Truyện Tiên Hiệp

Truyện:Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử - Hồi 04

Anh hùng Đông A gươm thiêng Hàm Tử
Trọn bộ 61 hồi
Hồi 04: Ánh Mắt Như Gươm Treo
5.00
(2 lượt)


Hồi (1-61)

Vương phi Ý Ninh nhắc nhở:

– Ba bảo bối của Tây Viễn vương, các em phải thuộc nằm lòng.

– Dạ!

Dã Tượng cho Long thành ngũ phụng đi trên một xe song mã. Dọc đường ra Bắc biên, cứ hai chục dặm sứ đoàn lại nghỉ. Vương phi lại huấn luyện các nàng những phương cách bắt anh hùng như bắt thỏ non, mà Tây Viễn vương dạy.

Mỗi khi nghỉ, dân chúng tụm nhau chào đón. Ban Đông hoa lại có dịp ca hát, tấu nhạc. Năm cô dạy Dã Tượng hát. Dã Tượng từng là mục đồng, từng hát nghêu, thổi sáo, nên học rất mau. Nhạc khí Dã Tượng thích nhất là gõ trống mảnh. Bốn cô biết giữa Dã Tượng với Thanh Nga có tình ý, nên cứ để Thanh Nga dạy chàng. Tối đến, Tạ Quốc Ninh lại dạy văn, dạy tiếng Mông cổ cho Dã Tượng với năm cô.

Cả năm cô gái đều đẹp như hoa nở, đàn ngọt, hát hay. Dã Tượng đối xử với các cô hết sức lịch sự từ lời nói, đến cử chỉ. Nhưng chàng vẫn giữ cung cách là người anh. Còn Thanh Nga thì cứ nghĩ: dù có biến cố gì chăng nữa chàng cũng là chồng mình.

Sứ đoàn đi tới vùng Siêu loại, thì thấy hơn mười người ngựa đang đứng chờ ven đường. Vương phi nhìn kỹ: Nhân huệ vương Trần Khánh Dư, Khai sơn hầu Chu Mạnh Nhu, Vũ kỵ thượng tướng quân Lý Tùng Bách, Tham tri bộ Lễ Chu Bác Lãm, Sài sơn song kiệt Lê Kim Sơn, Lê Ngân Sơn.

Vũ Uy vương, vương phi cùng xuống ngựa, hành lễ:

– Không biết các vị có điều gì cần dậy dỗ Duy này mà chờ ở đây?

Tạ Quốc Ninh nói với vương:

– Sáu vị này với Ninh cùng có nỗi khổ tâm, ngày đêm khóc chảy máu mắt. Vì vậy họ đón đường vương gia, xin vương gia hứa cho một vài lời!

Vũ Uy vương còn đang bỡ ngỡ thì vương phi đã nói:

– Các vị yên tâm. Vụ Tô lịch thất tiên bị Mông cổ bắt đi, đến nay cũng không có chút tăm hơi nào. Có hai trường hợp xẩy ra: một là họ bị Mông cổ giết chết rồi. Hai là họ bị Mông cổ đem về Trung nguyên. Trong chuyến đi này chúng tôi sẽ hỏi trực tiếp Ngột Lương Hợp Thai. Dù tình trạng xấu, hay tốt, chúng tôi cũng dùng chim ưng báo cho các vị biết.

Sau ba ngày đi trên con đường cái quan gập ghềnh, sứ đoàn tới Phủ Tổng trấn Bắc cương. Theo truyền thống của Hoa-Việt, khi một hoàng tử tới tuổi 12-13 thì được phong tước. Tước thường khởi từ Quận vương, Quốc vương, cuối cùng là Đại vương. Chức thì tùy theo tài năng, thường gồm cả chức văn lẫn võ. Duy triều Trần, các vương, hầu thuộc hoàng tộc không giữ chức vụ chủa triều đình. Mỗi vị cai trị đất phong của mình như một nước nhỏ. Thảng hoặc mới có người giữ chức vụ như Trần Thủ Độ lĩnh chức Thái sư, Hưng Đạo vương lĩnh chức Tiết Chế (Tổng tư lệnh quân đội). Hoàng tử Trần Nhật Duy vì có đại tài nên khi 13 tuổi đã được phong tước Vũ Uy vương, được trao cho trấn thủ Bắc cương. Chức tước của vương là: Thái tử thiếu bảo, Đồng bình chương sự (Hàm Tể tướng), Phụ quốc thượng tướng quân (Cấp bậc cao nhất trong hàng võ quan), tước Vũ Uy vương, Lĩnh chức vụ Tổng trấn Bắc cương. Tòa Tổng trấn Bắc cương cũng là phủ đệ Vũ Uy vương. Sứ đoàn nghỉ tại Tòa Tổng trấn trong năm ngày, để vương sắp xếp mọi sự, ủy quyền cho văn võ quan trực thuộc trong những ngày vương đi sứ.

Biên giới Đại lý- Đại Việt hồi đó, lùi lên phía Bắc thuộc tỉnh Vân Nam ngày nay hơn 70 cây số. Phương sách của Mông cổ là khi đánh chiếm nước nào, họ cũng duy trì ngôi vua, hệ thống quan lại bù nhìn để thi hành luật pháp của họ. Vì vậy tuy Đại lý đầu hàng Mông cổ, nhưng Mông cổ vẫn duy trì ngôi vua cho Đoàn Hưng Trí với hệ thống quan lại, binh tướng.

Khi thấy sứ đoàn tới biên cảnh, viên quan trấn thủ Đại lý loan báo cho viên Bách phu trưởng Mông cổ đóng gần đó. Viên Bách phu trưởng này gốc người Hán, tên Võ Kim. Hồi Mông cổ sang đánh Đại Việt, y chỉ là chứùc Thập phu trưởng. Vì viên Bách phu trưởng bị giết trong trận Phù lỗ, y được đôn lên thay thế. Nhìn thấy sứ đoàn với cây cờ trên có hàng chữ: Đại Việt Đông A Vũ Uy vương,

Võ Kim đã từng thấy Vũ Uy vương trong trận Thảo lâm, y vái dài:

– Tiểu nhân tham kiến vương gia. Không biết vương gia giá lâm có việc gì?

– Võ tướng quân. Xin tướng quân báo với Thái sư Ngột Lương Hợp Thai, hoặc Phò mã Hoài Đô rằng tôi xin cầu kiến, để trao trả tù binh Mông cổ, Đại lý.

– Khải vương gia, Thái sư với Phò mã hiện đóng quân tại Côn minh. Tiểu nhân kính thỉnh vương gia tạm nghỉ nơi đây. Tiểu nhân sẽ sai người đi báo cho hai vị đại nhân.

Sứ đoàn được đóng bên bờ suối, nằm trong Bạc dịch trường Tây biên (chợ biên giới Hoa Việt). Bạc dịch trường này được thành lập vào thời vua Lý Thái tông bên Đại Việt. Đó là ba châu thuộc đất Việt, ba châu thuộc Đại lý, nay là vùng Văn dương bên Vân Nam (Trung quốc). Đây là nơi giao thương giữa Đại lý, Đại Việt. Đại lý hồi đó nói tiếng Thái, lẫn tiếng Việt.

Dã Tượng ban lệnh cho kị mã, lẫn người phục dịch:

– Các người được ra Bạc dịch trường mua sắm, nhưng phải mặc y phục Việt. Không được mặc quân phục. Không được nói tiếng Mông cổ, tiếng Hán, để giặc yên tâm không đề phòng. Yêu cầu của chúng ta là: tìm hiểu những điều bí ẩn của Mông cổ.

Chàng phát cho mỗi người một ống tre, giảng:

– Đây là pháo thăng thiên, lúc nào cũng phải mang theo bên mình. Khi gặp hung hiểm thì tay phải cầm thân ống tre, đầu có sơn đỏ hướng lên trời, rồi cầm sợi giây cuối ống tre giật mạnh, pháo sẽ vọt lên không ít ra là 3 trượng (6 m ngày nay) rồi nổ tung. Ưng binh sẽ bay tới, rồi báo cho tôi. Tôi sẽ tiếp cứu.

Hai ngày sau, vào buổi tối, Vũ Uy vương sai mở cũi thả 4 con Ngao cẩu ra canh phòng khu đóng trại, lại thả 10 Thần ưng ra canh phòng trên trời, rồi họp mọi người trong ngôi lều của vương.

Tạ Quốc Ninh kiểm điểm lại nhân số, thì thiếu Thanh Nga. Hầu hỏi Thúy Trang:

– Con có thấy Thanh Nga đi đâu không?

– Hồi trưa năm đứa chúng con cùng ra Bạc dịch trường Tây biên… ăn quà. Aên xong, Thanh Nga bị đau bụng, xin về trước. Lúc chúng con trở về đến giờ không thấy Thanh Nga đâu.

Dã Tượng kinh hoảng, bảo Tá lĩnh chỉ huy đội Kỵ mã Long biên La An:

– Em sai tất cả 10 Ngao binh tìm khắp doanh trại một lượt xem.

La An tuân lệnh rời lều. Hơn khắc sau y trở lại, lắc đầu:

– Ngao binh xục xạo khắp trại, không còn một người nào.

Nhìn nét mặt kinh hoàng của bốn cô gái ban Đông hoa, Tạ Quốc Ninh an ủi:

– Các cháu đừng sợ hãi. Trước khi khởi hành ta từng dặn các cháu rằng dù gặp tình huống xấu đến đâu cũng phải bình tĩnh mới mong thoát khỏi. Tỷ như Thanh Nga có mệnh hệ nào, thì thực là một điều danh dự, khi tuổi 18 đã vị quốc vong thân, sẽ được phong thặng. Cha mẹ được triều đình phủ tuất, làng xóm kính trọng, hân hạnh biết bao!

Dã Tượng đặt vấn đề:

– Thanh Nga vắng mặt có thể xuất phát từ bốn nguyên do: một là đi lạc, hai là nhớ nhà trốn về, ba là bị quan quân Đại lý bắt giam, bốn là bị bắt cóc.

Chàng hướng Thúy Nga:

– Em kể cho anh nghe chi tiết về việc chị em ăn quà ra sao. Thanh Nga bị đau bụng từ trước hay sau khi ăn mới đau?

Thúy Nga mở to mắt, chớp chớp mấy cái, cau mày để nhớ lại rồi thuật:

– Em nhớ rõ lắm, sáng nay cả năm đứa cùng ra Bạc dịch trường ăn món ăn Việt. Cửa hàng do người Việt làm chủ. Chúng em cùng ăn bún ốc. Aên xong chúng em định kéo nhau đến khu bán y phục, thì Thanh Nga kêu đau bụng, rồi xin về trước. Như vậy là đau sau khi ăn.

Dã Tượng phất tay:

– Thưa chú, từ Bạc dịch trường về đây không quá hai dặm, đường lại thẳng, không thể có việc Thanh Nga đi lạc. Vậy thì phải xét xem Thanh Nga có nhớ nhà trốn về không?

Hồng Nga xua tay:

– Từ hôm rời Thăng long đến giờ, Thanh Nga vô cùng hồ hởi vì đang từ một cô gái ca hát, bỗng được lên đường làm việc quốc gia trọng đại, được hưởng danh dự của một Vệ úy. Nó nói với em rằng, biết đâu nó không thành anh hùng như công chúa Gia Hưng Trần Quốc thời vua Trưng. Hoặc như công chúa Kim Thành, Trường Ninh thời Lý.

Nàng mỉm cười:

– Vả anh là người trúng cách tuyển phu của nó, thì dù dao kề cổ nó cũng không rời sứ đoàn đâu. Thế thì không thể có việc nó trốn rồi.

Dã Tượng tính toán:

– Thanh Nga có thẻ bài chứng nhận theo sứ đoàn thì quan quân Mông cổ, Đại lý muốn bắt nó thì nó phải phạm tội nặng như cướp của giết người. Tuy nhiên họ khi bắt rồi họ phải báo cho ta ngay. Vậy thì có thể nó bị bắt cóc. Vậy ai bắt nó? Bắt nó để làm gì?

Vũ Uy vương phân tích:

– Nếu Thanh Nga bị bắt cóc thì phải do một thế lực lớn chủ trương. Thế lực này muốn dùng Thanh Nga để mặc cả với chúng ta điều gì đây. Như vậy thì Thanh Nga không gặp hung hiểm đâu. Kẻ bắt cóc sẽ tự tìm đến ta.

Vương phi dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai vương, Tạ Quốc Ninh, với Dã Tượng:

– Tôi nói gì mặc tôi. Xin lờ đi như không biết.

Rồi phi lên tiếng:

– Thôi bây giờ La An cho Ngao binh, Ưng binh canh phòng doanh trại thực cẩn thận. Ta đi ngủ, ngày mai ắt bọn bắt cóc sẽ tìm đến.

Cuộc họp giải tán.

Phi vẫy Tạ Quốc Ninh, với Dã Tượng về lều mình. Dã Tượng mỉm cười:

– Thím định dùng bốn cô bé Đông hoa còn lại để làm mồi nhử bọn bắt Thanh Nga phải không?

– Đúng vậy.

– Thế thì ngày mai cháu sẽ sai bọn nó ra ngoài, đứa thì mua trái cây, đứa thì mua bánh kẹo … Trong khi đó cháu thả Ưng binh bay theo quan sát. Chỉ cần một đứa bị bắt cóc, Ưng binh sẽ theo dõi, rồi dẫn đường cho ta đến chỗ giam Thanh Nga.

Hôm sau, Dã Tượng, sai thả 10 Thần ưng bay lên trời tuần phòng, truy tìm tung tích Thanh Nga, rồi đến lều Đông hoa giữa lúc bốn cô đang tập hát. Thấy ông anh khổng lồ, nhưng dễ tính đến, bốn cô cùng ngừng hát. Thúy Nga hỏi:

– Này ông anh voi đồng quê! Có tin tức của Thanh Nga chưa?

– Chưa!

– Coi chừng bọn Mông cổ bắt Thanh Nga làm thịt, nướng chả ăn mất rồi cũng nên. Anh tha hồ khóc: Em ơi! Em ở đâu? Em nỡ bỏ anh, anh tìm đâu ra người đẹp như em?

Dã Tượng cười:

– Thanh Nga xinh đẹp như vậy, nếu Mông cổ bắt thì chúng sẽ đem nàng về Hoa lâm dâng cho Mông Ca. Nhất định Mông Ca sẽ phong làm hoàng hậu. Trường hợp này thì anh muốn khóc cũng không được.

Thúy Nga gật gật đầu:

– Nếu đúng như thế thì ta khỏi cần làm gì hết. Thanh Nga sẽ xui Mông Ca bỏ đánh Đại Việt, dồn quân đánh Tống. Nguyên Phong hoàng đế sẽ phong cho bố mẹ Thanh Nga tước hầu, tước bá không chừng. Nhưng anh bị mất cô vợ xinh đẹp, tối tối anh sẽ ôm mặt khóc.

Nàng cất tiếng hát theo điệu hát Xẩm:

Em ơi chua ngọt đã từng,

Non xanh, đất đỏ xin đừng quên nhau.

Dù là anh hùng từng xông vào đội quân Lôi kỵ của Mông cổ như chỗ không người, nhưng trước câu nói đùa của Thúy Nga, Dã Tượng cũng ngượng ngùng. Dã Tượng làm nghiêm:

– Thôi không đùa nữa! Thúy Nga ra Bạc dịch trường mua cho anh mấy quả chanh. Trưa nay đầu bếp cho chúng mình ăn nhộng rang, mà quên mua chanh. Nhộng có độc tố, ăn nhộng mà không có chanh thì đau bụng.

Thúy Nga rùng mình:

– Em không đi đâu! Lỡ em đi rồi bị bắt cóc như Thanh Nga thì sao? Rồi Mông cổ cắt thịt em nướng chả thì sao?

Từ hôm lên đường Dã Tượng thấy Thúy Nga là cô gái yêu đời, lúc nào cũng đùa. Chàng trêu ngược lại:

– Thì anh đến trại Mông cổ nói với chúng: này thịt Thúy Nga vừa thơm vừa bổ, cho tôi xin vài miếng về nấu canh.

– Ừ anh cứ ăn thịt em đi. Ở trong bụng anh, em sẽ cấu, cắn, đạp cho đứt ruột ra cho mà coi.

Tuy miệng nói vậy, nhưng Thúy Nga cũng đứùng dậy ngửa tay hỏi:

– Anh cho em tiền chứ? Tiền mua chanh thêm tiền ăn quà.

Dã Tượng trao tiền cho Thúy Nga, lại dưa cho một ống tre, rồi dặn:

– Em mang pháo thăng thiên theo. Lỡ có sự thì báo cho anh biết. Con gái Trưng vương gì mà Thanh Nga mới mất tích, không rõ sự tình ra sao mà đã sợ.

Nghe Dã Tượng nhắc đến chữ con gái Trưng vương, Thúy Nga cảm thấy mình có một sức mạnh trong tâm bừng bừng dâng lên. Nàng mỉm cười rồi ra khỏi trại. La An sai một Thần ưng bay theo Thúy Nga phòng vệ.

Nhưng trái với dự đoán, hơn khắc sau Thúy Nga trở về. Vô sự. Dã Tượng định trình với vương phi, thì một căp chim ưng từ phương Bắc bay về, cả hai kêu lên hai tiếng. Đó là ký hiệu báo có thư. La An gọi cặp chim ưng xuống, trong ống đựng thư cả hai con không có thư mà chỉ thấy cái châm bằng vàng. Chàng lấy châm trao cho Dã Tượng:

– Anh coi không có thư mà chỉ có vật này.

Dã Tượng tần ngần nhìn cái châm rồi hỏi bốn cô em:

– Các em xem, liệu cái châm này có phải của Thanh Nga không?

Hồng Nga reo:

– Đúng rồi. Cây trâm này của Thanh Nga đây.

– Như vậy thì chim ưng đã tìm ra Thanh Nga. Thanh Nga gọi nó xuống, gửi châm về báo cho ta.

– Được rồi, các em về lều, để ta trình với chú thím.

Chàng cầm cây châm đến lều Vũ Uy vương. Vương phi tiếp cây châm, mỉm cười:

– Thím tưởng con bé Thanh Nga chỉ đẹp thôi, không ngờ nó thông minh quá, biết gửi châm về báo cho bọn ta. Bây giờ chờ trời tối, ta theo chim ưng dẫn đường đi tìm nơi giam giữ Thanh Nga.

Trời chập choạng tối, vương hạ lệnh cho Dã Tượng:

– Con ở nhà giữ trại, để chú thím với thầy Quốc Ninh, đi cứu Thanh Nga. Ngoài cặp ưng dẫn đường, con cho một đôi Thần ngao theo chú thím.

Hôm đó là ngày 16, trăng sáng vằng vặc, bốn người nai nịt, lưng dắt bảo kiếm theo cặp ưng dẫn đường, lại xua hai con Thần ngao đi trước. Thần ưng dẫn đường băng qua khu đồng hoang về hướng Bắc. Khoảng năm dặm thì tới con sông nhỏ. Vương tần ngần không biết con sông nông sâu ra sao. Vương phi chỉ vào bụi chuối:

– Ta dùng thân chuối vượt sông được rồi.

Phi vung kiếm lên, hai cây chuối đổ xuống. Vương cắt mấy cành cây, kết bốn khúc chuối thành cái bè con, đẩy bè ra giữa sông. Phi ôm một con Thần ngao, tung mình đáp xuống bè, rồi vọt mình lên, phi đã sang bên kia sông. Vương cũng ôm một Thần ngao rồi làm theo phi. Khinh công Quốc Ninh, không cao, hai người vọt mình xuống bè, cái bè nghiêng ngửa, suýt nữa cả hai ngã. Cố gắng giữ thăng bằng, hai người vọt mình một lần thứ nhì mới lên được bờ.

Thần ưng dẫn đường tới một trang trại khá lớn, tuy nhiên hàng rào không mấy cao. Hai Thần ngao theo một lỗ nhỏ chui vào trong. Lát sau cả hai chui ra vẫy đuôi, đó là ký hiệu bên trong không có ai. Bốn người tung mình vượt rào, vừa đáp xuống, một cảnh tượng làm cả bốn choáng váng: thì ra đó là một khu đóng quân của Mông cổ với hàng trăm chiến mã cột thành mười hàng. Quốc Ninh quan sát một lượt rồi nói nhỏ:

– Đây không phải là nơi đóng binh, mà là một trang trại của phú gia, Mông cổ cướp làm nơi ở cho một quan chức lớn. Khu nhà lớn kia kiến trúc theo lối Đại lý: ba gian theo hình tam giác. Các gian có hàng hiên thông với nhau. Viên quan này được một bách phu (đơn vị Mông cổ gồm 100 quân) hộ tống. Ta cần khống chế tên binh canh gác.

Vương phi huýt sáo, hai Thần ngao vẫy đuôi dẫn đường. Không xa, tới cổng; một tên lính Mông cổ lưng đeo cung, sườn đeo hai ống đựng tên, tay cầm đao đang đi đi, lại lại. Vương xẹt tới như tên bắn, tên lính vừa thấy có bóng người, y định quát hỏi, thì đã bị điểm huyệt Á môn, giữa lúc y há miệng. Miệng y cứng đơ không mở ra được. Vương lại điểm huyệt Đại trùy. Đại trùy là huyệt tổng hội các kinh dương trên cơ thể, người y tê liệt hoàn toàn. Thấy góc vườn có ngôi nhà nhỏ, dường như là nơi chứa củi hay dụng cụ làm vườn. Vương nhắc bổng tên lính đem vào đó. Vương phi rút kiếm kề vào cổ y. Tạ Quốc Ninh nói tiếng Mông cổ:

– Mi biết điều thì không được lên tiếng, ta sẽ giải huyệt cho, bằng không thanh kiếm này sẽ cắt đầu mi.

Vương giải huyệt Á môn cho y. Tạ Quốc Ninh hỏi:

– Mi thuộc binh đoàn nào? Tên là gì?

– Tôi tên là A Qua thuộc đội Thị vệ của Đại hãn, tôi theo hộ tống A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình và Ngột A Đa. Ngột A Đa còn có tên là Thoát Nhân.

– A Lan Đáp Nhi lĩnh chức gì?

– Là Tả Thừa tướng hành Trung thư tỉnh.

– Còn Lưu Thái Bình, Ngột A Đa?

– Đều là Tham tri chính sự. Nhưng Lưu Thái Bình không có mặt trong trại này.

– Hai người này tới đây với mục đích gì?

– Điều tra tội trạng của Thân vương Hốt Tất Liệt.

– Tại sao Hốt Tất Liệt là em của Đại hãn Mông Ca, được Mông Ca trao cho thống lĩnh đại quân đánh Tống, mà lại bị điều tra?

– Tôi không biết.

– Mi có biết ai trong đoàn đã bắt một cô gái ở chợ hôm qua không?

– Tôi không thấy, không biết.

Vương điểm huyệt Á môn A Qua khiến y không kêu cứu được, lại điểm huyệt Nhĩ môn cho y không nghe được. Vũ Uy vương chỉ vào ngôi nhà lớn có ánh đèn chiếu ra:

– Người bắt Thanh Nga ắt phải là một đại cao thủ võ lâm. Bây giờ chúng ta đột nhập vào đó, khống chế mấy tên đầu sỏ thì biết chúng giam Thanh Nga ở đâu. Tạ hầu thám thính gian phải, em thám thính gian trái, anh thám thính gian sau sau.

Vương xách A Qua trở lại, để y dựa vào cánh cổng, người ngoài nhìn tưởng y đứng canh. Bốn người tung mình tới khu nhà chính. Vương phi, tới gian trái, bên trong ánh sáng chiếu ra, có tiếng người nói, rõ ràng là tiếng Việt. Vương dùng tay chấm nước bọt, sẽ chọc thủng giấy dán ở cửa sổ, ghé mắt nhìn vào. Cảnh tượng làm hai người kinh ngạc: bên trong có ba người đàn ông, một người đàn bà ngồi trước bàn tiệc. Người đàn bà ngồi quay lưng lại. Trong ba người đàn ông thì một người trang phục theo đại quan Mông cổ, một người trang phục như quý phái Tống, và một người trang phục như nông dân Việt.

Người trang phục như nông dân Việt còn rất trẻ, ngồi đối diện với người đàn bà. Thân thể y hùng vĩ, nhưng da mặt sạm đen đang dùng tiếng Việt nói với quý nhân Tống, rồi y lại dùng tiếng Mông cổ nói truyện với đại quan. Vương phi tuy có học tiếng Mông cổ, nhưng cứ mười tiếng, phi chỉ hiểu được ba tiếng.

Người trang phục nông dân nói với quý nhân Tống:

– Nếu đúng như thế, thì Đại hãn sẽ phong cho Thái tử làm An Nam Quốc Vương. Ông sẽ được phong làm Tể tướng.

– Nhưng Ngột Lương Hợp Thai mới bị bại, biết bao giờ binh Thiên triều lại nhập Việt?

– Ngột Lương Hợp Thai là chân tay của Hốt Tất Liệt. Mà Hốt Tất Liệt sắp bị thu binh quyền rồi. Ông không nên theo chúng nữa.

– Vâng! Tiểu nhân hiểu.

– Vừa rồi Thái tử có gửi gần năm nghìn người trợ chiến với Ngột Lương Hợp Thai. Khi vào Thăng long, trong khi đại binh Mông cổ phải chiến đấu, thì quân của Thái tử chuyên lo bắt gái đẹp. Nghe nói quân của Thái tử bắt được bẩy cô gái sắc nước hương trời. Nay Thái tử giữ họ ở đâu?

– Bẩy người đó do Ngột Lương Hợp Thai bắt, rồi gửi Thái tử đem về Văn sơn trước. Vì vậy khi Mông cổ bị bại, bẩy người đó không bị Đại Việt bắt lại. Hôm qua người của Ngột Lương Hợp Thai đã đem bẩy cô gái đi, nghe nói đưa về Côn minh. Ngột Lương Hợp Thai định dùng bẩy cô gái ấy dâng cho Hốt Tất Liệt để xin tha tội bại binh.

Qua câu truyện, phi hiểu lờ mờ rằng:

“Quý nhân trang phục Tống có gốc Việt. Y là bộ hạ của một người nào đó tự xưng Thái tử. Cái người đó từng mang năm nghìn quân trợ giúp Mông cổ. Y cầu xin Mông cổ phong cho chức An Nam Quốc Vương. Vừa rồi quân Mông cổ vào Thăng long, mải chiến đấu thì đám quân này lo đi bắt gái. Chính Ngột Lương Hợp Thai cũng bắt 7 cô gái đẹp, giữ ở Văn sơn. Hiện Ngột Lương Hợp Thai đang đem 7 cô gái về Côn minh, cống cho Hốt Tất Liệt mong được tha tội bại binh ở Đại Việt”. 

Phi chợt nhớ lại chỉ dụ của phụ hoàng: Tống đã chứa chấp bọn vong mạng, bọn trộm cướp bị triều đình truy lùng. Họ cấp đất cho chúng. Chúng lập thành châu động rồi xưng là hậu duệ của vua Lý. Trong tất cả bọn này thì bọn con cháu Thân Lợi mạo xưng con vua Lý Nhân Tông mạnh nhất. Chúng cát cứ Văn sơn, Khâu Bắc. Hiện tên Lý Long Vân đang là lãnh chúa hai châu này. Đây chắc là tên Tể tướng của Long Vân đây.

Phi biết bẩy cô gái này là Tô lịch thất tiên, mà Hoàng Hoa là vợ của Tạ Quốc Ninh. Suốt hơn năm qua, cả bẩy ông chồng ra công tìm kiếm, bây giờ đã thấy tông tích: Tô lịch thất tiên vẫn còn sống, do Ngột Lương Hợp Thai giam giữ.

Người nông dân Việt ngừng lại nói với người đàn bà bằng tiếng Việt:

– Cô bé ơi! Liệu Vũ Uy vương nhận được châm của cô, vương có đi cứu cô không?

– Nhất định vương sẽ đi tìm em. Vương là anh của em mà, vương yêu thương năm đứa em lắm. Không chừng giờ này vương đến rồi cũng nên.

Tiếng người đàn bà nói làm phi rúng động tâm tư, thì ra người đàn bà đó là Thanh Nga. Phi tự hỏi: rõ ràng Thanh Nga bị bắt cóc, mà sao lại được ngồi dự tiệc với bọn quý phái Mông cổ? Tại sao cái người trang phục như nông dân Việt lại ngồi ngang với tên quan Mông cổ?

Người trang phục Việt lại nói:

– Trong khi chờ vương đến, em hát cho anh nghe một bài nữa đi.

– Không! Ban nãy nể anh lắm em đã hát một bài cho anh nghe. Đợi bao giờ vương đến, em xin phép vương rồi em sẽ hát nữa. Em sẽ rủ cả năm đứa cùng hát, bấy giờ anh muốn nghe bao nhiêu bài cũng được; chứ hát bây giờ mà không có nhạc đệm thì sao lột được tinh hoa của nhạc Việt.

– Thôi! Em ngoan một tý đi. Hát cho anh nghe đi.

Thanh Nga dỗi:

– Anh bắt em đến đây thế này là không tử tế rồi, em không hát nữa.

– Thôi mà! Anh mời em đến đây là vì quốc sự, chứ đúng ra anh phải đến cửa nhà em chắp tay: tôi là gã con trai thô lỗ, nhưng yêu thương em, tôi đến để cầu hôn.

– Em cũng không hát. Nói cho mà biết, em từng đi hát chầu văn cô Bơ, cô Đệ Tứ Khâm sai về đồng. Em là con cháu Trưng vương. Em cứng đầu lắm. Muốn gì thì chiều em, chứ bắt buộc thì không được đâu. Con gái Việt chứ không phải con gái Mông cổ hay Tống đâu.

– Cô Bơ là ai vậy? Cô Đệ Tứ Khâm sai là ai? Liệu cô có đẹp bằng em không?

– Đẹp gấp vạn lần. Cô Bơ là tiếng nói trại của tiếng cô Ba. Cô là một nữ đại công thần thời vua Trưng, đệ tử thứ ba của anh hùng Đào Thế Kiệt. Khuê danh Hoàng Thiều Hoa. Cô từng chỉ huy nghĩa quân đánh chiếm Luy lâu. Cô từng chỉ huy liên quân Việt-Thục đánh trận Trường an. Còn cô Đệ Tứ Khâm sai khuê danh Phùng Vĩnh Hoa, cô lĩnh chức Tư đồ triều Lĩnh Nam. Cô là một bác học thời bấy giờ. Cô từng trấn Tượng quận, đánh nhau với quân Hán những trận kinh thiên động địa.

– Nếu em không hát cho anh nghe, thì anh sẽ đem em về Mông cổ, rồi bắt em làm vợ. Bao giờ chúng mình có 10 con anh mới cho em về thăm nhà.

– Như vậy anh là đạo tặc rồi. Em thà tự tử chết chứ không làm vợ đạo tặc đâu! Nói cho anh biết. Hồi còn ở trong nước, em treo bảng tuyển phu. Một anh hùng Đại Việt đã trúng cách. Như vậy em là gái có chồng.

– Em đẹp thế này, thì dù làm đạo tặc mà được em anh cũng cứ làm. Em có chồng thì kệ có chồng. Em đang ở cạnh anh, anh không chịu để em vuột mất đâu.

Có tiếng nói thanh thoát:

– Không nên! Không thể làm như vậy!

Vương phi Ý Ninh đã đánh tung cánh cửa, đứng giữa nhà. Thanh Nga thấy vương phi thì chạy lại núp sau:

– Chịï ơi! Anh này bắt cóc em đấy! Nhưng anh ấy tử tế với em. Chịï đừng chặt đầu anh ấy.

Vũ Uy vương với Tạ Quốc Ninh cũng đã tới. Hầu nói tiếng Mông cổ:

– Tạ Quốc Ninh, tước Vũ sơn hầu nước Đại Việt xin tham kiến Tả Thừa tướng hành Thượng thư tỉnh và Tham tri chính sự Mông cổ.

Tạ Quốc Ninh nói bằng tiếng Mông cổ, hầu chỉ vào Vũ Uy vương:

– Vị này là trưởng tử của Đại Việt hoàng đế, tước Vũ Uy vương. Chúng tôi đang trên đường đi sứ Mông cổ. Vị này là Vũ Uy vương phi.

Ông chỉ vào người y phục Việt nói với Vũ Uy vương phi:

– Vị này là Ngột A Đa, lĩnh Tham tri chính sự.

Lại chỉ vào quý nhân Mông cổ:

– Vị này là A Lan Đáp Nhi, Tả Thừa tướng hành Thượng thư tỉnh Mông cổ.

A Lan Đáp Nhi, cùng Ngột A Đa chắp tay hành lễ:

– Vì sợ tai mắt của Hốt Tất Liệt, chúng tôi bầy kế mời cô nương Thanh Nga đến đây, với hy vọng được bái kiến vương gia. Quả nhiên vương gia giá lâm thực. Xin mời quý vị an tọa.

Người đàn ông trang phục quý phái Tống đứng lên cáo lui.

Ba người thản nhiên ngồi xuống. A Lan Đáp Nhi chỉ Ngột A Đa:

– Thì ra các bậc tài trí trong thiên hạ thường hiểu nhau. Chúng tôi từ Hoa lâm tới đây do chiếu mệnh của Đại hãn. Mọi việc tốt đẹp, duy một điều cực khó là chúng tôi muốn liên lạc với triều đình Đại Việt thì không được, bởi muốn tới Thăng long thì phía trước có quân của Ngột Lương Hợp Thai. Hôm trước nghe có sứ đoàn Đại Việt sang, nghĩa đệ Ngột A Đa nói rằng triều đình Đại Việt toàn những người tài trí nhất thiên hạ, thì người đi sứ không thể ngu đần được. Ta cứ bắt cóc một người của sứ đoàn, giữ vài ngày rồi thả về, kèm theo một mật thư, hẹn gặp nhau. Không ngờ vừa bị bắt, chúng tôi nói rõ ý định với cô nương Thanh Nga. Cô có con mắt tinh đời, nên hiểu chúng tôi không có dối trá. Cô gọi chim ưng xuống rồi gửi châm về làm tin. Quả nhiên vương gia tới.

Vương phi hỏi:

– Đa tạ Thừa tướng quá khen. Không biết Thừa tướng muốn gặp chúng tôi có việc gì?

– Đó là điều cực quan trọng giữa Mông cổ với Đại Việt. Nhưng liệu vương gia có toàn quyền thương thảo với chúng tôi không?

Tạ Quốc Ninh xác nhận:

– Vương gia đây là trưởng tử của Nguyên Phong hoàng đế. Trước khi đi sứ hoàng thượng ban cho vương gia thay người, được toàn quyền quyết định trong việc bang giao Mông Việt.

Trong khi Quốc Ninh nói, Vũ Uy vương chợt nhớ một truyện: khi vương vừa sang sông Hồng, thì Tây Viễn vương Trần Tử An phi ngựa theo dặn rằng: vương có người con tên Ngột A Đa, hiện lĩnh Tham tri chính sự triều Mông cổ. Khi sang tới nơi phải bí mật liện lạc với người này, để được giúp đỡ. Vương lại trao cho con dao làm tin. Bây giờ Ngột A Đa đang có mặt tại đây, vương phải làm cách nào cho y hiểu rằng vương là người có thể tin cậy.

Vương nói với A Đa:

– Thưa ngài Tham tri, tôi không biết nói tiếng Mông. Vậy ngài Thừa tướng có hiểu tiếng Việt không?

– Không. Có lẽ khi vương gia nói phải nhờ Tạ hầu dịch.

Vương nói với A Lan Đáp Nhi:

– Thưa ngài, phụ hoàng sai chúng tôi đi sứ với ba nhiệm vụ. Một là cử tôi sang Hoa lâm làm con tin, vì tôi là con trai trưởng của người.

– Hoàng đế Nguyên Phong thực là người thức thời. Còn nhiệm vụ thứ nhì?

– Thứ nhì la sai chúng tôi sang để giúp Mông cổ như các vị tiền bối Lý Long Phi, Trần Thủ Huy, Lý Đoan Nghi, Trần Thủ Độ, Trần Tử An.

Nói đến đây vương dùng chân trái, sẽ khều chân phải Ngột A Đa. A Đa dùng chân phải khều lại chân trái vương. Thế là hai người nhận được tín hiệu của nhau.

A Lan Đáp Nhi reo lên:

– Tuyệt vời. Tôi nghe nói võ công cao như Ngột Lương Hợp Thai, A Truật, Hoài Đô đều bại dưới tay vương gia và vương phi. Vương gia lại là người mưu trí trùm hoàn vũ, như vậy chúa tôi ắt sẽ phong vương gia làm đại tướng đánh Tống. Thế còn nhiệm vụ thứ ba?

– Trong cuộc chiến vừa qua, Đại Việt bắt được hơn vạn tù binh vừa Mông cổ, vừa Đại lý. Chúng tôi đem lên trao đổi lấy người nhà những người thuộc võ lâm Trung nguyên hàng Đại Việt.

A Lan Đáp Nhi lắc đầu:

– Nhiệâm vụ thứ ba của vương gia không liên quan gì đến chúng tôi. Những tướng sĩ mà Đại Việt bắt đều là người của bọn Hốt Tất Liệt. Khi vương gia hội họp với bọn Ngột Lương Hợp Thai, xin đừng cho chúng biết đã gặp anh em tôi.

Y quay lại hỏi Ngột A Đa:

– Hiền đệ! Chúng ta bắt đầu được không?

A Đa dùng chân móc chân Vũ Uy vương:

– Bây giờ trời về khuya rồi, vương gia phải đi về bằng không sứ đoàn tưởng vương gia gặp sự cố, lại tìm bọn Đại lý hay người của Ngột Lương Hợp Thai thì vỡ lở hết. Trưa mai, chúng ta hẹn vương gia tại đây để tiếp tục nghị sự.

Vương phi chỉ Thanh Nga:

– Không biết tôi có thể mang Thanh Nga đi không?

A Lan Đáp Nhi mỉm cười:

– Vương phi mang Thanh Nga về, đối với tôi thì không có gì phiền hà cả. Chỉ duy Ngột A Đa thì hơi buồn mà thôi.

A Lan Đáp Nhi đứng lên tiễn khách. Chợt nhớ đến ba bảo bối của Tây Viễn vương, ra tới sân Thanh Nga nhìn Ngột A Đa, nàng mỉm cười:

– Hôm nay tạm biệt. Mông cổ, Đại Việt đường xa diệu vợi biết ngày nào gặp nhau? Vậy em tặng anh một chút gì để tưởng, để nhớ.

Nàng tháo chiếc khăn lụa trên cổ, lấy son tô môi, rồi in hai môi lên chiếc khăn:

– Chiếc khăn này mang dấu hai môi em…

Nàng cất tiếng hát:

Của riêng một chút làm tin,

Trăm năm em đợi, chữ tình anh mang.
Xa nhau thương nhớ đoạn trường,
Nước non vạn dặm, đò ngang em chờ.
Em chờ, ngày nhớ đêm mơ…

Ngột A Đa tiếp khăn, người bàng hoàng như say rượu. Trong khoảnh khắc, viên phó Tể tướng Mông cổ như đi trong mơ, liếc nhìn Thanh Nga, tự hỏi:

– Phải chăng mình đang nằm mơ?

Trong khi Thanh Nga ném cho y nụ cười, ánh mắt liếc nghiêng:

– Thôi nhé, như vậy đủ rồi! Đừng bắt cóc em nữa nghe?

Ngột A Đa thở dài:

– Bây giờ thì chính em bắt anh, bắt công khai, chứ không phải bắt cóc. Ngày mai mình sẽ gặp nhau, em thả hồn anh ra nghe.

– Không thả! Giữ luôn.

– Em giữ để làm gì?

– Để làm gì thì mai em sẽ nói.

Khi ra tới cổng, vương phi sẽ vỗ vai A Qua, huyệt được giải, y ngỡ ngàng nhìn mọi người.

Bốn người về đến trại thì đã sang canh ba (nửa đêm). Cả trại vẫn còn thức, đang chờ. Thấy Thanh Nga bình yên trở về, bốn cô gái mừng chi siết kể, người người hỏi thăm sự tình. Vương phi vẫy tay ra hiệu:

– Khoan! Không nên nhiều lời, đợi vào trong lều rồi sẽ hỏi.

Mọi người tề tựu. Tạ hầu bảo Thanh Nga:

– Con hãy thuật chi tiết những gì đã xẩy ra từ qua đến giờ, đừng bỏ một chi tiết nào. Như vậy thầy mới hiểu rõ mọi sự.

Thanh Nga chớp chớp mắt rồi thuật.

Sau khi ăn hết hai bát bún ốc, Thanh Nga cảm thấy bụng sôi lọc ọc, rồi quặn đau, nàng nói với chị em: 
– Oái, em đau bụng quá, em trở về trại trước nhá! 
Nói rồi nàng trở gót, khi qua khúc quẹo, có một thanh niên cao lớn, tuổi trung niên, tay cầm cái túi vải, mặc quần áo nâu như nông dân Việt đi ngược chiều hỏi: 
– Cô ơi, cô cho tôi hỏi thăm tí nào! 
Tha hương gặp người Việt, Thanh Ngoan không e ngại, nàng dừng bước: 
– Anh hỏi thăm việc gì? 
Thanh niên xẹt tới chĩa ngón tay điểm một chỉ, người nàng cứng đơ. Nàng định hét lên, y lại diểm một chỉ nữa, nàng không mở miệng ra được. Y tung cái túi vải lên, nàng bị chụp vào trong. Thanh niên vác cái túi vải lên vai, rồi phi thân chạy. Khoảng nửa giờ sau thì nàng được thả ra khỏi cái túi vải. Mở mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trong một căn phòng cực lớn, trang trí hoa lệ. Thanh niên chĩa ngón tay điểm một cái, chân tay Thanh Nga cử động dược, nàng nghĩ rất nhanh: 
– Gã này võ công tuyệt cao. Y bắt mình thì y không tử tế gì, mình có chửi bới, la hét cũng vô ích. Nhất định y phải lòng mình y mới làm việc này. Dù gì chăng nữa y cũng là người yêu mình. Phải bình tĩnh. Phải thi hành ba bảo bối của Tây Viễn vương. 
Gã thanh niên mỉm cười hỏi bằng tiếng Việt, giọng lơ lớ: 
– Cô nương có biết tôi là ai không? 
–?!?!?! 
– Tôi tên là Ngột A Đa, hiện là đại quan Mông cổ. 
– Tôi thấy võ công anh không tầm thường, lại là quan chức Mông cổ, tại sao anh lại bắt cóc tôi! Như vậy anh là đạo tặc rồi còn gì nữa! 
– Tôi không bắt cóc cô, mà vì quốc gia đại sự tôi mời cô về đây. 
Thanh Nga chưng hửng, vì nàng những tưởng y bắt nàng về đây vì nhan sắc của nàng. Nàng thắc mắc: 
– Thì ra điểm huyệt, lấy túi chụp người ta là cung cách mời của Mông cổ đấy. 
– Xin lỗi cô, tôi đã mời cô bằng cách này. Thôi để tôi nói rõ chủ ý của tôi cho cô nghe. Tôi hiện lĩnh Tham tri chính sự tại triều Mông cổ. Cô có biết Tham tri chính sự là chức gì không? 
– Aáy à, ngài là Phó Tể tướng, xin lỗi tôi đã nặng lời. Tôi hỏi ngài… 
– Cô đang gọi tôi là anh sao lại đổi anh thành ngài mau như vậy?Cái tiếng ngài nghe chẳng thân mật chút nào. 
Những lời của Tây Viễn vương lại văng vẳng bên tai, Thanh Ngoan nhủ thầm: Mình cần biến gã Mông cổ này thành con nai, dễ sai khiến, hơn là khăng khăng coi y như cừu thù. 
– Thôi được rồi, em lại gọi ngài là anh. Này anh, tại sao anh lại nói tiếng Việt lưu loát như vậy? 
– Tại sao lại có người Việt nói tiếng Hán, tiếng Mông lưu loát? 
– Vậy anh mời em để làm gì? 
– Tôi từ Hoa lâm tới đây muốn liên lạc với Vũ Uy vương, nhưng không tiện xuất hiện, vì sợ bọn Đại lý, bọn Ngột Lương Hợp Thai biết, nên phải mời cô. Thấy cô mất tích, Vũ Uy vương sẽ suất lĩnh thủ hạ đi tìm cô. Thế là tôi được gặp người của vương. 
– À thì ra thế. Anh đã biết gì về Vũ Uy vương chưa? Tôi thấy võ công anh cũng cao đấy, nhưng so với vương thì thua xa. Anh bắt tôi thế này, vương biết thì vương sẽ đánh cho anh một trận đấy. 
– Tôi giam cô vào trong túi, mồ hôi cô toát ra nhiều quá. Mời cô đi tắm, thay y phục đã, rồi hãy nói truyện. 
Ngột A Đa sai thị nữ dẫn nàng đi tắm, lấy y phục Đại lý cho nàng thay. Bữa cơm chiều hôm đó y ngồi ăn với nàng. Bũa ăn khá thịnh soạn. Y hỏi thăm nàng về chiến cuộc Mông cổ.  
Nàng nghĩ thầm:  
– Y là phó Tể tướng thì tình hình hai bên y phải biết rõ. Ta chẳng nên dấu.  
Nghĩ vậy nàng cứ sự thực thuật lại.  
Ăn xong, Thanh Nga đi dạo một mình trong hoa viên, hy vọng Thần ưng đi tìm nàng bay qua, nàng sẽ gọi chúng xuống, gửi tín vật về báo cho La An. Nhưng trời đã chập choạng tối, thấy chim ưng bay qua, tuy nàng vẫy gọi, mà nó không nhìn thấy. Nàng lo nghĩ: 
– Mông cổ là bọn quỷ sứ, tên Ngột A Đa tuy tử tế, nhưng còn hằng trăm tên khác. Liệu đêm nay chúng có để cho ta yên không? Ta quyết định: ta đã dành tất cả cho Dã Tượng, nếu chúng làm nhục, ta sẽ tự tử để bảo toàn danh tiết với chàng. 
Bất giác nàng cất tiếng hát: 
Giang sơn một gánh, đôi vai,

Nhục nhằn xá kể, đêm dài tủi thân.

– Chà em hát hay thực. Em hát cho anh nghe một bài nữa được không? 
Thấy A Đa đổi cách xưng hô, từ cô tôi sang anh em. Nàng nhủ thầm: Nai mắc lưới rồi. Nhưng gã Mông cổ ơi! Bản cô  nương là cháu vua Trưng, là con bà Triệu, không dễ gì mi thành  công đâu: 
– Dĩ nhiên là được. Nhưng anh phải hứa giúp em một việc. 
– Việc gì? 
– Thân gái giữa chốn hang hùm, liệu bọn binh lính của anh có để cho em yên đêm nay không? 
– Ở đây, đại ca A Lan Đáp Nhi tuy đứng đầu nhưng người không phải là phường dâm đãng. Anh là người quyền hành đứng thứ nhì. Anh hứa với em rằng không có gì xẩy ra, bất cứ đứa nào hỗn với em, anh chặt đầu nó ngay. 
– Em tin lời anh. Để em hát cho anh nghe. 
Nàng cất tiếng hát một bài chầu văn, vừa hát nàng vừa nhảy, múa. Ngột A Đa ngây người ra nghe. Bài hát hết, y hỏi: 
– Điệu hát vừa rồi là điệu gì vậy? 
– Đó là hát chầu văn. 
– À anh có nghe nói, nhưng bài hát là bài tụng vị thánh nào thế? 
– Cô Đệ Tứ Khâm sai. 
Thế rồi đêm đó qua thực êm ả. Sáng hôm sau nàng ra sân ngóng chim ưng. Quả nhiên chim ưng tìm được nàng. Nàng gọi nó xuống, lấy cây châm bỏ vào ống thơ, rồi tung nó lên trời. Chim vừa bay lên trời thì có tiếng Ngột A Đa khen: 
– Em gửi châm như vậy, liệu Vũ Uy vương có tin không? 
Bị khám phá bí mật, Thanh Nga xấu hổ: 
– Em không chắc cho lắm. 
– Nhất định tối mai Vũ Uy vương sẽ theo chim ưng dẫn đường tới đây. 
Trọn ngày hôm sau Ngột A Đa luôn ở cạnh Thanh Nga. Y dạy nàng cỡi ngựa. Nàng tập nói tiếng Mông cổ với y. Thấy y say mê nghe hát, nàng hát cho y nghe các điệu Quan họ, Ả Đào, Trống quân, Xẩm, Lý. Nàng nghĩ thầm: 
– Tại sao trong hàng ngũ Mông cổ lại có người tử tế như Ngột A Đa! Rõ ràng y say mình, dùng hết cái nhu nhã để chinh phục mình. Y không phải là phường tham dâm hiếu sắc. Bằng không, thì tấm hồng nhan của mình đã hoen ố, tan nát. 
Tuy trong tâm nàng đã có Dã Tượng, song trước cung cách của y nàng cũng cảm. Nhưng lời vương phi Ý Ninh lại vẳng bên tai: phải cứng bóng vía, bằng không thì sẽ bị biến thành món đồ chơi của bọn tham dâm. 

Sau khi thuật nàng nhìn Tạ Quốc Ninh:

– Thầy có tin mừng! Mừng lắm lắm!

– Mừng gì? Mừng con sắp làm phu nhân của Tham tri chính sự Mông cổ ấy à?

– Không, của riêng thầy. Con hát cho thầy nghe này:

“ Nhớ ai dạ những bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”

Tạ hầu hỏi:

– Con nói gì thầy không hiểu.

– Lúc thầy rình ở khu bên trái, thì khu bên phải này Ngột A Đa nói truyện với cái ông mặc y phục Tống. Ông ta là người Việt. Ông thuộc trang động nào đó, mà động chủ đang muốn được Mông cổ phong cho làm An Nam Quốc vương. Còn ông ta, ông ta muốn làm Tể tướng. Trong câu truyện ông ta tiết lộ rằng Ngột Lương Hợp Thai bắt Tô lịch thất tiên gửi giam trong động của ông ta. Hiện Ngột Lương Hợp Thai đang sai người đem cống cho Hốt Tất Liệt để chạy tội bại binh ở Đại Việt.

Nghe Thanh Nga nói, chân tay Tạ Quốc Ninh run lẩy bẩy. Hầu chắp tay vái lên trời:

– Đa tạ Trời, Phật, nàng vẫn còn tại thế.

Qua cơn xúc động, Tạ Quốc Ninh hỏi Thanh Nga:

– Tại sao khi về, con lấy môi in lên chiếc khăn, rồi tặng cho Ngột A Đa?

Thanh Nga cười hóm hỉnh:

– Ngay lúc đầu gặp hắn, nhìn con mắt của hắn, con biết hắn say con rồi. Vì vậy con tỏ cử chỉ thân thiện, đốt lên ngọn lửa trong lòng hắn để hắn nhớ cái kỷ niệm bắt cóc con. Con thi hành bảo bối của Tây Viễn vương, làm cho y say mê con, tương lai con có thể sai y như con nai, con chó.

Nàng liếc nhìn Dã Tượng rồi nghĩ thầm:

– Tạ hầu đâu có hiểu lòng ta? Ta nguyện trọn đời ta, ta chỉ yêu thương có cái anh voi đồng quê kia mà thôi.

Vương phi bẹo má Thanh Nga:

– Em đã thành công, nhưng phải cứng bóng vía, không nên đùa với ái tình. Đùa với ái tình có hai điều nguy hại. Thứ nhất em dễ bị lưới tình làm hỏng đại sự. Em mà đùa nữa, thì chính em vướng vào lưới tình rồi gỡ không nổi đâu. Em phải tỉnh táo mới bắt được con nai này. Thứ nhì nếu lòng dạ em sắt đá quá, Ngột A Đa say mê em, y sẽ dùng tất cả quyền hành, võ công, mưu trí đọat em cho bằng được, cái tai hại của sứ đoàn không tránh được. Em phải luôn cho y nụ cười, khóe mắt.

Vương phất tay:

– Thôi khuya rồi. Đi ngủ thôi.

Mọi người về lều riêng. Vương hỏi vương phi:

– Em thấy Ngột A Đa là người thế nào?

– Y là con của Tây Viễn vương. Anh với y đã nhận được nhau. Ta cần gặp riêng y để định kế sách.

Vương hỏi phi:

– Em nghĩ sao về vụ xuất hiện của A Lan Đáp Nhi với A Ngột Đa?

– Anh em Mông Ca, Hốt Tất Liệt đang có sự chia rẽ.

– Em thử kiến giải xem có giống anh không?

– Này nhé, Hốt Tất Liệt đang thắng như trẻ tre, lại là em ruột Mông Ca, thế mà Mông Ca sai A Lan Đáp Nhi, Lưu Thái Bình với Ngột A Đa đi điều tra, thì rõ ràng là y muốn hạ bệ Hốt Tất Liệt rồi.

– Hay! Đúng ý anh.

– Xưa nay một thân vương có tài hơn nhà vua thì thế nào y cũng nghĩ tới đoạt ngôi. Dù y không có manh tâm thì bọn cận thần cũng dèm pha cho nhà vua giết thân vương đó đi để tránh hậu họa.

– Đúng!

– Lại nữa khi một bầy tôi cầm đại quân đang thắng như chẻ tre, ắt bọn cận thần sẽ dèm pha. Nếu nhà vua tin, thì sẽ giết bầy tôi có công, hoặc ít ra cũng nghi ngờ. Đời Hán, công lao, uy tín Hàn Tín vượt quá Hán Cao tổ mà bị giết cả ba họ. Thời Đông Hán, Nghiêm Tử Lăng cầm quân nghiêng nước, uy quán sơn hà mà bị vua Quang Vũ bắt giam. Ngay thời gian gần đây, tổ của chúng ta là Trần Thủ Huy, tài trí vượt xa Thái tử Long Xưởng, lại cầm đại quân, nên bị Long Xưởng hạ bệ. Đại phàm vua nghi ngờ thì bầy tôi chỉ có hai con đường, một là bầy tôi phản vua, hai là bầy tôi bị vua giết. Hốt Tất Liệt là người em tài trí vượt xa anh, đó là một đầu mối khiến Mông Ca nghi ngờ. Hốt Tất Liệt đang cầm đại quân, quyền nghiêng thiên hạ, đó là hai đầu mối khiến Mông Ca nghi ngờ. Hiện binh lực đang nằm trong tay Hốt Tất Liệt, Mông Ca không thể giải trừ binh quyền của em. Y phải kiếm cớ. Vì vậy y mới sai bầy tôi đi điều tra. A Lan Đáp Nhi sẽ tìm cái xương trong qủa trứng gà, chẻ sợi tóc làm tư, tạo ra tội Hốt Tất Liệt. Binh tướng dưới quyền Hốt Tất Liệt đâu có thể ngồi yên nhìn chúa tướng bị hại? Chúa tướng bị hại, họ cũng khó bảo toàn tính mạng. Họ sẽ xui Hốt Tất Liệt phản Mông Ca.

– Hay! Mông cổ sắp có nội chiến đến nơi rồi. Ta cố tìm cách xen vào cho họ chém giết nhau thực kinh khủng. Như vậy, sau trận chiến dù phe nào thắng thì tinh lực cũng kiệt quệ. Đại Việt ta nhờ vậy mới được yên.

Vừa lúc đó Dã Tượng cầm con dao vào trình với vương:

– Có người tới ngoài trại, trao cho cháu con dao này, nói rằng y muốn yết kiến chú.

Phi nhìn chồng:

– Ngột A Đa đấy. Chúng ta phải đối xử với y ra sao? Xưng hô thế nào? Nếu theo đúng vai vế trong họ thì mình phải gọi y bằng chú. Còn theo tuổi thì y ngang với anh.

– Điều này trong tộc Đông A đã định rồi. Nếu trong vòng bốn đời thì xưng hô theo vai vế. Còn trên bốn đời thì theo tuổi. Vậy ta cứ coi như ngang hàng với y.

– Còn đối xử? Vì y hiện giữ chức Tham tri chính sự của Mông Ca. Liệu y có còn nhớ đến cố quốc nhỏ bé không? Hay y thiết tha với chức quan lớn của một đại quốc?

Vương hỏi phi:

– Em định sao?

– Mình cứ đưa đẩy câu truyện, rồi sẽ tính. Qua lời Thanh Nga, thì y say mê con bé nhà mình. Y làm tới Tham tri chính sự, không thiếu gì những mỹ nhân xinh đẹp người Hán, người Kim, người Mông. Thế nhưng gặp Thanh Nga y say mê đến điên đảo thần hồn. Còn cái con Thanh Nga nhà mình cũng không vừa, nó đã quyết gửi thân cho Dã Tượng, nhưng nhớ lời Tây Viễn vương, nó quyết bắt A Đa, để làm lợi cho mình. Nóù đốt lên ngọn lửa lòng với A Đa. Em nghĩ: Y yêu Thanh Nga vì tiếng hát, vì cái duyên của cô gái Việt. Để em cho cả năm con bé Đông hoa xuất hiện bắt hồn y luôn, thì tự nhiên con người thực của y sẽ hiện ra. Nếu y thực lòng hướng về cố quốc, y say mê con bé nào, ta gả cho y.

– Ý kiến em thực sâu sắc. Kể ra y là con của Tây Viễn vương, thì bất cứ con bé nào của mình làm vợ y cũng đáng hãnh diện.

– Anh tiếp y, để em ra ngoài sắp xếp bọn Đông hoa. Em sẽ mời thầy Tạ Quốc Ninh ngồi sau lều theo dõi câu truyện, thầy sẽ giúp ta ý kiến.

Vương truyền lệnh cho Dã Tượng:

– Dẫn người ấy vào đây.

Ngột A Đa vào lều. Lễ nghi tất. Vương bảo Dã Tượng:

– Con dùng Ngao binh canh phòng quanh lều của chú. Bất cứ ai cũng không cho vào.

Vương lấy con dao của Trần Tử An ra trao cho Ngột A Đa:

– Báo cho A Đa biết, phụ thân của anh khi về Đại Việt lập công lớn, được Nguyên Phong hoàng đế phong tước Tây Viễn vương, lĩnh Phiêu kị đại tướng quân. Trước khi tôi lên đường người cho tôi con dao này để làm tín vật khi gặp huynh. Huynh có tin tôi không?

– Dĩ nhiên tôi tin anh thì tôi mới tới đây.

– Tôi muốn hỏi anh tin tức…

– Của Thanh Nga?

– Vâng!

– Thanh Nga nói với tôi rằng anh là bố cô ấy? Tôi nghĩ các thiếu nữ đều lí lắc, chứ bà vợ anh tuổi cao nhất thì hai mươi là cùng, làm sao có thể có con lớn như Thanh Nga.

– Đúng vậy! Thanh Nga là em kết nghĩa của tôi.

Thình lình tiếng Tạ Quốc Ninh dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai hầu:

“ Qua vài câu nói, thần nhận thấy con người A Đa ít nhất là một đấng trượng phu đa tình. Y yêu thương Thanh Nga thực tình. Như vậy có thể tin y được. Suốt trong lịch sử chiến cuộc giữa các nước với Mông cổ, chưa từng có việc dụng mỹ nhân kế. A Đa không biết mà đề phòng đâu. Xin vương gia cũng tỏ ra thực thà, thuật lại cuộc gặp gỡ giữa vương gia với Thanh Nga cho A Đa nghe”. 

Vũ Uy vương khoan thai thuật lại kỷ niệm gặp Thanh Nga tại quán văn Thiên Thư cho A Đa nghe.

Đến đó vương phi vào:

– Anh em nói truyện mãi! Bây giờ khuya rồi, chúng ta cùng đói. Hãy ăn đã.

Cửa lều vén lên. Thúy Trang bưng chiếc khay có hai đĩa, một đĩa đựng mươi xâu bún chả Thăng long bốc lên thơm nực, một đựng đĩa rau muống chẻ cong queo với kinh giới. Thúy Nga bưng khay đựng bát, đũa, muỗm, muôi, nước chấm. Hồng Nga bưng khay có nậm rượu với mấy cái chén. Thúy Hồng bưng một liễn lớn đựng riêu cua. Nhanh nhẹn, bốn nàng bầy ra bàn, cùng nhìn A Đa liếc mắt nghiêng mình chào.

A Đa gặp Thanh Nga, sắc đẹp thiếu nữõ dậy thì như hoa nở khiến y ngây ngất, nàng lại hát cho y nghe, y đã bị hấp mất hồn, rồi lúc về nàng còn in môi lên chiếc khăn tặng. Từ lúc ấy y cảm thấy như người say rượu. Bây giờ trước mặt y lại xuất hiện bốn thiếu nữ tuyệt sắc, đang độ nở hoa như Thanh Nga. Y ngây người ra nhìn.

Vương phi đưa mắt cho Thúy Trang, Thúy Hồng:

– Các em mời ngài Tham tri đi chứ,

Thúy Trang dùng đũa gỡ thịt ra khỏi que xiên, gắp rau muống chẻ vào một cái bát, múc nước mắm chấm đổ lên trên rồi nghiêng mình để trước mặt A Đa. Tấm thân nàng uốn lượn, chạm vào người y. Hương thơm trinh nữ làm y ngây ngất. Thúy Hồng rót một chén rượu, bưng lên, nàng cất tiếng hát:

Rượu thơm, thơm cả tay tiên,

Chén quỳnh xin cạn, làm duyên hẹn hò.

Cả bốn nàng cùng lui lại, Thúy Hồng kéo nhị, Thúy Trang thổi sáo, Thúy Nga gõ trống mảnh, Hồng Nga vỗ trống cơm. Bốn nàng thay nhau hát những bài tình ca dân gian. Ngột A Đa từng nghe các ca nhi Tây vực, Mông cổ, Trung nguyên tấu nhạc, ca hát. Nhưng lời ca cũng như nhạc cụ không làm y cảm động bằng hôm nay, vì bốn nàng mặc y phục Việt, ca bằng tiếng Việt, làm hồn phách A Đa phiêu phiêu như đi trên mây. Y muốn hỏi Thanh Nga đâu, mà ngượng ngùng không dám mở miệng.

Bữa ăn vừa tàn, bốn nàng dọn bát đũa đi. Vương phi ho lên một tiếng, Thanh Nga bước vào. Phi nháy mắt cho Thanh Nga. Nàng cầm nậm rót hết rượu ra một cái chén lớn, đến trước mặt A Đa, một tay bưng chén, một tay vén tay áo, nàng nghiêng mình trao cho y. Nàng cất tiếng hát:

Tay tiên rót chén rượu đào,

Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say.

A Đa ngây ngất, một tay đỡ chén rượu, một tay cầm lấy tay Thanh Nga. Thanh Nga để cho A Đa cầm tay, nàng mỉm cười, đầu nghiêng nghiêng, rồi từ từ gỡ tay y ra.

Vương phi thấy như vậy cũng đủ bắt hồn phách Ngột A Đa rồi, phi đưa mắt, năm nàng chào A Đa, liếc mắt đưa tình, chân lướt trên đất rời lều.

Vũ Uy vương nắm tay Ngột A Đa:

– Nào bây giờ chúng ta bàn quốc sự. Này huynh, triều đình Đại Việt đang muốn biết rõ tình hình Mông cổ ra sao. Huynh có thể cho tôi nghe được không?

– Được chứ! Tôi tìm đến đây cũng chỉ vì muốn cung cấp đầy đủ tin tức cho Đại Việt mà thôi, rồi chúng ta định kế sách sao cho Đại Việt tránh khỏi tai ách chiến tranh.

Ngột A Đa trình bầy:

Năm Tân Hợi (1251), bên Đại Việt là niên hiệu Nguyên Phong nguyên niên đời vua Trần Thái tông, Mông cổ tổ chức đại hội các Hãn, bầu Mông Ca, con trưởng của Đà Lôi lên làm Đại hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ca thi hành di chiếu của Thành Cát Tư Hãn phải diệt cho bằng được nước lớn nhất thiên hạ là Tống. Lãnh thổ phía Đông Nam đối với Mông cổ là Liêu, Kim, Cao ly, Hoa Bắc, cả vùng rộng lớn này bị Mông cổ chiếm từ thời Thành Cát Tư Hãn. Chính Thành Cát Tư Hãn để di chiếu cho Hốt Tất Liệt làm vua vùng này. 
Từ nhỏ Hốt Tất Liệt đã từ chối học văn hóa, văn tự các nước vùng Tây vực, mà thiết tha học chữ Hán. Khi đến 13 tuổi, được phong tước thân vương, Hốt Tất Liệt chủ trương dùng Hán pháp. Hán pháp để chỉ dùng phương sách cai trị, luật pháp, văn minh của Hoa hạ. Các quan trong vương phủ của Hốt Tất Liệt toàn là những nho sĩ tài ba. Khắp lãnh thổ của Hốt Tất Liệt phồn thịnh, dân chúng yên vui, binh lực hùng mạnh. Dân chúng, sĩ phu cảm thấy cuộc sống an ninh, hạnh phúc hơn dưới quyền cai trị của Tống. Hoa Bắc, Liêu, Kim như một lãnh thổ Hán, chứ không phải bị rợ Thát đát cai trị. 
Vì vậy Mông Ca sai Hốt Tất Liệt lĩnh đại binh đánh Tống. Hốt Tất Liệt chia binh làm hai mũi (1252, bên Đại Việt là Nguyên Phong nguyên thứ nhì đời vua Trần Thái tông) 
– Mũi chính trực diện dánh từ Bắc xuống Nam qua sông Trường giang. Mũi này quân sĩ là quân hỗn hợp người Hán, Mông. 
– Mũi thứ nhì chính Hốt Tất Liệt đánh vòng qua phía Tây, rồi tiến về phía Đông, đánh bọc hậu Tống. 
Hốt Tất Liệt định rõ sách lược: muốn đánh bọc phía Nam của Tống gồm Tứ xuyên, Quý châu, Quảng Tây thì phải bắt đầu từ Cam túc, tiến đánh Tây tạng. Tuy đường xá vất vả, nhưng đạo binh này thành công dễ dàng.   
Từ Tây tạng Hốt Tất Liệt biết rằng phải tiến đánh Đại lý, Đại Việt, sau đó dùng tù hàng binh, lương thảo hai nước nhỏ, chĩa mũi dùi đánh vào Tứ xuyên, Quảng Tây, nằm ở phía Nam của Tống. 
Trước hết đánh Đại lý. 
Đại lý là một nước được thành lập đã trên nghìn năm, lãnh thổ gồm Vân Nam và một phần Tứ xuyên, Quảng Đông ngày nay. Nhờ tài nguyên phong phú, địa thế phía Tây, Nam biệt lập với Tây tạng, Đại Việt bằng những dẫy núi hiểm trở. Lại được con sông Kim sa giang ngăn cách với Tống, vì vậy họ không chịu tổ chức binh bị đề phòng. 
Hốt Tất Liệt chia binh làm ba mũi: 
– Mũi thứ nhất đánh từ phía Đông, do Sao Hợp làm chánh tướng, phó tướng là Giả Chỉ Liệt. 
– Mũi thứ nhì đánh từ phía Tây do Ngột Lương Hợp Thai, Hoài Đô, A Truật, A Tan. 
– Chính Hốt Tất Liệt chỉ huy trung quân. 
Vua quan Đại lý bị bất ngờ, vì phía Đông, phía Bắc là lãnh thổ Tống. Tống đang dồn hết lực chống Mông cổ ở phía Đông và Bắc. Nào ngờ thình lình Mông cổ xuất hiện. Toàn quốc náo loạn. Hốt Tất Liệt sai sứ vào thuyết phục: nếu đầu hàng sẽ cho tồn tại. Vua Đại lý là Đoàn Hưng Trí xin đầu hàng (Tháng 12 năm 1253, bên Đại Việt là niên hiệu Nguyên Phong thứ 3, đời vua Trần Thái tông). 
Hốt Tất Liệt, định vượt biên đánh Đại Việt, nhưng các tham tướng can rằng: không nên. Vì ba lý do. 
– Thứ nhất Đại Việt vốn là nơi rồng nằm hổ phục, từ xưa Nam Hán, Tống bao phen đánh đều thất bại. Nếu có đánh chưa chắc thành công.  

Thứ nhì, mục đích của Mông Ca là đánh Tống. Nay đã chiếm dược Đại lý rồi, ta đánh từ Nam vào Tứ xuyên, để bắt tay với đạo quân từ Bắc đánh xuống. Sau khi chiếm được Tứ xuyên, ta tiến về Đông, đánh Quý châu, Trường sa, thì Tống sẽ mất.

Thứ ba, quân của ta trải quá rộng từ Cam túc, xuống Tây tạng, Đại lý. Bây giờ phải quay lên Bắc đánh Tống, như vậy e không đủ.

Hốt Tất Liệt nghe theo. Y để Ngột Lương Hợp Thai trấn Đại lý. Y đem quân hướng lên Bắc đánh vào Tứ xuyên. Tứ xuyên bị tấn công ba mũi: phía Bắc từ Dương bình quan, phía Tây từ Cam túc, phía Nam từ Đại lý. Cho đến giữa năm (1255 Aát Mùi, bên Đại Việt là niên hiệu Nguyên Phong thứ 5, đời vua Trần Thái tông) thì Tứ xuyên bị chiếm hết quá nửa. Hốt Tất Liệt muốn tiến chiếm Hồ Nam, Quý châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Nhưng gặp phải sức chống cự mãnh liệt của quân Tống. 
Một mưu sĩ hiến kế: 
– Trước kia thần nghị với vương gia rằng không nên đánh Giao chỉ ngay, vì Bắc phải đánh Tứ xuyên, Đông phải đánh Quảng tây, quân ta trải rộng khắp Cam túc, Tây tạng. Nay Bắc thì Tứ xuyên ta chiếm được quá nửa, lực lượng Tống tại đây như ngọn nến dập dờ gặp bão. Cam túc, Tây tạng sau 6 năm, đã bình định yên ổn. Bây giờ là lúc ta cần đánh Giao chỉ. Giao chỉ tuy mạnh, nhưng là một nước nhỏ, vua quan Giao chỉ đã thấy ta chiếm Tây tạng, Đại lý, Tứ xuyên ắt ngày đêm lo sợ. Vậy ta chỉ cần dàn quân tại biên giới rồi sai sứ sang chiêu hàng, thì vua quan Giao chỉ theo gió cuốn cờ chịu lệ thuộc. Được Giao chỉ, ta sẽ có gì? Binh tướng Giao chỉ can trường, thiện chiến. Từ ngàn xưa, truyền thống của Giao chỉ là khi đánh nhau với Tống thì bao giờ họ cũng thắng. Người Giao chỉ rất giỏi thủy chiến. Họ có bốn hạm đội, với nhữõng chiến thuyền đi biển nhanh như tên bắn. Ta dùng Thủy quân của họ vượt biển đánh vào Quảng Đông, Phúc kiến, thì Tống không thể chống nổi. Giao chỉ là đất bờ xôi giếng mật, họ có thể cung ứng lương thảo cho mặt trận Tứ xuyên, Quảng Tây của ta. 
Hốt Tất Liệt đồng ý. Trước hết y sai sứ sang chiêu dụ Đại Việt đầu hàng, với lời hứa để cho triều Trần tồn tại. Mông cổ chỉ đặt một vị quan cạnh triều đình mà thôi. Đất nước được bảo vệ. Còn như không chịu hàng, quân Mông cổ tàn phá, toàn quốc chỉ còn lại bãi đất hoang. 
Nhưng sứ đi, sứ lại suốt hai năm khi thì Đại Việt viện cớ này, khi thì viện cớ khác không chịu quy hàng. Cuối cùng Đại Việt còn bắt giam ba sứ đoàn của Mông cổ. Không đừng được, Hốt Tất Liệt ra lệnh cho Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn Lôi kị, 10 vạn hàng binh Đại lý vượt biên tràn vào Đại Việt.  
Ngột Lương Hợp Thai đại bại. 
Truyền thống từ thời Thành Cát Tư Hãn là khi quân Mông cổ đánh tới đâu phải toàn thắng. Nếu vì lý do nào bị bại, thì chúa tướng phải dùng toàn lực sang đánh trả thù để bảo toàn cái uy: Mông cổ không đánh thì thôi, còn đánh thì phải thắng. Được tin Ngột Lương Hợp Thai đại bại, Hốt Tất Liệt bỏ mặt trận Quan trung đích thân đem đại binh xuống Đại lý quyết diệt Đại Việt. 
Đúng lúc đó, Hốt Tất Liệt cảm thấy khắp lãnh địa của mình gồm Hoa Bắc, Tứ xuyên, Quan trung, Đông xuyên, Tây xuyên đang có gì khác lạ. Sứ thần của Mông Ca đến khắp nơi bắt giam, xử tử rất nhiều quan lại, tướng lãnh, rồi thay thế bằng những người mới do Mông Ca cử đến. Kinh khủng hơn nữa Mông Ca còn thành lập một cơ quan là Câu Khảo Cục, chuyên điều tra Hốt Tất Liệt. Cơ quan này có toàn quyền xử tử, cách chức bất cứ quan chức, tướng lãnh nào của Hốt Tất Liệt. 
Hốt Tất Liệt thấy nguy, muốn bỏ ý định đánh Đại Việt. Nhưng bỏ ý định này thì mất hết uy danh. Về phía Đại Việt, đang lúc chiến thắng, muốn tránh cuộc trả thù Mông cổ, triều đình nghị: nên vuốt ve lòng tự ái của kẻ thù bằng cách thuận theo yêu sách trước cuộc chiến: 
Một là đích thân quốc vương phải vào chầu,

Hai là đem trưởng nam làm con tin,
Ba là kê biên dân số,
Bốn là phải chịu quân dịch,
Năm là phải nộp thuế, lương thảo.
Sáu là nhận Đạt lỗ hoa xích (Đa gu ra tri).
– Trao trả tù hàng binh.

Đại Việt thuận điều một và ba. Còn điều hai thì lấy cớ, toàn quốc vừa trải qua cuộc chiến, dân chúng đói khổ không thể cung ứng lương thảo. Binh tướng thì bị tử thương trong cuộc chiến, không còn tinh lực giúp Mông cổ tham chiến.


Crypto.com Exchange

Hồi (1-61)


<