ngự Sử Giám Sát này còn thường xuyên nhận được các báo cáo bí mật của các phòng Giám sát. Ánh mắt của nhân dân sáng rõ như tuyết, sẽ không dễ dàng tha thứ cho bất cứ tên tham quan, hay những tên quan biếng nhác nào cả. Cho nên mỗi vụ thu hoạch lúa, các quan viên của Đại Đường đều ra tận ruộng, cùng với bách tính tham gia làm lụng trên các thửa ruộng.

" Bệ hạ, người cũng nên nghỉ ngơi một lát đi thôi" Hàn tướng quốc đứng thẳng người, lau mồ hôi cười nói với Trương Hoán.

Trương Hoán cũng gật đầu cười nói: " Được rồi, chúng ta nghỉ ngơi một chút đi"

Hắn nhìn về phía xa xa thấy nhi tử Lý Kỳ của mình đang thỉnh giáo một lão nông về cách cắt lúa. Trương Hoán cũng không quấy rầy việc làm của Lý Kỳ. Hắn ngồi bệt xuống một bờ ruộng ở gần đó để nghỉ ngơi. Một tên thị vệ bưng tới cho hắn một siêu nước. Sau khi uống mấy ngụm nước, hắn đưa mắt nhìn về phía Hàn tướng tướng quốc cười nói: " Hàn tướng quốc à, áo lao động khanh đang mặc hình như chính là cái mà khanh đã mặc khi đi thu hoạch lúa năm ngoái phải không"

Hàn tướng quốc kinh ngạc nói: " Cái áo mà thần mặc năm ngoái là máu trắng, năm nay thần đã đem nó nhuộm thành màu lam rồi. Sao bệ hạ lại có thể nhìn ra được vậy"

" Bởi vì những mụn vá này đây" Trương Hoán vừa nói vừa chỉ vào một đường khâu vá ở trên tay áo của Hàn tướng quốc: " Trẫm còn nhớ rất rõ, là năm ngoái tướng quốc làm không cẩn thận nên đã làm rách tay áo, chẳng phải là chỗ này hay sao"

Nói đến đây Trương Hoán khẽ thờ dài một hơi: " Khi còn ở Lũng Hữu trẫm đã nghe nói tướng quốc là người hết sức tiết kiệm, áo lông mặc mười năm mới bỏ đi, chỗ ở chỉ cần đủ tránh gió mưa, không vì người nhà mà tư hữu tài sản riêng. Thấy rằng tướng quốc là người thân phận đứng đầu bách quan mà vẫn cần kiệm, không hề thay đổi bản sắc của mình. So sánh một chút, trẫm tự thấy mình thật là xấu hổ."

Hàn tướng quốc vội vàng đứng lên khom người thi lễ nói: " Bệ hạ, xin người đừng tự trách mình như vậy, bệ hạ chính là một quân vương cần kiệm hiếm có từ xưa đến nay rồi. Cho đến nay, hậu cung bất quá chỉ có mười người, số cung nữ, hoạn quan cũng chỉ có năm trăm mà thôi. Năm xưa Huyền Tông hoàng đế, hậu cung có tới hơn bốn vạn người. Năm nào cũng tiêu tốn của quốc gia đến mấy trăm vạn bạc cho bọn họ. Vì vậy dù nói thế nào đi nữa thì cũng không thể không nói đây chính là một trong những căn nguyên của loạn An Sử. Trong khi đó từ khi bệ hạ lên ngôi tới nay mới có năm năm, nhưng luôn quan tâm chú trọng tang nông (dệt – nông nghiệp), phát triển công thương nghiệp, hạ thuế khóa, mở rộng giáo dục. Quả thật là đã rất được sự tin cậy của dân chúng. Thần sở dĩ là đơn giản tiết kiệm, cũng bởi vì ảnh hưởng đức tính của bệ hạ, không dám xa xỉ lãng phí.

Trương Hoán yên lặng, gật gật đầu, hồi lâu mới nói: " Mạnh Tử viết, sống trong gian nan cực khổ, thì khi chết đi sẽ được an lạc. Mấy tháng trước đây trẫm đã phóng túng cho hậu cung dệt may bộ quần áo xa xỉ này đây. Nghĩ lại trẫm thấy mình đã chi quá tay rồi. Vì thế trẫm đã hạ chỉ xuống bên dưới, không cho phép nhập các loại gấm Tứ Xuyên cũng như các mặt hàng xa xỉ phẩm khác vào trong hậu cung. Trẫm còn định nghiêm cấm thị trường, không cho phép bán ra các loại lụa là, gấm vóc Tứ Xuyên. Nhưng trẫm nghĩ lại thấy không chừng Hồi Hột lại cần những thứ này nên trẫm đã thay đổi chủ ý."

Nói tới đây, khóe miệng của Trương Hoán lộ ra một nụ cười cổ quái, hắn nhìn sang Hàn tướng quốc một chút, ý chừng muốn xem vị tướng quốc này có hiểu dụng ý của mình đang muốn chuyển sang chủ đề khác hay không. Hàn tướng quốc cũng cười, dĩ nhiên là ông ta hiểu được ý tứ của hoàng thượng. Sau chiến dịch Toái Diệp thành công thì Hồi Hột nhất định là mục tiêu tiếp theo cần xử lý. Nhưng dĩ nhiên là hoàng thượng không muốn lại phải dùng đến binh đao, mà dụng ý của ngài là hy vọng có thể khiến nội bộ Hồi Hột tự chém giết lẫn nhau, từ đấy mà dẫn đến tự sụp đổ. Để làm được điều này thì cần phải có thủ đoạn thật là cao minh, hoặc là mượn đao giết người, hoặc là phải ly gián, phân hóa. Có như vậy mới có thể tiêu diệt hoàn toàn cái mối uy hiếp lớn nhất với Đại Đường lúc này.

Trên thực tế, Đại Đường cũng đã từng áp dụng kế sách tương tự để làm cho dân tộc Thổ Phiên tự suy yếu, bạc nhược đi. Một mặt, Đại Đường vẫn tán đồng việc liên minh giữa hai nước, cổ vũ chủ trương mở rộng về hướng tây của Thổ Phiên. Nhưng mặt khác Đại Đường lại âm thầm, nghiêm khắc không chế việc giao dịch buôn bán với dân tộc Thổ Phiên. Đại Đường nghiêm cấm thương nhân và người dân của mình bán lương thực, đồ sắt và các loại vật tư chiến lược khác cho Hồi Hột. Mà chỉ bán hoặc trao đổi cho bọn họ các sản phẩm đồ sứ, tơ lụa, trà, và những sản phẩm xa xỉ khác để đổi lấy dê bò của họ. Từ đó từng bước là suy yếu, hao mòn thực lực của dân tộc Thổ Phiên. Từ đó đẩy dần, " giúp đỡ" để dân tộc này đi vào cái bẫy diệt vong. Cuối cùng cả Thổ Phiên chìm trong nội chiến liên miên. Đại Đường nghiễm nhiên " bất chiến tự nhiên thành"

Tình hình của Hồi Hột hiện nay cũng giống như vậy. Hai tháng trước đây Hồi Hột chính thức cùng với Đại Thực kết làm đồng minh, và ngược lại tuyên bố không đội trời chung với Đại Đường. Đồng thời đem sửa quốc danh từ Hồi Hột sang Hồi Cốt. Với việc thực hiện một loạt các hành động ấy, cùng với những mẫu thuẫn căng thẳng vốn đã tồn tại trong nội bộ Hồi Hột trước đó, thì chính tân Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư là người đã nhân danh vì tương lai của dân tộc quyết không chùn bước, mà quay sang đối đầu và gây hấn với Đại Đường. Chính những động thái này của ông ta đã khiến cho nội bộ Hồi Hột xuất hiện một cuộc nội chiến. Các bộ tộc " thân Đường" như Phó Cố, Hỗn, A Bố Tư cùng với những tộc nhân của Dược La Cát Linh, đã tập hợp lại với nhau, nhân số lên đến mấy chục vạn người. Tất cả những người này đều tiến về phía đông định cư khắp cả một dải Khả Đôn thành. Sau khi thương nghị tất cả đồng ý tôn Dược La Cát Linh lên làm Khả Hãn, thỉnh cầu Đại Đường để đứng lên chống lại Hiệt Kiền Già Tư.

Dĩ nhiên tin tức này đối với Đại Đường là một tin tức rất có lợi, nhưng Trương Hoán cũng không hề vội vàng xuất binh tấn công Hiệt Kiền Già Tư. Sở dĩ như vậy là bởi vì sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường cũng đã mỏi mệt, cần phải có thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức. Lý do thứ hai chính là việc, bản thân Trương Hoán đã dự liệu đi năm nước cờ trong cuộc chơi này. Ở thời điểm hiện tại cũng chỉ có thể đi tới nước thứ ba mà thôi, đó là việc ủng hộ phái " thân Đường" thực hiện việc phân chia Hồi Hột, làm cho thực lực của Hiệt Kiền Già Tư bị hao mòn, suy giảm dần đi. Nước cờ thứ tư mà vị hoàng đế này định đi đó là phân hóa việc trao đổi buôn bán với Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Trương Hoán sẽ chỉ cho phép vận chuyển các đồ sứ, tơ lụa, các mặt hàng xa xỉ phẩm từ Đại Đường sang Hồi Hột trao đổi mua bán. Đồng thời nghiêm cấm mang các loại vật tư chiến lược lên phương bắc. Dĩ nhiên đây cũng chỉ là một cách ngăn ngừa kìm hãm Hồi Hột. Đồng thời còn phải khóa chắt một lối khác, đó là không để cho Hồi Hột nhận được vật liệu trợ giúp từ phía tây, cũng không được để cho Hồi Hột sử dụng các sản phẩm xa xỉ của Đại Đường đem đi trao đổi lương thực với phương tây.

ment--> ng. Thực tế, hắn rất thích nghe Thôi Diệu giảng giải sử ký, quan hệ cá nhân với Thôi Diệu cũng rất tốt.

Crypto.com Exchange

Hồi (1-340)


<