Vay nóng Homecredit

Truyện:Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông - Hồi 29

Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông
Trọn bộ 50 hồi
Hồi 29: Đại Đế Thành Cát Tư Hãn
5.00
(một lượt)


Hồi (1-50)

Siêu sale Lazada

Nước mắt đầm đìa, Đoan-Nghi vỗ vào vai Long-Tùng Đoan-Thanh, hút độc tố Huyền-âm, rồi than:

– Tục ngữ Việt có câu: Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ, thực không sai. Sáng nay chị thấy hai em theo dõi, lại tưởng là gian tế mưu hại, nên mới phóng độc, để biết tông tích kẻ theo mình. Không ngờ là ruột thịt mình.

Đoan-Nghi hỏi Đoan-Thanh:

– Tiểu muội! Thế cái gã đánh xe ngựa cho chúng tôi là ai?

– Y là người của phái Không-động tại Quảng-châu. Thần không rõ y giả làm phu xe với ý định gì?

Đoan-Nghi cầm tay Đoan-Thanh:

– Em ạ! Vạn lý tha hương ngộ cố tri còn đáng mừng, huống chi chúng ta là máu mủ. Vậy hai em cứ gọi chúng ta là anh, là chị cho thân mật.

Thủ-Huy quyết định:

– Khả-hãn Mông-cổ đã có lòng tưởng nhớ cố cựu, chúng ta lại đang ở vào cái thế cùng đường. Về nước thì con dâm phụ Đỗ Thụy-Châu sẽ kết tội vi chỉ. Còn như ở đây, thì là tù giam lỏng. Nào! Chúng ta hãy đi Mông-cổ du ngoạn một lần cho tiêu sầu. Vậy ngay từ ngày mai, hai em dậy tất cả chúng ta nói tiếng Mông-cổ. Không biết tiếng Mông-cổ có khó học không?

– Rất dễ học.

Đoan-Thanh mỉm cười: Người Mông-cổ học tiếng Việt dễ dàng, thì người Việt học tiếng nói vùng Thảo-nguyên cũng không khó.

Từ khi theo cặp vợ chồng này, Thúy-Thúy thấy bất cứ quyết định gì, dù nhỏ nhặt, Thủ-Huy cũng hỏi ý kiến vợ. Thế mà bây giờ quyết định một việc cực kỳ hệ trọng, Thủ-Huy lại đơn phương hạ lệnh. Nàng không khỏi lo ngại cho hạnh phúc của chủ nhân.

Thủ-Huy hỏi Long-Tùng:

– Hồi chúng ta lên Mông-cổ, thì các em ở đâu, mà chúng ta không gặp?

– Bấy giờ song thân em đang ở ngọn núi Thiết-sơn tại miền Bắc, để huấn luyện binh pháp Đại-Việt cho binh đoàn Mông-cổ. Sau khi sứ đoàn Mông-cổ đi Đại-Việt kết thân, Khả-hãn mới gọi song thân em về, để hỏi thăm lịch sử, phong tục nước mình.

– Thế từ khi chúng ta rời Mông-cổ đến giờ, Khả-hãn Thiết Mộc Chân với chư vị tướng lĩnh có gì thay đổi không?

– Thay đổi nhiều lắm!

Long-Tùng thuật: Mông-cổ đang từ một bộï tộc nhỏ bé, nhờ Khả-hãn Thiết Mộc Chân có tài, có đức mà trở thành một nước đứng hàng thứ ba ở vùng đồng cỏ, nên không thể nào tránh được cái nạn ghen ghét. Lại nữa Khả-hãn Thiết Mộc Chân xuất thân từ một đứa trẻ mồ côi, bị đời khinh miệt, chỉ trong một thời gian ngắn, vươn lên địa vị vị Đại-hãn uy tín bậc nhì, bậc ba vùng cực Bắc, nên phải hứng tất cả những đố kị. Vì vậy, Mông-cổ luôn bị đặt vào thế phải chiến đấu để tự tồn.

Thủ-Huy muốn tìm hiểu tường tận về Mông-cổ, công tỏ mối chân tình:

– Tôi với các tướng Mông-cổ tuy thân với nhau. Nhờ Thái-tử sâm của họ mà tôi còn sống đến ngày nay. Tôi cũng cứu mạng cho họ. Tình nghĩa cực thâm trọng, nhưng tôi lại biết rất ít về họ. Thủa thiếu thời, đọc sử Trung-quốc, tôi chỉ biết rằng, vùng phía Nam Vạn-lý trường thành thì gọi là Quan-nội, tộc Hán sống ở đây. Vùng ngoài Vạn-lý trường thành thì gọi là Quan-ngoại. Các bộ tộc sống theo lối du mục, người Hán gọi là…

– Rợ! Là Địch! Là Hung-nô!

Đoan-Thanh cướp lời Thủ-Huy: Nếu cứ gọi theo người Hán, thì những người ở phương Bắc đều là Địch, ở phương Tây đều là Nhung, ở phương Đông đều là Di, và ở phương Nam đều là…

– Man!

Thủ-Huy cũng ngắt lời Đoan-Thanh: Đấy kinh Thư do mấy ông nhà văn hủ lậu viết ra, rồi người sau cứ thế mà tin. Cứ như trong bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên, vào thời Tần Thủy-hoàng, các bộ tộc Hán ở phía Bắc bị những dân du mục vào đánh phá, nên nhà vua cho xây thành để đề phòng. Bộ Hán-thư thuật: Tuy có Trường-thành bảo vệ, nhưng đời Hán, dân Trung-quốc vẫn bị dân du mục vượt qua, vào đánh phá. Vua Hán phải đem những cung nga xinh đẹp cống cho các chúa ở Quan-ngoại để được yên thân. Sang đời Tấn, lại bị năm bộ tộc thay nhau đánh chiếm, rồi cai trị Trung-nguyên, sử Trung-quốc gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa…(304-439 sau TL) Đầu đời Tống, bộ tộc Khiết-đan mạnh hơn, thành lập nước Liêu, đánh chiếm nửa giang sơn Tống, bắt Tống tiến cống, dâng đất rất nhục nhã. Cho đến gần đây, bộ tộc Nữ-chân hùng mạnh lên, diệt Liêu, thành lập Kim, tràn vào chiếm Trung-nguyên, bắt vua Huy-tông, Khâm-tông, hoàng hậu, phi tần mang về. Hiện Tống chỉ còn lại từ vùng Trường-giang trở xuống. Đấy, tôi biết có vậy mà thôi. Nguồn gốc tộc Mông-cổ thế nào, tôi mù tịt.

Thấy Thủ-Huy thành thực, Long-Tùng bảo Đoan-Thanh:

– Em hãy thuật tiểu sử Đại-hãn của Mông-cổ cho phò mã biết.

Đoan-Thanh ngồi ngay ngắn lại thuật:

– Kim chỉ cai trị được vùng Bắc Trung-nguyên, cùng một số vùng Quan-ngoại, nơi mà dân chúng sống bằng nghề nông. Còn vùng bình nguyên cỏ hoang mênh mông, đầy thú hoang, nước ngọt, thường gọi tắt là Thảo nguyên, dân du mục sống thành tộc nhỏ, thì Kim chịu thua. Khởi đầu Mông-cổ chỉ là một tộc của vùng Thảo-nguyên. Sau nhiều đời, tộc Mông-cổ chinh phục, hoặc kết nạp một số tộc khác về sống chung thành một bộ tộc. Tại vùng Thảo-nguyên trải qua mấy trăm năm, khi thì các bộ tộc chém giết, thôn tính lẫn nhau. Khi thì đoàn kết chống xâm lăng. Cuối cùng các bộ tộc hình thành nhiều nước. Các nước này nói cùng thứ tiếng, cùng một tổ chức cai trị, sống thành đoàn trại, gọi là tiểu quốc.

Long-Tùng giải thích thêm:

– Bên mình thì đơn vị nhỏ nhất là làng, xã, rồi quận, huyện, cao hơn là châu, lộ. Cuối cùng là nước. Tại vùng Thảo-nguyên thì là tộc, bộ tộc, tiểu quốc. Tuy tên khác nhau, nhưng cũng có hệ thống, thứ bậc.

Đoan-Thanh tiếp:

– Mỗi tộc có một tộc trưởng theo lối cha truyền con nối, họ là những nhà quý tộc. Người cầm đầu của mỗi bộ tộc gọi là Hãn. Hãn có thể do cha truyền con nối, có thể do các quý tộc bầu lên. Mọi luật lệ, mọi quyết định của bộ tộc đều do hội đồng quý tộc quyết định.

Thủ-Huy khen:

– Hay! Như vậy tránh được cái nạn quyền hành nằm trong tay Hãn, rồi muốn giết ai thì giết, muốn ban phúc giáng họa cho ai thì ban. Thế cái hội đồng quý tộc đó do ai điều khiển! Hay cũng bầu lên?

– Người điều khiển hội đồng quý tộc không phải là các Hãn mà là các Đạo-sư. Đạo-sư là các tu sĩ, coi như người đại điện của Thượng-đế Mặt-trời.

Đoan-Nghi thắc mắc:

– Nếu vậy, thì giữa Đạo-sư với Hãn, ai nắm thực quyền?

– Tùy bộ tộc. Khi các Hãn mạnh thì họ lấn át Đạo-sư. Khi Đạo-sư mạnh thì họ lấn át các Hãn. Có khi các Hãn kiêm luôn Đạo-sư. Trong khoảng hơn ba trăm năm gần đây vì nhu cầu tự vệ để sống còn, các bộ tộc hợp nhau lại thành những nước nhỏ. Thủ-lĩnh các nước nhỏ này gọi là Khả-hãn. Mỗi nước nhỏ đều có hội đồng quý tộc, hội đồng cũng do các Đạo-sư điều khiển. Từ ngày có các nước nhỏ, thì các nước này thường vượt biên tràn cào các nước văn minh, định cư như Thổ-phồn, Tây-hạ Tây-liêu, Đại-kim cướp bóc. Các nước này muốn có một biên giới phía Bắc yên ổn, đã tìm đủ cách thu phục các tiểu quốc Thảo-nguyên. Khi thì dụ dỗ phong chức tước, khi thì đem quân chinh phạt, khi thì giúp nước này đánh nước kia. Vì vậy chiến tranh giữa các nước vùng Thảo-nguyên không bao giờ ngừng. Sau một thời gian, các nước nhỏ bị chinh phạt, hoặc tự nguyện kết hợp lại thành những nước lớn. Hiện nay toàn Thảo-nguyên còn lại có ba nước lớn theo thứ tự là Nãi-man, Khắc-liệt, Mông-cổ. Mỗi nước có một vua, gọi là Đại-hãn. Cạnh Đại-hãn cũng có một hội đồng quý tộc, do các Tổng Đạo-sư điều khiển.

Đoan-Nghi hỏi:

– Em đã biết Trung-quốc, Đại-Việt. So với Trung, với Việt, vùng Thảo-nguyên này rộng, hẹp thế nào?

– Về diện tích thì lớn hơn Trung-quốc. Về dân số, thì chỉ bằng ba Đại-Việt mà thôi. Phía Bắc là vùng tuyết phủ quanh năm không có người ở, chưa định được giới hạn. Đông-Nam giáp nước Kim. Nam giáp các nước Tây-liêu, Thổ-phồn, Tây-hạ. Tây giáp vùng đất núi hoang vu của các bộ tộc của rợ tóc đỏ, mũi lõ, tóc quăn (Nay thuộc Trung-Đông).

Nghe Đoan-Thanh thuật, trí nhớ trở về mấy năm trước khi thăm Mông-cổ, Thủ-Huy nắm ngay được vấn đề trước mắt: Các nước vùng Thảo-nguyên, bị những nước lớn xung quanh như Tống, Kim, Liêu, Hạ khinh khi, khi thì bắt tiến cống, khi thì bắt phụ thuộc, để được phong chức tước vô vị… Trước sau gì các nước hoặc bị diệt, hoặc thống nhất về một mối. Nếu như ta giúp cho các nước thống nhất thì họ là mối lo lớn cho tộc Hoa. Tộc Hoa luôn phải đối phó với họ thì tộc Việt ta có thể bớt đi cái họa phương Bắc. Ta thấy, trong ba Đại-hãn, thì Thiết Mộc Chân có chí lớn, lại đang ra sức kết nạp hào kiệt, rõ ràng ông ta muốn làm một chúa của các Đại-hãn. Với tài nguyên trù phú, với tinh thần hiếu chiến, nếu như ba nước này thống nhất thì họ sẽ là một cái hoạ lớn cho Kim, Tây-hạ, Thổ-phồn, Tống. Ta nên gúp họ để họ chia bớt cái họa tộc Hoa với ta.

Nghĩ vậy Thủ-Huy hỏi:

– Thế Khả-hãn của mỗi nước theo lối cha truyền con nối, hay do cách cử người có tài?

– Thưa lúc đầu thì theo lối cử người tài. Gần đây chuyển sang lối cha truyền con nối cũng có, mà cử người tài cũng có. Trong mỗi nước như vậy, Khả-hãn, Đạo-sư là người có uy quyền tuyệt đối. Dưới Khả-hãn chia làm bốn loại người. Loại thứ nhất là quý tộc, nắm quyền thống trị, gồm có Hãn, tộc trưởng, dũng sĩ, hiền nhân tức người tài giỏi. Lọai thứ nhì là các chiến sĩ. Loại thứ ba là thường dân. Loại thứ tư là tôi tớ, loại này là dân chúng những bộ lạc thua trận, bị bắt về để trồng cấy, chăn nuôi, hầu hạ. Về cuộc sống hằng ngày, dân chúng ở trong những lều trại bằng da thú. Họ di chuyển không ngừng. Nhưng chỉ di chuyển trong vùng thuộc lãnh thổ của họ. Về mùa Hạ thì họ di chuyển khắp nơi. Về mùa Đông thì họ di chuyển về phương Nam. Tuy nhiên họ luôn bám lấy những con sông, những thác nước, những vùng hồ ao. Vì chỉ những nơi này mới có thú. Họ sinh sống bằng canh nông hoặc săn bắn. Họ không có văn tự. Nhiều bộ tộc dùng văn tự Trung-quốc, Tây-hạ, Thổ-phồn. Trẻ con không tới trường học chữ. Ngay từ hồi sáu tuổi, chúng đã được sống tập thể, học bắn cung, cỡi ngựa, săn thú. Khi đến tuổi trưởng thành (12-14) thì mỗi người đều làm sở hữu chủ ít nhất một con ngựa. Dân chúng không theo một tôn giáo nào cả. Họ thờ nhiều thần như thần mặt trời, thần sông, thần núi, thần cây cổ thụ, thần hổ, thần báo…Trong mỗi tộc, bộ tộc đều có một đạo sư. Vị đạo sư này uy quyền ngang với các Hãn. Họ là người nhà trời. Mỗi lời nói của họ đều là lời nói của trời. Dân chúng tin theo răm rắp.

Thủ-Huy muốn biết về Mông-cổ, công kéo Đoan-Thanh trở về câu hỏi của mình:

– Thế Đại-hãn Thiết Mộc Chân được lên làm vua là do cử hiền hay cha truyền con nối?

– Cả hai.

Đoan-Thanh đáp:

– Thiết Mộc Chân là hậu duệ đời thứ mười của giòng họ Kỳ-ác-ôn (1) thuộc tộc Ki-dát Bọt-di-linh (2). Giòng họ này tự hào là con cháu của loài Sói-xám, cũng như ta tự hào là con Rồng, cháu Tiên vậy. Ông tổ mười đời tên Bột-đoan Nghĩa-nhi (3), lập ra nước Mông-cổ, được tôn là Quốc-tổ. Nếu chủ đạo của ta tin việc Quốc-tổ Lạc-long quân lấy Quốc-mẫu Âu-cơ, đẻ ra trăm trứng, nở ra trăm con, thì chủ đạo Mông-cổ cũng có chủ đạo tương tự. Bà mẹ của Bột-đoan Nghĩa-nhi tên A-lan Đông-hỏa kết hôn với ông Thoát-bôn Dương-ly-kiến, sinh ra hai con trai. Con trưởng là Bác-cơ Cát-đáp-hắc, thứ tên Bác-hợp Tát-trực. Sau đó chồng chết. Bà A-lan ở vậy nuôi con. Một đêm, nằm ngủ trong phòng, bà thấy một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu qua song cửa phủ lên người, một thần nhân sắc vàng bay vào nằm trên bụng. Bà kinh hãi, rùng mình, rồi mang thai, sau sinh ra một trai, đặt tên là Bột-đoan Nghĩa-nhi. Lớn lên, Bộ-đoan Nghĩ-nhi có tướng mạo kỳ vỹ, trầm tư ít nói, chúng nhân cho rằng ông là một tên ngốc. Duy bà A-lan nói: Nghĩa-nhi không ngốc đâu. Sau này con cháu nó sẽ là những người đại quý. Khi A-lan qua đời, Nghĩa-nhi thản nhiên nói với các anh: Bần, tiện, phú, quý đều có mệnh, tài vật này thì đâu đáng kể. Rồi không lấy một món nào. Ông rời các anh, cỡi con ngựa trắng đến vùng Bát-lý-truân A-lại cư trú, ngày ngày hái rau, bắt thú làm kế sinh nhai. Về sau, ông kết nạp những bần dân bị ức hiếp, những kẻ vô sở bất chí, mà thành lập một bộ tộc. Chỉ ít năm sau đó, nhờ chăm chỉ, bộ tộc của ông trở thành giầu có. Dân chúng, rồi các tộc khác kéo đến gia nhập, lập thành bộ tộc Ki-dát. Ông được bầu làm Hãn. Đây là bộ tộc đầu tiên của người Mông-cổ. Từ đấy, theo chế độ cha truyền, con nối. Đến đời thứ năm, lãnh chúa Hải-đô (4), nhờ thắng nhiều bộ tộc xung quanh, lập ra tiểu quốc Mông-cổ, được tôn làm Khả-hãn. Hải-đô chết, con là Bái-tính Hố-nhi (5) kế vị. Bá-tính Hố-nhi chết, con là Đôn-tất-nãi (6) lên thay. Đôn-tất-nãi chết, con là Cát-bất Luật-cơ (7) kế. Cát-bất Luật-cơ chết, con là Bát-ly-đơn (8) thay. Bát-ly-đơn chết, con là Dã-tốc-cai thế. Dã-tốc-cai lại chinh phục được một số bộ lạc trong vùng, giết Khả-hãn Thát-đát (9), thanh thế nổi bật trên vùng thảo nguyên. Dã- tố-cai chết, con là Thiết-mộc-chân lên thay.

Ghi chú của thuật giả:

(1) Kỳ-ác-ôn, NS phiên âm tiếng Mông-cổ. Kỳ nghĩa là khác lạ, ác là giòng nước, ôn là ấm áp. Xin đừng hiểu lầm với chữ ác ôn là dữ tợn, viết khác.

(2) Ki-dát, Bọt-di-linh, Qiyat, Borjinin.

(3) Bột-đoan Nghĩa-nhi, Bodoncar.

(4) Hải-đô, Quaidu.

(5) Bá-tính Hốt-nhi, Baiti Hulii.

(6) Đôn-tất-nãi, Dontalaii.

(7) Cá-bất Luật-cơ, Quantulai.

(8) Bát-lý-đơn Ambaqai.

(9) Thát-đát, Tartar, tên một bộ tộc thù nghịch với bộ tộc Mông-cổ, sinh sống ở Bắc Vạn-lý Trường-thành, Nam của Mông-cổ. Sau bị Mông-cổ thôn tính, tộc Mông-cổ, Thát-đát đồng hóa lẫn nhau. Sử Tây-phương cũng như người Trung-hoa dùng cái tên Thát-đát để chỉ Mông-cổ.

Từ đầu đến cuối, Thúy-Thúy im lặng ngồi nghe, bây giờ nàng mới lên tiếng:

– Thưa quận chúa! Tại sao tổ tiên của Thiết Mộc Chân không giữ nguyên họ, mà mỗi đời mang một tên họ khác nhau như vậy?

– Đó là truyền thống của dân vùng thảo nguyên. Khi sinh ra một người con, thì cha mẹ tự do đặt tên cho, mà không ghép tên với họ. Thường thì họ cứ nhân một biến cố, một giấc mộng, một sự kiện lúc sinh con mà đặt tên. Như khi Khả-hãn Dã Tốc Cai vừa chiến thắng bộ tộc Thát-đát, bắt sống lãnh chúa của họ là Thiết Mộc Chân. Khi trở về, thì vợ là bà Nguyệt-Luân sinh ra người con đầu lòng. Nhân đó người lấy tên Thiết Mộc Chân đặt cho con mình.

Câu chuyện mỗi lúc càng trở thành say mê, Thủ-Huy hỏi:

– Ban nãy muội muội nói rằng Thiết Mộc Chân từ một trẻ mồ côi, bị đời khinh khi. Cái vụ này ra sao?

– Thiết Mộc Chân mồ côi cha vào năm chín tuổi. Câu chuyện như thế này: Thấy con đã chín tuổi, theo tục lệ vùng thảo nguyên, Dã Tốc Cai dẫn con đi săn, và cũng để đi tìm vợ cho con ở một bộ tộc khác. Trên đường đi, ông gặp Khả-hãn Đài Xếch Sên (1) của bộ tộc Ong Gi Rat (2). Tộc Ong Gi Rát bấy giờ đông dân hơn, giầu có hơn, văn minh hơn bộ tộc Mông-cổ nhiều. Đài Xếch Sên gặp cha con Dã Tốc Cai thì mừng vô hạn. Ông kể: Đêm qua, ông mơ thấy một con chim ưng trắng, mắt đỏ như lửa, to lớn vô cùng, từ mặt trời bay xuống vùng này. Đạo sư của ông đoán rằng hôm nay sẽ có một người con trai, là con của thượng đế Mặt-trời qua đây. Vì vậy ông đi đón. Khi nhìn thấy đôi mắt của Thiết Mộc Chân, Đài Xếch Sên kêu lên: Thiếu niên kia! Người là con trai của thượng đế Mặt-trời. Rồi ông ta đón cha con Dã Tốc Cai về khu lều trại của ông, đãi cơm. Ông hãnh diện, giới thiệu cha con Đài Xếch Sên với vợ con. Trong các con của ông, có người con gái tên Bật Tê (3), mười tuổi cực kỳ xinh đẹp. Đêm đó, cha con Dã Tốc Cai ngủ tại khu lều trại của tộc Ong Gi Rat. Thiết Mộc Chân nói với cha: Con đã cảm nàng Bật Tê. Hôm sau, Dã Tốc Cai ngỏ ý hỏi Bật Tê cho con mình. Dĩ nhiên Đài Xếch Sên đồng ý liền. Theo tục lệ của thảo nguyên, thì Thiết Mộc Chân phải ở rể cho đến khi Bật Tê trưởng thành.

Ghi chú của thuật giả:

(1) Đài Xếch Sên, Dai Le Sage.

(2) Ong Gi Rat, Qonggirat hay Chunggirates.

(3) Bật Tê, Bota. Sau được phong làm Quang-hiến hoàng hậu. Bà nguyên họ Hoằng Cát Sắc (Angcatthat).¸

– Tuổi trưởng thành của vùng Thảo-nguyên là bao nhiêu?

Thúy-Thúy hỏi: Tuổi này do luật định hay phong tục?

– Do phong tục. Nam từ 12 đến 14. Nữ thì lớn hơn, từ 14 đến 16. Không biết ở Đại-Việt thì bao nhiêu?

Đoan-Nghi trả lời:

– Bên Đại-Việt ta theo luật định thì nam là mười sáu, nữ là mười ba (Nữ thập tam, nam thập lục). Thôi muội muội tiếp đi.

– Thiết Mộc Chân ở rể được ban năm, thì một hôm có sứ giả của Dã Tốc Cai là Muôn Lịch (1)đến báo tin cho Đài Xếch Sên biết Khả-hãn của ông bị bệnh nặng sắp qua đời. Xin cho Thiết Mộc Chân về gặp cha lần cuối. Khi Thiết Mộc Chân về tới nhà, Dã Tốc Cai vẫn còn minh mẫn, ông trối trăn: Gần đây, trên đường đi săn trở về, ông qua khu vực lều trại của bộ tộc Thát-đát, giữa lúc họ đang mở hội. Họ mời ông vào chung vui. Nào ngờ, ông bị họ đánh thuốc độc. Bây giờ ông mới biết thì sự đã trễ. Ông dặn Thiết Mộc Chân ba điều:

Một là khi ông chết rồi, các tộc trưởng, các bộ tộc quy phục có thể sẽ bỏ đi. Phải nín nhịn, đợi khi lớn rồi, sẽ chỉnh đốn lại

Hai là phải diệt bọn Thát-đát để trả cái thù cha bị đánh thuốc độc.

Ba là phải tối đề phòng bộ tộc Miệt-nhi (2), vì trước đây Dã Tốc Cai đã xua quân đánh bộ tộc này, bắt một thiếu nữ xinh đẹp của họ là bà Nguyệt Luân (3) về làm vợ…

Ghi chú của thuật giả:

(1) Muôn Lịch, Thoát Đoan Hỏa Nhi, Mongliq.

(2) Miệt Nhi, Merkites.

(3) Nguyệt Luân, U Lân, Hoalun.

… Dã Tốc Cai chết đi để lại bà Nguyệt Luân là vợ chính, còn vợ thứ bao nhiêu bà thì không thấy nói đến. Thiết Mộc Chân có người em cùng mẹ là Cát Xa(1), ba người em khác mẹ là Bách Cơ Ta (2), Biên Gô Đài (3), và Tê Mô Gu. (4)

Đoan Nghi nhớ lại chuyện cũ:

– Hồi chị tới Mông-cổ chơi lần trước, đã gặp Cát Xa và Biên Gô Đài. Hai người đều là chiến tướng, khí vũ hiên ngang. Còn Bách Cơ Ta thì không thấy đâu?

– Y bị Thiết Mộc Chân bắn chết từ hồi còn niên thiếu!

–!?!?!?

– Trước đây đang lúc thịnh thời, Dã Tốc Cai thống lĩnh Mông-cổ, có sự tranh chấp vùng lưu vực sông Long-lý-hà (5)với tộc Diệt-xích-ngột. Nay Dã Tốc Cai chết, các bộ tộc trong đoàn trại Mông-cổ âm thầm bỏ bộ tộc Ki-dát theo bộ tộc Diệt-xích-ngột. Ngay người bạn thân nhất, người mà Dã Tốc Cai trối trăn lúc lâm chung là Muôn Lịch cũng kéo cả tộc Thoát-đoan- hỏa theo bộ tộc Thát-đát. Y còn nói một câu tàn tệ « Giòng nước kia sâu mấy rồi cũng có ngày cạn. Viên đá kia rắn mấy rồi cũng có ngày thành cát nụi. Một người đàn bà với mấy đứa con dại, sao có thể thống lĩnh được cả một bộ tộc ». Thế rồi hết tộc này này đến tộc khác bỏ đi. Mỗi đoàn trại ra đi lại lùa theo một bầy gia súc của Dã Tốc Cai. Chỉ không đầy một tháng, mà hơn bốn chục nghìn liều trại, chỉ còn lại hai chiếc của gia đình Dã Tốc Cai. Thiết Mộc Chân không vì thế mà nản. Ông cùng các em cố gắng tranh sống, nhất định ở lại vùng đất của tổ tiên là vùng trù phú của lưu vực sông Long-lý-hà: Săn thú, chăn nuôi thú vật. Nhiều khi đói quá phải bắt cả chuột, cả rắn nước mà ăn. Thế nhưng chỉ Thiết Mộc Chân với Cát Xa chịu khó làm việc, còn ba đứa em khác mẹ là Bách Cơ Ta, Biên Gô Đài, Tê Mô Gu thì lười biếng. Chúng ỷ có sức khỏe, cứ đợi anh em Thiết Mộc Chân săn được thú về là cướp lấy. Thiết Mộc Chân căm hận trong lòng, cố nhường nhịn chờ dịp. Một lần ông săn được một con nai nhỏ, Bách Cơ Ta nhảy ra cướp lấy. Lập tức ông bắn vào người y hai mũi tên. Y chết tức thời.

Ghi chú của thuật giả:

(1) Cát Xa, Qasar.

(2)Bách Cơ Ta, Baktar.

(3) Biên Gô Đài, Balgutai.

(4) Tê Mo Gu, Taimoghu.

(5) Lý Long Hà, Onon.

Thúy-Thúy kinh ngạc:

– Tôi nghe nói tại xứ Mông-cổ có một mỹ tục hơi giống Đại-Việt, là người đàn bà dạy dỗ, quản chế con cái. Mà bà Nguyệt Luân là người phụ nữ siêu việt. Sao bà lại để các con giết nhau như vậy?

– Vì Thiết Mộc Chân vốn trầm tư, ít nói. Ông hận thằng em lâu ngày mà không nói ra, rồi ông xuống tay thình lình. Trước thảm cảnh nồi da xáo thịt, bà Nguyệt Luân hét lên kinh khủng: Chúng bay thực giống như bầy chó điên, cắn xé lẫn nhau. Máu thịt chúng mày, mà chúng mày cũng không chừa? Chúng mày có biết rằng làm như vậy là tự chặt chân tay mình không? Từ đấy anh em Thiết Mộc Chân nhường nhịn nhau.

Thủ-Huy thắc mắc:

– Như vậy, bấy giờ coi như Mông-cổ không còn dân, không còn lãnh chúa, thế lãnh thổ của họ bỏ không sao?

– Sau khi các bộ tộc bỏ đi hết, thì vùng nước ngọt, nhiều cây lành, lắm thú là bình nguyên sông Long-lý hà bỏ không. Lập tức hai lãnh chúa ở gần nhất là Thát-đáùt với Diệt-xích-ngột đưa dân tới chiếm ngự. Nhưng bấy giờ Thát-đát đang bị Kim đem quân đánh, nên lãnh chúa Diệt-xích-ngột là Tạc Gô Đài họp các bộ tộc thuộc quyền lại, tuyên bố rằng ông ta là Khả-hãn của bộ tộc Bọt-di-linh lẫn Ki-dát. Bất cứ người nào muốn cư trú trong vùng đất cũ của Mông-cổ, đều phải quy phục ông ta. Ông ta cho di chuyển lều trại thuộc quyền chiếm ngự lưu vực Long-lý hà. Thiết Mộc Chân cùng các em không coi lời tuyên bố của Tạc Gô Đài vào đâu. Ông cứ ở nguyên chỗ cũ, xua gia súc vào mục trường của tổ tiên để lại. Được tin báo, Tạc Gô Đài nổi giận, thân đem một đội kỵ mã đi bắt Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân phải trốn vào rừng. Tạc Gô Đài cho quân bao vây. Sau mấy ngày, Thiết Mộc Chân đói quá phải bò ra. Tạc Gô Đài dùng dây thoòng loọng chụp vào cổ ông, rồi kéo đi như kéo con thú. Để làm nhục Thiết Mộc Chân trước mặt các bộ tộc trước đây thuộc Mông Cổ, Tạc Gô Đài sai đóng gông ông, rồi cùng binh tướng mở tiệc ăn mừng. Mục đích làm Thiết Mộc Chân đói quá, phải năn nỉ, cầu khẩn xin ăn, hầu không còn uy tín trước mặt các bộ hạ cũ. Giữa lúc khốn cùng đó, thì thân phụ em xuất hiện cứu ra.

Thủ-Huy suýt xoa:

– À, cái vụ cứu này mới thực đúng là hiệp nghĩa. Cuộc giải cứu ra sao?

– Bác Nhĩ Hốt cùng song thân em từ Trường-sa về tơí Mông-cổ, thì hỡi ơi, nơi trước kia có hàng mấy chục vạn lều trại, hàng mấy trăm ngàn gia súc, chỉ còn là bãi đất hoang. Bác Nhĩ Hốt đang ngơ ngẩn thì gặp bà Nguyệt Luân. Bà kể hết nguồn cơn, rồi khẩn khoản xin song thân em cứu con bà. Bác Nhĩ Hốt bầy ra một kế: Ông với song thân em trà trộn vào đám dân Mông-cổ quy phục Tạc Gô Đài, len lỏi trong đám người dự tiệc mừng. Phụ thân em dùng chỉ lực bắn vào người Thiết Mộc Chân một viên Định-tâm hoàn, để cho ông ngủ đi, không bị cơn đói hành hạ. Bọn Tạc Gô Đài thấy Thiết Mộc Chân ngủ mê, thì cho rằng ông chết ngất. Chúng sai giam ông lại. Đêm, Bác Nhĩ Hốt cùng song thân em đột nhập lều giam, cởi trói, phá gông cứu Thiết Mộc Chân, đưa lương thực cho ông ăn, rồi trốn khỏi khu lều trại. Nhưng Thiết Mộc Chân quá căm hận Tạc Gô Đài, ông muốn trộm chính con ngựa của y, mang đi. Bác Nhĩ Hốt khẩn khoản xin song thân em dùng khinh công đột nhập lều Tạc Gô Đài lấy thanh đao, cây cung, cái áo khoác của y đi, để y mất hết uy tín. Bởi theo tín ngưỡng dân Thảo-nguyên, người nào bị đối phương lấy mất cây cung, thì coi như bị đánh bại. Bị lấy mất thanh đao, thì coi như mất tính mệnh. Còn như bị lấy cả ngựa, cung, đao, áo khoác thì coi như bị giết, ngôi Khả-hãn bị đoạt, vợ con bị bắt làm tôi tớ. Thấy sự việc ngộ nghĩnh, thân mẫu em nhận lời liền. Hai vị nhập lều Tạc Gô Đài điểm huyệt y với người tỳ thiếp. Lại dùng kiếm gọt đầu, treo y lên cột lều, lấy áo khoác da, cây cung, ống tên và thanh đao, rồi cùng Bác Nhĩ Hốt, Thiết Mộc Chân trộm năm con ngựa riêng của y, trốn khỏi khu lều trại Diệt-xích-ngột.

Đoan-Nghi bật cười:

– Thế thân mẫu của em cũng học võ à?

– Vâng, người là sư muội của Nam-thiên thần y Lê Thúc-Cẩn.

– Hèn gì bà có sẵn Định-tâm hoàn trong người. Em tiếp đi.

– Hôm sau cái tin Thiết Mộc Chân tự phá vỡ gông, dùng võ công bắt sống Tạc Gô Đài treo lên cột lều, đoạt ngựa, cung, tên, áo, đao mang đi…truyền rất mau khắp năm mươi vạn lều trại, rồi lan sang cả bộ tộc Thát-đát, Khắc-liệt, Nãi-man, Ong-gút, Miệt-nhi. Phụ thân em khuyên Thiết Mộc Chân nên cùng Bác Nhĩ Hốt cỡi ngựa của Tạc Gô Đài, mang cung, tên, đao, áo của y đi chiêu mộ những bộ tộc cũ của Mông-cổ. Chỉ trong vòng một tháng, các bộ tộc cũ lại trở về quy phục. Lưu vực Long-lý hà lại phồn thịnh hơn xưa. Trong dịp này có ba thiếu niên trẻ, nghe huyền thoại về Thiết Mộc Chân, đã dẫn cả bộ tộc mình tới phụ thuộc. Đó là Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Bác Nhĩ Truật. Phụ thân em đem tích Đại-Việt: Khai-Quốc vương nhờ cùng chín người em kết nghĩa với nhau, cùng chung lo quốc sự, mà làm được những chuyện kinh thiên, động địa. Vậy Thiết Mộc Chân cũng nên kết nghĩa huynh đệ với ba người nàyï. Thiết Mộc Chân làm theo ngay.

Nghe chuyện, Thủ-Huy cảm thấy cay đắng trong miệng. Công than thầm:

– Xưa kia Thuận-thiên thập hùng làm lên những công nghiệp vĩ đại như thế, mà nay Đại-Việt thất tiên lại chẳng ra gì. Đầu dây mối nhợ do Thụy-Hương chỉ biết có Tống. Rồi Long-Xưởng không thực lòng với các em. Trong thất tiên, thì Thụy-Hương, Long-Xưởng, Trang-Hòa đã ra người thiên cổ. Nay thì Đoan-Nghi với mình lưu lạc xứ người. Trong nước chỉ còn Tăng Khoa, Như-Như không biết ra sao?

Đoan-Nghi thấy chồng thừ người ra, thì biết rằng Thủ-Huy đang cảm thán chuyện Đại-Việt thất tiên. Nàng hỏi một câu, để kéo Thủ-Huy khỏi cái buồn:

– Thế tình bạn giữa bốn người có thâm sâu không?

– Họ đối với nhau còn hơn ruột thịt. Một lần Bác Nhĩ Truật dùng lưng đỡ nhát đao chí mạng của quân thù cứu Đại-hãn. Lần khác Gia Luật Mễ dùng miệng mút độc chất ở vết thương của Thiết Mộc Chân. Cái ngày công chúa với phò mã tới thăm Mông-cổ, Đại-hãn đem tất cả vàng ngọc ra tạ, để xin y sư Phạm Tử-Tuệ trị bệnh cho Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật. Bốn người cực kỳ thân thiết với nhau. Vì vậy Mông-cổ mới có ngày nay.

Chợt Thủ-Huy cau mày hỏi:

– Cứ như em thuật thì hồi ấy từ Tạc Gô Đài, Thiết Mộc Chân, cho tới Tốc Bất Đài… đều chưa biết đến võ công. Thế mà hồi tôi tới Mông-cổ, bốn tướng Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Triết Biệt, Bác Nhĩ Truật đều là những cao thủ hiếm có trên đời. Thế họ học võ từ bao giờ?

– Sau vụ song thân em cứu Đại-hãn, thì ông mới thấy rằng cung, tên, cỡi ngựa không đủ, mà phải luyện võ công. Vì vậy, ông cho tế tác giả làm thương gia vào Kim, Tống, Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn… dò tìm những cao thủ bậc nhất, chiêu mộ. Nhưng các cao thủ chính phái không ai vì vàng mà truyền võ công ra ngoài. Chỉ có hai phái Trường-bạch, Liêu-Đông là chịu nhậïn vàng, truyền bản lĩnh cho Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật mà thôi. Về sau Gia Luật Mễ có cơ duyên được một đại tôn sư của Tây-hạ vì thù hận vua nước này giết cả nhà ông, mà truyền kiếm thuật sang Mông-cổ. Sau khi truyền hết bản lĩnh, ông dặn Gia Luật phải diệt triều đình Tây-hạ trả thù cho sư môn.

– Còn việc Thiết Mộc Chân làm con nuôi của Khả-hãn Khắc-liệt uyên nguyên từ đâu?

– Thưa phò mã, nguyên lúc còn tại thế ông Dã Tốc Cai có kết huynh đệ với Khả-hãn Khắc-liệt là Vương Hãn. Khi Thiết Mộc Chân cùng với ba nghĩa đệ mới tái phục hồi được bộ tộc, thì không có một đội quân nào cả. Thấy Mông-cổ ngày càng thịnh, các bộ tộc kéo đến quy phục mỗi lúc một đông. Vùng thảo nguyên của Mông-cổ lại trù phú, phụ thân em khuyên Đại-hãn nên tập cho dân tập lối sống định cư, cất nhà mà ở hơn là lối sống lều trại. Khi Đại-hãn họp các tộc trưởng lại đưa ra trưng cầu ý kiến, thì quá ba phần tư chống đối. Họ muốn tiếp tục lối sống lều trại, không muốn cất nhà, cũng như trồng cấy.

Tử-Kim cười:

– Quận chúa! Tôi thử đoán xem có đúng không nghe: Những bộ tộc nghèo thì muốn thay đổi nếp sống. Còn những bộ tộc giầu, thì muốn giữ nguyên. Họ sợ thay đổi!

– Quả đúng như vậy. Đai-hãn ra quyết định: Tùy ý các tộc. Tộc nào muốn sống theo nếp cũ thì cứ tiếp tục. Tộc nào muốn thay đổi thì tùy ý. Các tộc trưởng muốn thay đổi, đa số là các tộc nghèo, và tộc Bọt-di-linh. Song thân em dạy cho họ phương pháp đốt cỏ, phá hoang, trồng ngũ cốc, trồng cây ăn trái, ngăn các ao hồ nuôi cá. Lại dạy họ lấy đất sét nung gạch, lên rừng đốn gỗ về xẻ làm nhà. Sau ba năm, khu lều trại lụp xụp nghèo nàn bằng da, không hàng lối, trở thành những khu nhà gạch, lợp ngói. Giữa nhưng căn nhà đó lại nhô lên những căn nhà lầu khang trang là nơi hội họp của bộ tộc. Bộ tộc Bọt-di-linh cất một ngôi nhà năm tầng, nửa theo lối lều trại, nửa theo kiến trúc Đại-Việt: Tường bằng đá, nóc bằng da. Mặt khác, các bộ tộc trồng cấy trở thành giầu có. Bấy giờ các bộ tộc khác mới chịu cho con em học canh tác. Mông-cổ đang là một bộ tộc nghèo, bỗng trở thành giầu có súc tích, không phải mua ngũ cốc của Tây-hạ, Trung-quốc, Kim nữa. Sang năm thứ tư thì ngũ cốc dư thừa, bán sang cho Thát-đát, Nãi-man, Khắc-liệt. Mông-cổ càng giầu hơn nữa. Bấy giờ Khả-hãn đã lớn, ông đem lễ tới bộ tộc Ong-gút, xin Đài Xếch Sên cho cưới Bật Tê. Trong khi đó mấy người em kết nghĩa cũng lấy vợ. Trong mấy năm ở lều trại, phụ thân em có thu mười đệ tử, rồi dạy võ công cho họ. Đại đệ tử, phụ thân em đặt cho cái tên là Mộc Hoa Lê. Phụ thân em thấy các ba bộ tộc lân cận Thát-đát, Miệt-nhi, Diệt-xích-ngột, đều có quân đội thực hùng mạnh, mà họ nghèo khổ. Trong khi Mông-cổ giầu có, lại chỉ có mấy đội dũng sĩ, thì lấy làm lo ngại có ngày chúng sẽ tràn sang cướp phá. Vậy phải gấp tổ chức trai tráng thành đội ngũ để phòng thủ. Đại-hãn nhờ phụ thân em lập một trường huấn luyện ở chân núi Bourkhane, để huấn luyện, tổ chức quân đội. Đại-hãn ra lệnh: Tất cả trai tráng từ 13 đến 60 tuổi đều phải đến trường học quân sự. Sau khi ra trường thì sung vào đội ngũ của tộc mình. Đợt đầu, huấn luyện ba trăm người, tổ chức thành ba đội. Việc huấn luyện vừa hoàn tất, chưa kịp xuất quân, thì một đêm, Mông-cổ bị địch thình lình tràn tới tấn công, cướp gia súc, bắt người mang đi. Sáng chúng rút hết. Thiết Mộc Chân và các nghĩa đệ, các em thoát nạn, lục tục trở về quy tụ lại dân chúng. Lúc bị tấn công, Thiết Mộc Chân cho rằng bọn Diệt-xích-ngột trả thù. Nhưng dân chúng cho biết, đó là bọn Miệt-nhi (Metkites) chúng đã bắt Bật Tê mang đi. Sở dĩ chúng cướp phá Mông-cổ, do trước đây Dã Tốc Cai đã tiến đánh bộ tộc của chúng, bắt bà Nguyệt Luân về làm vợ. Đại-hãn lên núi tìm phụ thân em, xin đem đội quân mới huấn luyện đánh bọn Miệ-nhi trả thù. Nhưng Tốc Bất Đài can rằng: Với ba trăm người không thể thắng nổi bọn Miệt-nhi đông tới hàng mấy vạn. Vậy cần phải cầu viện. Hai nơi có thể cầu viện là Khắc-liệt (Kétates) và Da-di-ra. Khả-hãn Khắc-liệt là Tô Ha Rin, bạn thân của Dã Tốc Cai. Hồi ông ta bị chú cướp ngôi, nhờ Dã Tốc Cai đem quân về đoạt lại ngôi vua. Hiện ông có trên mười vạn quân. Dân của ông sống cố định, chứ không phải là dân lều trại. Còn Da-di-ra, thì tộc trưởng là Trác Mộc Hợp, người bạn hồi thơ ấu của Thiết Mộc Chân, khi ông mồ côi. Ông này không phải thuộc giòng quý tộc. Ông xuất thân là nô lệ, đi thu nhặt những dân nghèo, nô lệ, rồi thành lập bộ tộc Da-di-ra. Thiết Mộc Chân nghe theo, đi cầu viện Khắc-liệt, quả nhiên Tô Ha Rin nhớ ơn cũ, nhận Thiết Mộc Chân làm con nuôi, cho mượn một vạn quân kị. Còn Trác Mộc Hợp, thì kéo toàn lực lượng hơn vạn quân nữa, giúp Mông-cổ. Thế là liên quân Mông-cổ, Khắc-liệt, Da-di-ra cùng tiến đánh Miệt-nhi. Quân Miệt-nhi bị phá tan. Dân chúng bị bắt làm nô lệ. Chiến lợi phẩm gồm tất cả gia súc, của cải chia ba cho Mông-cổ, Khắc-liệt, Da-di-ra. Bộ tộc Miệt-nhi bị xóa tên từ đó. Lãnh thổ bị sát nhập vào Mông-cổ. Khi Thiết Mộc Chân đến lều trại của cháu ruột mẹ mình là Sinh Rê Bô Cô (Sintébourcot) thì thấy Bật Tê đang ẵm một đứa con đỏ hỏn. Ông đặt tên là Truật Xích (Djoutchi) có nghĩa là không mong đợi. Vì kể từ lúc Bật Tê bị bắt, đến lúc được đem về là 13 tháng, trong khi đứa trẻ mới hai tháng. Như vậy nó không phải là con của Khả-hãn.

– Cứ như em nói, thì dân chúng vùng Thảo-nguyên không trọng cái trinh trắng của phụ nữ. Họ coi đàn bà như một thứ đồ chơi. Nếu là phụ nữ Việt, Chiêm, Hoa, thì khi bị bắt, bà Bật Tê đã tự tử để tạ lòng chồng, và giữ thân thể cho trong sạch. Đây bà chấp nhận làm đồ chơi cho kẻ thù của chồng. Rồi khi được cứu về, nếu là một phụ nữ Việt, bà cũng xấu hổ, tự tử chết. Đây, bà thản nhiên như không có gì xẩy ra! Rõ chán.

Đoan-Thanh đáp thản nhiên:

– Phò mã luận giống như mẫu thân em. Phong tục vùng Thảo-nguyên là như vậy đó.

– Trong trận này, thân phụ em có tham dự không?

Đoan-Nghi hỏi: Ba trăm quân mới huấn luyện do ai chỉ huy?

Đoan-Thanh đáp bằng giọng bùi ngùi:

– Song thân em đã chán công danh, nên chỉ giúp Thiết Mộc Chân, chứ không muốn vì ông ta mà chém giết người không thù, không oán với mình. Người trao ba trăm quân mới huấn luyện cho một người đệ tử là Mộc Hoa Lê. Cái tên Mộc Hoa Lê này do phụ thân em đặt cho anh ấy. Nghĩa là Hoa của gỗ cây Lê. Ngụ ý rằng: Mộc là khúc gỗ, phụ thân em tự ví như là một khúc gỗ, như một cây đã chết. Hoa Lê là hoa cây Lê. Ngụ ý hoàng-hậu của Thái-tổ nhà ta là công chúa của vua Lê, tức là hoa cây lê. Nhờ Hoa cây lê mà có triều Lý. Ba trăm quân do Mộc Hoa Lê tham chiến, đánh tan hơn năm nghìn quân Miệt Nhi, đã làm rung động vùng thảo nguyên. Sau trận đó, Khả-hãn trở thành Đại-hãn. Ông thấy rõ cái khác biệt giữa một đội quân được huấn luyện với đội quân chỉ là tráng đinh kết hợp. Ông đốc thúc việc huấn luyện khẩn cấp đặt tên cho loại binh này là chính-binh. Nên chỉ hơn năm sau, ông đã có một đội chính binh đông tới mười lăm ngàn người.

– Huynh có một điều thắc mắc.

Thủ-Huy hỏi: Phàm khi luyện quân phải căn cứ vào ba điều. Một là sao cho thích ứng với địa thế, khí hậu, thời tiết chiến trường. Hai là dùng để đối phó với loại địch quân nào? Ba là tạo thêm sở trường, giảm sở đoản cho quân mình. Phụ thân muội nguyên là một đại tướng, thông hiểu binh pháp của công chúa Thánh-Thiên, của Khai-quốc vương, và cả Tôn Ngô binh pháp. Vậy người luyện quân cho Thiết Mộc Chân thể theo ý kiến ông ta, hay tự ý người? Người tổ chức quân ngũ ra sao?

– Thưa theo ý kiến của Đại-hãn! Như bên mình thì chia năm người thành một ngũ (5 người), năm ngũ thành một lượng (25 người), năm lượng thành một tốt (125 người), năm tốt thành một lữ (625 người), năm lữ thành một sư (3125 người), năm sư thành một hiệu (15.625 người). Đại-hãn với phụ thân em luận bàn rằng việc giao tranh trên đồng cỏ này không có loại binh nào khác ngoài kị binh. Vì vậy chỉ cần thành lập các tốt là đủ. Mỗi tốt là một đơn vị độc lập, gọi là đoàn. Người Mông-cổ, từ năm sáu tuổi đã biết bắn cung, cỡi ngựa, nên phụ thân em đem thuật cỡi ngựa của Phù-Đổng Thiên-vương, cùng phép luyện kị binh ra trình bầy với Đại-hãn, rồi hai người thu thái kinh nghiệm của Mông-cổ, Đại-Việt tạo thành binh pháp mới. Đại-hãn nghe nói vào thời vua Trưng bên Đại-Việt mình dùng nữ tướng, nữ binh. Thời Anh-vũ Chiêu-thắng, Thái-úy Lý Thường-Kiệt cũng dùng nữ tướng, nữ binh, lại tổ chức cho tất cả đàn bà trẻ con luyện tập để khi có giặc thì tự vệ, để quân đội rảnh tay đối phó với giặc. Đại-hãn ban lệnh ngay: Phụ nữ, trẻ con cũng phải học bắn cung, cỡi ngựa, phương pháp phòng thủ dinh trại, bảo vệ người già. Chỉ hơn năm sau, Mông-cổ đang là một bộ tộc bậc trung, vươn mình trở thành một nước hùng mạnh đứng thứ năm trong vùng Thảo-nguyên.

Thúy-Thúy tò mò:

– Thưa quận chúa, bấy giờ vùng Thảo-nguyên có những nước nào hùng mạnh hơn Mông-cổ?

– Mạnh nhất phải kể Nãi-man, dân đông, sống theo chế độ nông nghiệp, lại du nhập văn minh của Trung-quốc, Tây-hạ, Thổ-phồn. Tổ chức triều đình, chính quyền rất chặt chẽ. Thứ nhì là Khắc-liệt, vừa sống theo lều trại, vừa sống chế độ nông nghiệp. Khả-hãn, các thủ lĩnh địa phương sống trong những thành trì bằng đá. Thứ ba là Thát-đát, nước này sống sát ngay phía Bắc Vạn-lý trường thành, Đông giáp bộ tộc Nữ-chân, gốc của Kim. Dân Thát-đát vừa hung dữ, vừa thiện chiến, lại giầu có. Họ sống nửa định cư, nửa lều trại. Tổ tiên họ từng tràn vào cướp phá Trung-nguyên, khiến Tần Thủy-Hoàng phải xây Vạn-lý Trường-thành. Sử Trung-nguyên gọi họ là Hung-nô. Thứ tư là nước Diệt-xích-ngột, sống hoàn toàn bằng lều trại, có hơn trăm bộ tộc hoặc quy phục, hoặc bị cai trị. Quân số trên ba chục nghìn thiết kị… Đại-hãn bốn nước thấy Mông-cổ giầu có, hùng mạnh mau chóng, đều có ý ganh ghét, muốn đem quân đánh. Nhưng không nước nào dám cả. Về sau Đại-hãn Thát-đát, Nãi-man mật sai sứ xúi dục Diệt-xích-ngột đánh úp Mông-cổ, để trả thù việc Thiết Mộc Chân ngoa ngôn là đánh bại Khả-hãn Tạc Gô Đài, cướp cung, tên, đao, áo, ngựa. Lúc đầu Tạc Gô Đài không mắc mưu. Nhưng lãnh thổ của Mông-cổ, Diệt- xích-ngột ở cạnh nhau, mà dân chúng Mông-cổ giầu có súc tích, trong khi dân Diệt Xích Ngột thì nghèo khó. Cứ mỗi tháng lại một vài bổ tộc bỏ Diệt-xích-ngột sang quy phục Mông-cổ. Đứng trước thế một mất, một còn, Tạc Gô Đài phải quyết định đánh úp Mông-cổ.

Thủ-Huy suýt xoa:

– Trận này ắt hẳn kinh khủng lắm! Vì một bên ít quân, nhưng được huấn luyện có phương pháp, chỉ huy thống nhất, nhưng lại phải bảo vệ cơ sở, vướng vợ con. Một bên đông đảo lại ra quân bất ngờ. Trận chiến diễn ra sao?

– Từ chỗ xuất quân của Diệt-xích-ngột tới lãnh thổ Mông-cổ mất ba ngày sức ngựa. Khi họ đi được một ngày thì thám mã Mông-cổ phát giác. Thám mã phi như bay về báo cho Đại-hãn. Đại-hãn kinh hoảng vội triệu tập buổi hội khẩn cấp. Các quý tộc thuộc nhóm chủ trương sống lều trại đều bàn nên cho gia đình rút chạy trước. Ngược lại các quý tộc thuộc phe chủ trương sống định cư, canh tác bàn nên chống trả.

Thủ-Huy cười:

– Dĩ nhiên là thế. Vì nếu rút chạy, thì nhà cửa, hoa mầu bị tàn phá hết. Tôi đoán, chắc chắn Thiết Mộc Chân sẽ không rút chạy. Bởi Mông-cổ sở dĩ giầu có là do việc cải tổ nếp sống du mục sang nếp sống nông nghiệp. Bây giờ rút chạy, thì tan nát hết.

– Đúng như phò mã luận. Đại-hãn quyết định không bỏ chạy. Nhưng còn chiến thuật? Chiến thuật thông thường của các bộ tộc thảo nguyên khi bị tấn công thì lập tức tập trung các xe lại thành một bức thành. Còn quân thì chia làm hai. Một cánh núp sau bức thành phòng thủ. Một cánh dàn ra ngoài nghênh. Nếu như thắng địch thì cánh thủ tràn ra đuổi theo. Còn cánh nghênh chiến thì lui lại thu nhặt tử thi, cứu cấp các thương binh. Phụ thân em đưa ra ý kiến…

Thủ-Huy vẫy tay cho Đoan-Thanh ngừng lại:

– Phụ thân của muội là người thông thạo chiến pháp của Kinh-Nam vương. Mà Kinh-Nam vương nổi danh là người dùng kị binh như thần. Để tôi bàn xem có đúng không nghe. Người sẽ đề nghị như sau: Những đội quân chưa được người huấn luyện, đàn bà, trẻ con sẽ thủ trại. Còn các đội quân được huấn luyện sẽ dàn ra tại một chiến trường đợi sẵn. Như vậy bắt buộc quân địch phải chia lực lượng làm hai. Chúng sẽ đem quân tinh nhuệ làm cánh thứ nhất tấn công vào khu lều trại. Còn một ít quân không tinh nhuệ làm cánh thứ nhì, giao chiến với chính binh. Thế là khi tấn công vào bức tường phòng thủ, địch bị bất ngờ vì sức kháng cự của tráng đinh, đàn bà, trẻ con được huấn luyện, được tổ chức thành đội ngũ. Trong lúc đó, chính binh đã đánh tan cánh thứ nhì, quay ra đánh tập hậu cánh thứ nhất… Có đúng không?

– Quả như phò mã luận. Chỉ có khu lều trại của các tộc chủ trương sống du mục phải đem xe quây lại, làm bức thành mà thôi. Còn khu vực các bộ tộc định cư, thì đã được đào hào sâu, dưới hào đặt chông, phía trong có chính binh đã dàn sẵn, người ngựa đều khỏe. Địch xung phong tấn công vào khu phòng thủ, năm sáu đợt đều bị đánh bật ra. Lúc đầu chúng nhắm vào khu định cư. Kị binh bị các hào sâu cản lại. Một số liều lĩnh bỏ ngựa vượt hào tấn công, thì bị đạp phải chông, bị lực lượng phòng thủ bên trong bắn ra. Đám khác bỏ ngựa tiếp cứu, lại bị bắn ngã. Tướng chỉ huy thấy vậy, quyết định bỏ thương binh, bỏ tử sĩ, đem toàn lực tấn công bức tường thành lều trại. Chúng gặp sức chống trả mãnh liệt. Nhưng lực lượng tấn công đông hơn, chúng đã tràn ngập được mấy doanh lớn. Trong khi đó, các binh đội chính binh Mông-cổ dàn ra thành mười hàng, trên một chiến tuyến dài. Quân Diệt-xích-ngột cậy đông người hơn, chúng dàn thành năm lớp. Chúng cho lớp đầu toàn thiết kị xung phong tới phóng lao, rồi quay trở lại. Quân Mông-cổ vẫn bất động. Chúng lại cho lớp thứ nhì tấn công, lớp thứ ba trợ lực. Quân Mông-cổ đổi mặt tiền ra mặt hậu, lùi liền hơn trăm trượng, rồi quay lại như cũ. Lớp thứ nhì, thứ ba của địch phải phi xa hơn trăm trượng, thì ngã lổng chổng, vì ngựa đạp nhằm bãi chông. Nhưng quân địch cũng vượt qua được bãi chông. Hai bên cùng giao tranh ác liệt. Phụ thân, mẫu thân, sư huynh Mộc Hoa Lê, mỗi người thân chỉ huy năm tốt như ba mũi tên chọc thủng phòng tuyến địch xông vào bắt chúa tướng. Tạc Gô Đài cùng hầu hết các chúa tướng bị điểm huyệt bắt sống. Trận tuyến địch bị phá vỡ. Các tộc trưởng kéo quân bỏ chạy. Khả-hãn ra lệnh: Tất cả chính binh mỗi người dắt theo ba con ngựa, phi bất kể ngày đêm, ngựa mệt thì đổi, đuổi theo đến tận khu lều trại của địch, tràn vào chiếm lĩnh. Nhờ vậy mà chỉ một trận, toàn quân Diệt-xích-ngột bị đánh tan. Dân chúng bộ tộc Diệt-xích-ngột bị bắt chia cho các bộ tộc Mông-cổ làm nô bộc. Các bộ tộc theo Diệt-xích-ngột kéo về phụ thuộc với Đại-hãn Thiết Mộc Chân.

– Trận này Mông-cổ thiệt hại nhiều hay ít?

Đoan-Nghi hỏi: Còn tù binh bị bắt thì Thiết Mộc Chân đối xử ra sao?

– Mông-cổ thiệt hại nặng là thiệt hại của những đạo quân chưa được song thân thần huấn luyện. Còn những đạo quân thụ huấn rồi thì thiệt hại rất ít. Thiệt hại của dân chúng các khu định cư rất nhẹ. Ngược lại các khu lều trại thì nặng. Trong khi giao đấu, Đại-hãn bị trúng một mũi tên vào cổ, chất độc phát tác làm mê man. Nếu đưa về Tổng-hành dinh cho mẫu thân thần chữa trị thì không kịp. Trong khi nguy cấp, dù biết rằng có thể hại đến tính mệnh, nhưng người em kết nghĩa Gia Luật Mễ vẫn ghé miệng vào vết thương hút chất độc cho nghĩa huynh Thiết Mộc Chân. Kết qủa Khả- cứu trị hai người. Khi tỉnh dậy, Khả-hãn truyền đem tất cả hãn thoát chết, nhưng cả hai người cung mê mê tỉnh tỉnh. Nghe tin này, mẫu thân thần phi ngựa hỏa tốc ra mặt trận, 72 viên tướng địch bị bắt, chất lên dàn củi thiêu sống trước mặt thân nhân tử sĩ, dân chúng Mông-cổ bị giết trong khi giao tranh. Lại cũng cho thân nhân chúng đứng xem để cho đau khổ. Còn hơn mười nghìn tù binh, thì Đại-hãn hứa rằng: Hãy cho chúng làm lao binh, tức vận chuyển lương thực, tắm ngựa, căng lều, chế tạo vũ khí trong một năm. Nếu xét ra có lòng trung thành, sẽ cho làm dũng sĩ. Riêng Tạc Gô Đài thì một là thù hận chồng chất đã ba đời ; hai là phải hành hình sao cho dân chúng Diệt-xích-ngột, Mông-cổ thấy rằng y là một thằng hèn, để sau này không một người nào trong đám con cháu cũng như bộ hạ của y dám nghĩ đến phục hồi nữa. Đại-hãn sai tập họp dân chúng, quân sĩ để người với y đấu cung-tên, đấu võ. Tạc Gô Đài chưa từng học võ, thì sao y chịu nổi hai chiêu của Thiết Mộc Chân? Y bị đánh bại văng xuống ngựa, bị nắm tóc nhắc lên như con thỏ. Rồi Đại-hãn tổ chức mừng chiến thắng, Tạc Gô Đài bị giam trong cái cũi, bị bỏ đói, đặt giữa các bàn tiệc. Ngày đầu y còn chịu được, sang đến ngày thứ hai, đói quá, y kêu gào xin ăn, thì được ném cho một miếng thịt thừa, để y khỏi chết. Cứ như vậy sau một tháng, người y gầy trơ xương. Y mất hết ý chí. Đại-hãn truyền nuôi y thực đầy đủ, trong vòng ba tháng, y béo tốt như xưa, bấy giờ mới tổ chức đại hội dân chúng, rồi đem y ra xử lăng trì (xẻo thịt) giống như bên Đại-Việt mình. Sau khi xẻo ba miếng thịt, thì một cận vệ thân tín của Khả-hãn, nguyên là bộ hạ cũ của y, quỳ gối xin tha cho y. Khả-hãn cảm cái nghĩa khí, lòng can đảm của viên cận vệ, truyền tha cho y cùng với vợ con, lại cấp lương thực, xe, ngựa, để y lên đường. Nhưng khi y rời khỏi lãnh thổ Mông-cổ thì gặp bọn Thát-đát đi săn. Vốn thù hận Mông-cổ, chúng thấy xe, ngựa mang ký hiệu của Mông-cổ, thì xúm vào giết người, cướp của.

Ghi chú của thuật giả:

Về cái chết của Tạc Gô Đài, mỗi sách chép một cách khác nhau. NS, MCMS không nói rõ.

Sử Ba-tư chép: Bẩy chục viên tướng Diệt-xích-ngột bị quẳng vào vạc nước sôi.

Sử Liên-sô chép: Thiết Mộc Chân cho dát bạc cái sọ của Tạc Gô Đài, dùng làm bình rượu. Đời sau gọi là Cơn phẫn nộ của Thành Cát Tư Hãn.

Sử liệu chính của Mông-cổ là MCMS thì chép Tạc Gô Đài bị bọn cướp Thát-đát giết. Tôi thuật theo sử liệu này.

Thủ-Huy gật đầu tỏ ý hài lòng hỏi:

– Viên cận vệ xin tha cho Tạc Gô Đài là người thế nào? Về sau tiến trình của y có khá không?

– Y tên là Diệt Ga Đài ở bộ tộc Ích-xu. Nguyên sau trận đánh với Diệ-xích-ngột, Thiết Mộc Chân bị thương suýt mất mạng. Trong khi trở về tổng hành dinh, cổ vẫn còn băng vải, thì một kị mã trong tàn quân Diệt-xích-ngột đón đường ông.

Y nói:

« …Chính tôi đã bắn phát tên làm cho Khả-hãn bị thương. Nếu Khả-hãn muốn trả thù thì xin cứ giết tôi đi. Tôi không hề hối hận, bởi tôi đáng tội chết, vì đã phò một bạo chúa, mà bắn một hanh hùng. Còn như Khả-hãn thu dụng tôi, thì tôi sẽ sung sướng vì được phò tá một minh chúa. Kìa, núi kia tuy cao, Khả-hãn bảo tôi vượt qua, tôi sẽ qua, không chùn bước. Sông kia tuy sâu, Khả-hãn bảo tôi lội tôi không nề hà ».

– Hay! Rồi sao?

Thủ-Huy hỏi: Chắc ông ta tha cho y!

– Vâng! Bọn cận vệ rút gươm ra, chỉ cần một mệnh lệnh là băm vằm tên kị mã đó ra như băm chả. Thiết Mộc Chân mở to mắt nhìn gã kị mã, y vẫn nhìn thẳng vào mặt ông, không tỏ ra sợ hãi. Khả-hãn hài lòng, nói với y: Người thực là một dũng sĩ can đảm, ngay thẳng. Ta tha cho người. Người hãy tìm lấy mười người nữa, thành lập một thập phu, theo cận vệ ta. Để kỷ niệm ngày tương phùng kỳ lạ, ta đặt tên cho người là Triết-Biệt (Djébé, Mũi-tên).

Thủ-Huy, Đoan-Nghi cùng reo lên, rồi chỉ vào Tử-Kim:

– Chúng ta đã gặp y trong lần thăm Mông-cổ. Y đấu tên với thân phụ đệ. Tuy bị thua, nhưng y thực hào hùng. Chính y thù tiếp phụ thân đệ, để tỏ lòng khâm phục. Võ công y cũng vào loại khá.

Chợt nghĩ tới vụ Long-Xưởng được mình và các em giúp, rồi khi chí đã đạt thì trở mặt.

Thủ-Huy hỏi:

– Xưa nay, những người thành công trong điều kiện gian nan, đạt mục đích thì tỏ ra khí phách của một anh hùng chân chính. Họ trọng đãi, chia ngọt sẻ bùi với người phò tá mình. Hai là bọn gian hùng, khi tự biết mình vô tài, chó ngáp phải ruồi mà thành công. Chúng sẽ giết hết những người đã xả thân vì chúng, nhưng có tài hơn chúng. Bây giờ Thiết Mộc Chân cũng thành công khi trải trăm nghìn gian nan. Thế ông ta đối vơí thủ hạ như thế nào?

– Đại-hãn vẫn coi các tướng như chân tay. Tuy vậy cũng có đôi chút sứt mẻ.

– Có người phản ông hẳn?

Thủ-Huy hỏi: Hay ông cũng tầm thường như người Việt mình nói, giầu đổi bạn, sang đổi vợ?

– Không phải vậy! Hoàn cảnh đưa đẩy, mà ông không thể cưỡng nổi.

– Nghĩa là???

– Trong tất cả các bạn, thì Trác Mộc Hợp là người bạn thời thơ ấu duy nhất của Đại-hãn. Khi Đại-hãn bị Tạc Gô Đài làm nhục, Trác Mộc Hợp vẫn không bỏ bạn. Bộ tộc Da-di-ra của Trác Mộc Hợp vẫn trung thành với ông. Khi Đại-hãn tái lập Mông-cổ, Trác Mộc Hợp đem bộ tộc Da-di ra theo về quy phụ. Trong trận phục thù đánh bọn Miệt-nhi, Trác Mộc Hợp đem binh tướng trực thuộc đi tiên phong. Rồi trận chiến sinh tử vơí Tạc Gô Đài, Trác Mộc Hợp cũng đem quân theo giúp. Thành công lớn, tuy Thiết Mộc Chân được bầu làm Đại-hãn, nhưng vẫn phải chịu sự chi phối của hội đồng quý tộc, của các tộc trưởng. Nhất là các Đạo-sư. Hai loại người này thường kỳ thị giai cấp rất mạnh. Thế mà bộ tộc của Trác Mộc Hợp nguyên là những dân hèn hạ, những dân nghèo khó bị khinh khiến tại vùng Thảo-nguyên. Bây giờ, Mông-cổ là nước lớn, bọn này cực kỳ hãnh diện, ấy vậy mà trong các buổi họp, họ thấy Trác Mộc Hợp ngồi ngang với họ, họ thấy dân Da-di-ra nghèo nàn, hèn hạ sống lẫn vơí dân của họ. Họ chịu không nổi. Hàng ngày dân chúng các bộ tộc khác luôn tìm cớ gây sự với dân Da-di-ra. Theo tục vùng thảo nguyên, thì khi có sự đụng chạm giữa sắc dân quý với sắc dân hèn, thì dân hèn phải bị xử thua. Theo luật mới của Đại-hãn, thì bất cứ dân nào thuộc Mông-cổ cũng phải được cư xử bình đẳng.

Thủ-Huy than:

– Khó đấy! Nếu tôi là Đại-hãn, nhất định tôi không chịu xa Trác Mộc Hợp. Dù sao y cũng là người từng xả thân cứu ông bao phen.

Đoan Trang than:

– Nhưng Đại-ãn lại làm theo ý muốn của số đông. Tất cả các tộc trưởng đặt vấn đề với Đại-hãn: Không thể chấp nhận dân Da-di-ra ngang hàng với dân họ. Cũng không thể để Trác Mộc Hợp ngồi ngang với họ. Hội đồng quý tộc họp lại, đưa ra quyết định, yêu cầu Đại-hãn phải loại bộ tộc Da-di-ra ra khỏi Mông-cổ, bằng không họ ra đi. Trước nguy cơ tan vỡ, Đại-hãn đành tổ chức buổi họp các nhà quý tộc, tuyên bố chia tay vơí Trác Mộc Hợp. Thế là Trác Mộc Hợp kéo bộ tộc Da-di-ra ra đi.

– Thế Trác Mộc Hợp có hận Thiết Mộc Chân không?

– Ông ta quá phẫn uất, âm thầm kéo bộ tộc mình về vùng đất cũ, rồi ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

« … Trời xanh thấu cho tôi. Tôi đem tất cả sức lực, tuổi trẻ ra giúp người. Bây giờ người phụ tôi!… »

– Thế rồi tại sao ông ta lại theo Khắc-liệt?

– Bấy giờ, Thiết Mộc Chân tuy thắng Diệt-xích-ngộït, Miệt-nhi, Thát-đát, nhưng chỉ đánh giết được Đại-hãn của họ, quy phục được một số bộ tộc trực thuộc. Còn những bộ tộc hùng mạnh ở xa, họ vẫn đứng một mình. Bây giờ họ cảm thấy khó mà yên được với Thiết Mộc Chân. Nghe tin Trác Mộc Hợp bị xua đuổi, họ liên kết với ông ta, thành lập một nước lớn ngang với Mông-cổ. Trác Mộc Hợp được bầu làm Đại-hãn.

Thủ-Huy cười, tỏ vẻ khoái trá:

– Phải như vậy! Trác Mộc Hợp cũng khá đấy chứ! Thế bọn theo ông ta là những ai?

– Nhiều lắm! Đại-hãn Miệt-nhi là Tút Sa, Đại-hãn Ong-gi-rát là Bạc Gút, Đại-hãn Diệt-xích-ngột là Sen Dút, Đại-hãn Thát-đát là Ha Ta Khít…và khoảng năm chục bộ tộc chưa thần phục. Các Đại-hãn họp nhau lại, tổ chức cuộc tế trời lớn nhất trong lịch sử thảo nguyên. Lễ vật có ngựa trắng, bò rừng, cừu, chó. Rồi họ lên núi đốn một cây thực lớn, lăn xuống giòng sông, thề rằng: Kẻ nào trong anh em chúng ta phản bội, sẽ như cây này. Địa điểm mà họ thề cách xa kinh đô Hoa-lâm của Mông-cổ không đầy trăm dặm, mà Đại-hãn không biết gì. Sau khi tuyên thệ xong, Trác Mộc Hợp xua quân tấn công Đại-hãn tức thì.

Thủ-Huy vỗ đùi:

– Giặc ngoài dễ phòng, giặc trong khó đánh. Cái khoảng cách một trăm dậm (50 km), thì chỉ cần nửa giờ sức ngựa. Trác Mộc Hợp ra quân như vậy thì Thiết Mộc Chân ắt bị đại bại?

Đoan-Thanh lắc đầu:

– Ông ta không bại!

– Sao vậy?

– Nguyên trong đám Khả-hãn mời tham dự buổi hội thệ có bố vợ Đại-hãn là Đài Xếch Xên. Ông ta không đi dự, sai người cấp báo cho chàng rể. Đại-hãn kinh hoàng, khẩn tập trung quân mai phục chờ đợi Trác Mộc Hợp. Đoàn quân ô hợp của Trác Mộc Hợp bị lọt ổ phục kích, bị đánh tan. Ông ta chạy bán mạng sang đầu quân cho Tang Côn.

– Vậy trong trường hợp nào Thiết Mộc Chân được Kim phong tước Bắc-cường chiêu-thảo sứ?

Thủ-Huy hỏi: Còn Tô Ha Rin được phong vương?

Đoan-Trang uống một hớp nước rồi trả lời:

– Sau khi thắng Diệt-xích-ngột, sát nhập các bộ tộc quy phục Tạc Gô Đài vào với Mông-cổ. Rồi lại thắng liên binh Trác Mộc Hợp, thì Mông-cổ đang là một bộ tộc trung bình, bỗng trở thành một nước lớn, dân đông, lãnh thổ trở thành rộng bao la, chiếm hết khu lưu vực tài nguyên phong phú sông Long-lý hà. Bấy giờ tộc Thát-đát đang lúc thịnh thời, thường vượt Vạn-lý Trường-thành vào đánh phá Kim. Kim nghĩ đến dĩ độc, trị độc, muốn dùng Khắc-liệt, Mông-cổ diệt Thát-đát. Tế tác của Kim thấy Thiết Mộc Chân là nghĩa tử của Tô Ha Rin. Mỗi khi Tô Ha Rin chinh tiễu đâu, Thiết Mộc Chân đều trợ giúp…Kim cho rằng Mông-cổ chỉ là một bộ tộc trực thuộc Khắc-liệt. Họ gửi sứ giả lên phong cho Tô Ha Rin tước Bắc-cương Vương-hãn. Khi sứ giả lên vùng thảo nguyên, họ mới bật ngửa ra rằng giữa Khắc-liệt với Mông-cổ chỉ có thế giao hảo tốt, chứ Mông-cổ không phải là chư hầu của Khắc-liệt. Kim vội cử sứ lên phong cho Thiết Mộc Chân làm Đại-kim Bắc-cương Chiêu-thảo sứ… Cái lúc mà công chúa, phò mã lên Mông-cổ chính là lúc này.

Thủ-Huy nhắc lại chuyện cũ:

– Hồi ấy khi chúng tôi đi sứ Kim, đúng lúc Kim tìm cách cho Mông-cổ Khắc-liệt đánh lẫn nhau. Tang Côn mắc mưu, y nhờ Kim viện mấy cao thủ, rồi y tâu với Tô Ha Rin bầy ra cuộc đấu võ tuyển tướng, mục đích dùng võ sĩ Kim giết Tứ Liệp-lang vương. Vụ đó tuy không thành, nhưng cũng làm cho Mông-cổ bị mất uy tín, vì trong Tứ Liệp-lang vương thì Bác Nhĩ Truật bị trúng độc mê man, Tốc Bất Đài, Triết Biệt bị bại. Thiết Mộc Chân cũng thấy ngay rằng bọn võ sĩ thắng Tứ Liệp-lang vương không phải là người của Khắc-liệt. Vì vậy ông ta mới kết thân với Đại-Việt. Về sau vụ ấy ra sao?

– Sau khi Kim xúi dục con trai Tô Ha Rin, là Tang-Côn vơí bạn y là Trác Mộc Hợp đánh Mông-cổ thất bại, vì Tô Ha Rin không cho. Kim lại lợi dụng vụ Khắc-liệt quy phục mà ban chiếu cho Khắc-liệt, Mông-cổ cùng liên binh đánh Thát-đát.

– Vụ này có vẻ vô lý.

Thủ-Huy bàn: Hồi ấy tôi thấy Thiết Mộc Chân khinh thường Kim, mà sao ông lại tuân chỉ Kim đánh Thát-đát?

– Phò mã ngạc nhiên cũng phải. Lãnh thổ Thát-đát thì phía Nam giáp Kim, phía Bắc giáp Mông-cổ, phía Tây giáp Khắc-liệt. Giữa Khắc-liệt với Thát-đát không thù không oán. Ngược lại giữa Mông-cổ với Thát-đát thì thù oán chồng chất. Trước kia Khả-hãn của họ bị thân phụ Thiết Mộc Chân giết, rồi chính thân phụ Thiết Mộc Chân bị họ đánh thuốc độc chết. Kim muốn diệt Thát-đát để yên mặt Bắc. Mông-cổ muốn diệt Thát-đát để trả thù, để mở rộng đất nước. Bây giờ bỗng dưng được Kim, Khắc-liệt cùng ra quân, thì là điều đến nằm mơ, Thiết Mộc Chân cũng không thể tưởng nổi. Khả-hãn giả mắc mưu, líu ríu tuân chỉ Kim đế, ra quân liền. Còn Khắc-liệt thì Tô Ha Rin đã già, quyền do thái tử Tang Côn. Tang Côn cũng muốn ra quân, làm đẹp lòng Kim, hy vọng sau này cha băng hà, còn được Kim phong vương. Thát-đát bị ba đội quân thiện chiến, tinh nhuệ cùng giáp công, nên chỉ một trận thì bị đánh tan. Sau khi Thát-đát bị diệt, Kim hỉ hả rút quân về, vì có đóng quân lại cũng không cai trị được những bộ tộc ô hợp. Còn Tang Côn chỉ muốn cướp thú vật, của cải của Thát-đát mà thôi. Thiết Mộc Chân biết thế, ông nhường tất cả chiến lợi phẩm cho Tang Côn. Thế là Khắc-liệt rút quân. Thiết Mộc Chân bèn chiêu tập các bộ tộc của Thát-đát theo Mông-cổ. Lãnh thổ Mông-cổ trở thành rộng bao la, dân chúng đông đúc không kém gì Khắc-liệt.

Long-Tùng thấy em mình đã mệt, chàng kết luận:

– Trái với hồi thắng Diệt-xích-ngột, Thiết Mộc Chân giết tù binh, bắt dân của họ làm nô lệ. Bây giờ ông đổi hẳn chính sách: Tất cả các tù, hàng binh Thát-đát đều được thụ huấn, rồi kết nạp vào quân đội Mông-cổ. Các bộ tộc nhỏ trước thuộc Thát-đát, được giữ nguyên, được đối xử ngang hàng với các bộ tộc khác. Cho nên từ ngày đó đến giờ, Đại-hãn Thiết Mộc Chân luôn ngồi trên mình ngựa, chinh phục, kết nạp tất cả các bộ tộc nhỏ lại. Ngay cả bộ tộc của Muôn-Lịch, trước kia bỏ đi theo Thát-đát. Hồi Thát-đát bị diệt, lão dẫn bộ tộc trở về, vẫn được Đại-hãn cho ngồi vào hội đồng quý tộc. Hơn nữa Thiết Mộc Chân còn gả mẹ mình là bà Bật Tê cho y, để nối tình thông gia.

Thủ-Huy, Đoan-Nghi, Tử-Kim, Thúy-Thúy cùng bật lên tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc. Biết thế, Long-Tùng giảng giải:

– Phong tục của người vùng Thảo-nguyên là như thế đó. Anh em chú bác, cô cậu, đôi con dì đều có thể lấy nhau. Tục chỉ cấm anh em ruột, con trai lấy mẹ đẻ, con gái lấy cha sinh. Còn ngoài ra thì không cấm. Như bố chết, con trai có thể lấy vợ lẽ, nàng hầu của bố. Việc đàn bà tái giá là điều đương nhiên. Khả-hãn Thiết Mộc Chân từng đem những phi tần của mình thưởng cho các tướng dưới quyền.

Thủ-Huy gật đầu:

– Mỗi dân có một tục khác nhau. Ta không nên coi trọng tục của mình rồi chê bai các tục khác.

Đoan-Nghi nhăn mặt:

– Anh nói!

Thủ-Huy càng nói ngang:

– Có lẽ mình nên nghiên cứu tục của vùng Thảo- nguyên, rồi đem về Đại-Việt mình, cho khác với Trung-nguyên. Thực là hủ lậu khi nam nữ không được cầm đồ vật trao tay nhau. (Nam nữ thụ thụ bất tương thân).

Ghi chú của thuật giả:

Sau này con của Thủ-Huy, Đoan-Nghi là Trần Thủ-Độ, vì sinh ra, lớn lên trên đất Mông-cổ, nên khi về Đại-Việt cầm quyền, đã mang theo văn hóa, phong tục vùng thảo nguyên. Vì vậy mới có việc Thủ-Độ đem công chúa Thuận-Thiên, vương phi của anh là Phụng-càn vương Trần Liễu, gả cho em là vua Trần Thái-tông. Sau lại đem Lý Chiêu-Hoàng nguyên là hoàng hậu của Thái-tông gả cho Lê Phụ-Trần. Trong suốt đời Trần, anh em con chú bác, cô cậu, đôi con dì kết hôn với nhau, không còn kể tới phong tục cổ truyền của Đại-Việt đã thấm nhuần đạo Khổng, đều do Trần Thủ-Độ đem từ Mông-cổ về.

Chỉ độc giả Anh hùng Đông A mới biết rõ uyên nguyên việc này mà thôi.

Thấy chồng nói ngang, Đoan-Nghi hỏi Đoan-Thanh, để bớt bực mình:

– Thế từ hồi đó đến giờ, giữa Khắc-liệt với Mông-cổ có hục hặc nhau nữa không?

– Giữa Tô Ha Rin với Thiết Mộc Chân thì không. Nhưng Tang Côn thì luôn gây gổ với Mông-cổ, hai bên đang căng thẳng nhau, không biết lúc nào sẽ xẩy ra chiến tranh.

Sáng hôm sau, Thủ-Huy vừa thức giấc, công thấy một chiếc hộp bằng bạc khá lớn để ngay bên đầu mình, trên khắc hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi. Công đánh thức Đoan-Nghi dậy:

– Dậy! Dậy! Dường như Côi-sơn song ưng gửi cho ta cái hộp này thì phải.

Đoan-Nghi mở hộp: Bên trong có sợi giây chuyền bằng vàng, móc con nai bằng ngọc với khoảng hơn trăm mũi tên bằng vàng, trên có khắc hình con chim ưng bay qua ngọn núi. Dưới đáy hộp có một mẩu giấy, chữ viết rất đẹp:

” Tre già, măng phải mọc. Chúng ta tiếp nối hào quang của Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn vọng thê hòa thượng. Nay ta trao kỷ vật này cho hai cháu, để con đường trừ gian, diệt bạo vẫn có người đi”.

Đoan-Nghi cầm sợi giây chuyền với con nai bằng ngọc đeo vào cổ Thủ-Huy:

– Đây là di vật của đức Thần-tông ban cho bá phụ là Minh-Đạo vương. Vương trao cho chúng ta, với ngụ ý: Trừ gian, diệt bạo. Nhưng…Nhưng…Chúng ta vô dụng mất rồi.

Chiều hôm ấy, Bác Nhĩ Truật lại dùng con thuyền nhỏ ghé lại con thuyền Thiên-ưng.

Bác Nhĩ Truật nói:

– Chúng tôi cùng cư trú trên một con thuyền lớn, đậu không xa đây làm bao. Bây giờ, lợi dụng đêm tối, chúng ta cùng nhổ neo, kéo buồn ra đi. Ngày mai bọn Tống có khám phá ra, thì chúng cho rằng các vị về Đại-Việt, chứ chúng không thể ngờ rằng chúng ta dương buồm chạy về phương Bắc. Khi tới Liêu-đông chúng ta bỏ thuyền lên bộ, vượt Vạn-lý trường thành là tới phạm vi quyền lực của Mông-cổ rồi.

– Liệu Kim có gây khó khăn cho ta không?

Bác Nhĩ Truật đưa ra cái thẻ bài:

– Bây giờ Kim suy đồi rồi, chứ không như mấy năm trước đâu. Cứ có vàng đưa ra, là mình tha hồ mà đi lại. Với vàng, ta có thể mua cả đầu vua Kim cũng không khó.

Tức thì Thủ-Huy ra lệnh cho thủy thủ nhổ neo, lên đường. Con thuyền của Mông-cổ đi trước, đoàn thuyền của Thủ-Huy theo sau.

Lênh đênh trên biển phải hơn hai tháng, đoàn thuyền mới tới vịnh Liêu-Đông. Bác Nhĩ Truật trình thẻ bài với viên đô đóc thủy quân Kim rằng mười một con thuyền đều là thương thuyền Mông-cổ. Thủy-quân Kim kiểm soát qua, rồi cho phép đậu tại khu thương thuyền.

Vào thời ấy, vịnh Liêu-Đông của Trung-quốc thuộc Kim cai trị. Liêu-Đông là cửa bể lớn, nên thuyền buôn các nước Cao-ly, Nhật-bản, Tống, và cả Đại-Việt, Chiêm-thành đều qua lại buôn bán.

Thúy-Thúy bàn:

– Chủ nhân! Ta có nên cải trang không? Chúng ta mặc y phục Việt, không giống y phục Kim, Cao-ly, sợ tế tác Kim theo dõi thì có nhiều điều phiền phức.

Thủ-Huy không ngờ Thúy-Thúy lại tinh tế như vậy. Công bật cười:

– Phải đấy.

Công nói với Bác Nhĩ Truật:

– Phiền Lang-vương cho người lên chợ mua dùm cho anh em chúng tôi y phục của thương nhân người Kim…

– Không cần.

Bác Nhĩ Truật nói: Các vị cứ mặc y phục Mông-cổ cũng được rồi. Bởi chúng tôi có lệnh bài của tể tướng Kim, được tự do đi lại trên khắp nước họ.

Thế là Thủ-Huy ra lệnh cho đoàn võ sĩ Long-Biên thay y phục Mông-cổ. Đoan-Nghi, Thúy-Thúy cải nam trang.

Vào một buổi tối, Đoan-Nghi trở dạ, đau bụng đẻ. Thúy-Thúy với Đoan-Thanh tuy kiến thức mênh mông, võ công cực cao, nhưng hai người không biết gì về vấn đề sinh sản. Cũng may, Bác Nhĩ Truật vốn quen biết nhiều với dân địa phương, ông nhờ họ mời cho một bà mụ. Vào giữa đêm thì Đoan-Nghi sinh ra một bé trai, giống Thủ-Huy như hai giọt nước. Mọi người đều chia mừng với Thủ-Huy Đoan-Nghi. Đoan-Nghi muốn tìm cho đứa trẻ một cái tên để kỷ niệm việc nàng sinh nó trên con thuyền. Thủ-Huy đề nghị:

– Nó ra đời trên một bến đò, thì ta đặt cho nó tên là Độ. Độ là bến đò. Đứa trẻ này có tên là Trần Thủ-Độ.

Đoan-Thanh xin Đoan-Nghi cho mình được nuôi Thủ-Độ. Đoan-Nghi vui lắm:

– Dì nuôi cháu thì còn gì hơn.

Ghi chú của thuật giả:

Người sau đọc sử chỉ biết khi Mông-cổ sang đánh Đại-Việt, Thăng-long thất thủ, nhiều người bàn nên hàng giặc, thì anh hùng Trần Thủ-Độ đã nói với vua Trần Thái-tông một câu lịch sử: « Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo ». Suốt gần nghìn năm lịch sử đã qua, không ai biết ý nghĩa cái tên Thủ-Độ. Chỉ độc giả Anh Hùng Đông A mới biết rõ, bao giờ, tại đâu, nguyên do nào ông có cái tên này mà thôi.

Hơn tháng sau, mọi việc chuẩn bị xong, Bác Nhĩ Truật đề nghị với Thủ-Huy lên đường. Y để lại một vài người trông coi thuyền. Thủ-Huy cũng để đám thủy thủ ở lại, dùng họ làm trạm thông tin. Khi cần công có thể sai chim ưng mang thư về đây. Rồi từ đây chuyển về Quảng-châu. Sau đó từ Quảng-châu chuyển về Đồn-sơn.

Phải mất hơn một tháng, đoàn người mới tới Vạn-lý Trường-thành. Sau khi vượt thành, thì bắt đầu đi vào lãnh thổ Mông-cổ. Đây là vùng đất trước kia thuộc bộ tộc Thát-đát. Từ sau khi Thát-đát bị liên quân Khắc-liệt, Mông-cổ, Kim đánh tan. Đại-hãn Thát-đát bị giết, vùng này mới nhập vào Mông-cổ. Mấy tháng trước, Bác Nhĩ Truật đem bọn tùy tòng hơn ba trăm người đến đây, gửi cho một tộc, nhờ họ chăn dùm. Rồi mới giả làm thương nhân, dùng xe, vượt qua lãnh thổ Kim, đến vùng biển Liêu-Đông, xuống thuyền. Đám tùy tùng này đều là những dũng sĩ Mông-cổ, từng học cỡi ngựa, bắn tên từ năm sáu bẩy tuổi, rồi được Lý Long-Phi huấn luyện thuât kỵ mã của Phù-đổng Thiên-vương, thuật kỵ chiến của Đại-Việt…lại trải qua biết bao năm chinh chiến, nên thuật kị mã, tiễn thủ của họ đã đứng vào hàng đầu của các đội quân vùng thảo nguyên. Khi đi, mỗi ngươì cỡi một ngựa, dắt theo hai ngựa để dự phòng. Bây giờ họ lấy lại ngựa, cấp cho đoàn võ sĩ Long-biên, mỗi người một con mà vẫn còn dư hơn trăm.

Từ khi rời Đại-Việt, đội võ sĩ Long-biên phải để ngựa lại Thăng-long, rồi ở dưới thuyền trải hơn năm. Bây giờ họ mới được ngồi lại trên mình chiến mã, thì không khác gì đại bàng bị giam trong lồng, được tung lên trời xanh bao la.

Tử-Kim cầm cờ phất một cái, người người đều răm rắp vào hàng. Năm trăm võ sĩ mặc giáp sắt ngồi uy nghiêm trên mình ngựa. Từ mười năm nay các kị mã Mông-cổ nổi tiếng là được trang bị đầy đủ nhất vùng thảo nguyên. Thế mà bây giờ Bác Nhĩ Truật nhìn trang bị của đội võ sĩ Long-biên, ông cảm thấy xấu hổ. Ông hỏi Tử-Kim:

– Huynh đệ! Huynh đệ có thể giảng cho ta nghe về cách trang bị này không?

– Vâng.

Tử-Kim chỉ lên một kị mã: Trước hết, kị mã đều đội mũ bằng đồng, bên trong lót hai lớp, một lớp da trâu, và một lớp tơ bọc bông. Với mũ này, không tên nào có thể xuyên thủng, không lao nào xâm phạm vào đầu được. Những đao, kiếm thông thường cũng không thể đả thương nổi.

Nói rồi Tử-Kim tháo chiếc mũ của mình trao cho Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật xem qua, rồi nghĩ thầm:

– Loại mũ này lợi hại thực. Các dũng sĩ của ta chỉ đội mũ da thì an ninh thua xa.

Tử-Kim lại chỉ vào cái áo:Áo này bằng da trâu, bên ngoài ghép những mảnh thép mỏng, đao kiếm, tên lao xuyên không thủng. Chân thì đi dầy bằng da trâu, đế lót lớp thép mỏng, để không bị chông làm hại.

Bác Nhĩ Truật nghĩ thầm:

– Đại-hãn sai mình đi mời phò mã, công chúa sang chơi, chỉ với mục đích mong gặp lại bạn cũ. Không ngờ, ta học được cách trang bị của Đại-Việt.

Tử-Kim chỉ vào một võ sĩ: Về vũ khí mỗi người có một thanh đoản đao đeo bên hông, một thanh trủy thủ dắt bên cánh tay trái. Trên lưng ngựa, ngay phía trước yên, để một túi phi trùy. Mỗi người có một cây cung, với ba loại tên khác nhau đó là tên sát hại tẩm thuốc độc, tên lửa, tên bắn thủng áo giáp. Tên sát hại bằng tre, với hai lớp ngạnh. Ngạnh đầu là mũi tên. Lui vào thân tên một tấc lại có lớp ngạnh nữa. Tên lửa, đầu thân quấn vải, tẩm dầu. Tên xuyên thủng áo giáp hoàn toàn bằng thép. Địch thủ bị trúng tên sát hại, bị hai lớp ngạnh, thì không thể nào nhổ ra được. Ngoài ra, mỗi người còn được trang bị một sợi dây, thắt nút thòng lọng, để khi truy kích địch, sẽ dùng dây tung lên bắt sống địch bằng cách tròng vào cổ.

Bác Nhĩ Truật ngắm nghía cây cung: Cung bằng tre rất cứng, có ba đoạn uốn khúc, với ba dây khác nhau bằng gân thú. Với ba uốn khúc này, có thể bắn ba loại tên khác nhau. Trao cây cung trả Tử-Kim, Bác Nhĩ Truật hỏi:

– Trê lưng ngựa có cái bầu đựng nước uống. Cạnh bầu có cái ống tre. Thế ống tre thì dùng làm gì?

– Dùng để đựng thực phẩm. Mục đích của đoàn võ sĩ Long-biên chúng tôi là trong khi giao chiến sẽ đánh thẳng vào trung quân địch mà bắt tướng. Như vậy trận tuyến địch sẽ hỗn loạn. Khi đã vào trung quân, nếu như chúa tướng địch bỏ chạy, thì phải đuổi cho đến cùng, có như vậy mới làm cho địch không tập trung được quân nữa. Trong khi đuổi, nếu đói đã có lương thực, nếu khát đã có nước. Với trang bị này, chúng tôi có thể đuổi địch ít nhất một ngày không ngừng.

Trong hơn hai tháng lênh đênh trên mặt biển, hơn tháng từ Liêu-Đông tới Trường-thành, các võ sĩ Long-biên đã học được khá nhiều tiếng Mông-cổ. Bây giờ, giữa hai đoàn Mông-cổ, Đại-Việt có thể nói chuyện với nhau, tuy còn bị giới hạn.

Hai đoàn người ngựa đi vào vùng thảo nguyên, đã hơn một ngày. Bấy giờ là mùa Thu, cây cỏ bắt đầu úa héo. Gió lạnh len lỏi trong không gian, làm người lữ thứ xa quê buồn man mác. Chiều hôm ấy, họ tới khu lều trại của một tộc Thát-đát. Bác Nhĩ Truật cho ngừng quân, qua đêm.

Sáng hôm sau, khi đoàn người lên đường được hơn giờ, thì từ phía trước vọng lại tiếng ngựa hí, rồi có ba kị mã Mông-cổ đang ra roi ngựa phi tới. Bác Nhĩ Truật hất hàm ra lệnh. Một viên thập phu trưởng dàn người của mình ra, rồi phất tay làm hiệu cho ba kị mã ngừng lại. Ba kị mã trong y phục tả tơi, một người bị mất mũ, một người bị mất áo khoác, còn một người bị thương đang nằm gục trên lưng ngựa.

Long-Tùng kêu lên:

– Phải chăng các người thuộc đội vệ sĩ của Đại-hãn. Các người báo danh đi.

Ba kị mã đã nhận ra Bác Nhĩ Truật, Long-Tùng, Đoan-Thanh. Chúng hành lễ rồi cúi đầu:

– Chúng tôi là Ban Bu (Baibu), Di Cốc (Djicoq) và Di Tôn (Djitong). Chúng tôi bị lạc mất đồng đội. Đã hai ngày chúng tôi chưa được ăn. Khát quá… Xin tướng quân…

Nói dứt, cả ba cùng nằm gục trên lưng ngựa. Bác Nhĩ Truật ra lệnh cho thuộc hạ. Họ cùng đỡ ba kị mã xuống ngựa, rồi đặt nằm dài trên bãi cỏ.

Long-Tùng kinh hãi than:

– Đây là ba người trong đội vệ sĩ, do em của Đại-hãn là Cát Xa chỉ huy. Tại sao họ lại ở đây? Tại sao họ bị thương? Không chừng Đại-hãn gặp nguy gì cũng nên.

Ba võ sĩ được uống nước, được ăn. Lát sau, họ cố gắng ngồi dậy. Lòng Bác Nhĩ Truật nóng như lửa, ông hỏi:

– Người cứ từ từ thuật cho chúng ta biết tình hình. Hiện Đại-hãn ở đâu?

– Tiểu nhân không rõ.

Di Cốc trả lời: Trong trận đánh hai đêm trứơc, đội của tiểu nhân phải chống với hơn ba nghìn quân Khắc-liệt. Toàn đội cảm tử cản đường cho Đại-hãn rút chạy. Cuối cùng mỗi người tản ra một ngả. Anh em tiểu nhân theo vết chân ngựa, tìm Đại-hãn, mà không gặp.

Nói đến đó y mệt lả. Thủ-Huy chĩa ngón tay phóng một chỉ vào giữa huyệt Đại-trùy của Di Cốc đến véo một tiếng. Đại-trùy là nơi giao hội của sáu kinh dương và Đốc-mạch. Chân khí của Thủ-Huy từ huyệt Đại-trùy chuyển vào sáu kinh dương, luân lưu khắp cơ thể Di Cốc làm người y nóng bừng như nhảy vào một bồn nước nóng. Y ngồi nhổm dậy hành lễ với Thủ-Huy:

– Đa tạ huynh đệ.

Rồi y thuật:

« … Bốn tháng trước, khi Tứ-lang vương lên đường đi Đại-Việt rồi, thì ở nhà có sự. Sự đó như sau: Đại-hãn thấy Thái-tử Tang Côn (1) của Khắc-liệt thu dụng những hãn của các bộ tộc bất mãn với ta như Trác Mộc Hợp (2), Đa Di Đài (3), An-Tăng (4), Cút Sa (5) làm vây cánh. Người cho rằng Tang Côn lại muốn gây hấn như hồi xưa, chứ không phải chủ ý của Vương-hãn. Người muốn làm một việc gì đó, mua lòng tin của Vương-hãn. Người cử sứ giả sang hỏi công chúa Sa Ua Ba Ki (6), con của Vương-hãn cho trưởng tử Truật Xích. Lại đem con gái là Hoa Tranh (7) gả cho cháu nội Vương-hãn ».

Ghi chú của thuật giả:

(1) Tang Côn, Săngum, NS chép là Diệc Lạt Hợp.

(2) Trác Mộc Hợp, Jamuqa le Rusé.

(3) Đa Di Đài, Da’iritai, NS chép là Hỏa Sát Nhi.

(4) An Tăng, Altan, NS chép là An Đạn.

(5) Cút Sa, Qucar, NS chép là Quan Sa.

(6) Công chúa Sa Ua Ba Ki, Sahuabakhir, NS chép là Sa Nhi Bách Cơ.

(7) Công-chúa Hoa Tranh, Hoatang, NS chép là Hỏa A Trực Bách Cơ.

« …Vương-hãn hỷ hả lắm. Nhưng Tang Côn dèm rằng:

– Phụ vương chỉ nhìn thấy bề ngoài mà không thấy tâm can của Thiết Mộc Chân. Lòng dạ y thâm hiểm khôn lường. Trước sau như một, y muốn chiếm Khắc-liệt. Y dự mưu: Khi Truật Xích làm phò mã Khắc-liệt, một mai, phụ vương băng rồi, thì y sẽ đòi hỏi phải cho Truật Xích kế vị. Bấy giờ thì con cháu phụ vương sẽ ra sao?

Vương-hãn không tin, người bác lời Tang Côn:

– Thiết Mộc Chân là con người bạn cũ Dã Tốc Cai của ta. Ta đã nhận y làm nghĩa tử. Từ gần hai mươi năm qua, ta chỉ giúp y có một lần duy nhất là cho y mượn một binh đoàn (10 nghìn người), đánh Miệt Nhi đem vợ y về. Rồi từ đó, y đã cứu ta bao phen. Nay có lý gì y phản ta.

Vương-hãn nhắc lại chuyện cũ:

– Người không nhớ ư? Hồi chú người làÁt Kê Ca Ra, mượn quân Nãi-man về đánh úp ta, cướp ngôi. Ta với người phải lưu vong sang Tây-liêu. Tây-liêu không dung, xua đuổi. Ta xin Thiết Mộc Chân cho về nương nhờ trong đất Mông-cổ. Lập tức y sai người đón ta, rồi chính y đem quân giúp ta khôi phục ngôi vua. Giá như y có tham vọng, thì hồi ấy y đã chiếm luôn Khắc-liệt rồi. Lại khi Kim mưu chia rẽ ta với Thiết Mộc Chân, họ muốn Khắc-liệt với Mông-cổ đánh nhau, khiến hai hổ một mất, một bị thương, để yên mặt Bắc. Ta không mắc mưu. Còn người, người với Trác Mộc Hợp bầy ra cuộc đấu võ, mượn tay võ sĩ Kim giết bốn đại tướng của Mông-cổ, nhưng không thành. Chuyện đó Thiết Mộc Chân biết hết, song y không vì thế mà thù ta. Bằng cớ là ngay sau đó, Nãi Man đem quân đánh ta. Người đem quân chống lại, bị bại, Khắc-liệt tưởng mất trong một sớm, một chiều. Ta cầu cứu với Mông-cổ, Thiết Mộc Chân gửi bốn tướng Bác Nhĩ Truật, Bác Nhĩ Hốt, Mộc Hoa Lê, Xích Lão Ôn, đem quân cứu viện, Khắc-liệt mới còn. Ta với Thiết Mộc Chân từng liên binh với nhau trước sau 36 trận. Trận nào cũng như trận nào, y chia chiến lợi phẩm cho ta nhiều hơn…

Tang Côn vẫn không nản:

– Phụ vương ơi! Chính cái đại lượng của Thiết Mộc Chân kia mới làm cho con lo sợ. Y giả nhân, giả nghĩa không tham của để mưu việc lớn.

Nhưng Vương-hãn vẫn bác lời y. Tuy Tang Côn không thành công trong việc thuyết Vương-hãn đánh Mông-cổ, nhưng hôn sự mà Đại-hãn đưa ra bị từ chối. Từ đấy Tang Côn, Trác Mộc Hợp cho người âm thầm dụ những tù trưởng bất mãn với Đại-hãn dẫn đoàn trại bỏ Mông-cổ theo Khắc-liệt. Quan trọng nhất là bọn An Tăng, Cút Sa, Đa Di Đài. Bọn này đem bộ tộc, cùng binh lính theo Tang Côn… »

Bác Nhĩ Truật than với Long-Tùng:

– Ái chà! Quân số của mỗi tên này lên đến một vạn người, được huấn luyện theo phương pháp của phụ thân huynh đệ. Mông-cổ mất hơn ba vạn binh thiện chiến, trang bị đầy đủ. Nguy hơn nữa, Khắc-liệt dùng số quân này đánh ta, thì thực khó mà chống nổi. Rồi sao?

« … Cách đây hơn tháng, có sứ giả của Vương-hãn tới mời Đại-hãn sang Khắc-liệt nghị sự về hai cuộc hôn nhân không thành. Đại-hãn không nghi ngờ gì, người lấy mấy chục vệ sĩ lên đường. Trong khi đi đường, người chợt động tâm: Trước đây Vương-hãn không thuận hai cuộc hôn nhân này. Bây giờ sao lại đổi thái độ? Đại-hãn liền quay trở về, rồi sai sứ giả sang hẹn lại ngày khác… »

Thủ-Huy ngắt lời Di Cốc:

– Đại-hãn biết nghi ngờ, nhưng tự tin thành ra ông tuy thoát chết, mà vẫn bị đánh úp!

Bác Nhĩ Truật rùng mình:

– Sao phò mã biết?

– Cứ lý mà suy! Có thể Vương-hãn đã bị Tang Côn thuyết phục, ông ta muốn đánh Mông-cổ. Nhưng vì sợ lực lượng Mông-cổ, nên một mặt ông ta cho quân sĩ chuẩn bị sẵn. Một mặt ông ta bầy kế mời Đại-hãn qua, rồi phục võ sĩ giết đi. Giết Đại-hãn rồi, ông cho quân ào ạt tấn công bất ngờ, thì Mông-cổ phải bại. Thôi, ông bạn thuật tiếp đi!

Di Cốc thở dài:

« … Đại-hãn về tới nhà, người phái nhiều thám mã trải ra trên đường từ Khắc-liệt tới Mông-cổ. Một ngày sau, thám mã hỏa tốc báo cho Đại-hãn biết rằng, quân Khắc-liệt tới mười vạn người đang trên đường tiến tới Mông-cổ. Chỉ nội trong một ngày là sẽ tới bản doanh của Đại-hãn. Đại-hãn kinh hoảng, vì quân của người có năm vạn thực, nhưng đều đóng rải rác ở lãnh thổ của các bộ tộc. Tại bản doanh chỉ có 4600 quân mà thôi. Với 4600 người, chống sao nổi với 10 vạn người? Tuy kinh hoảng, nhưng Đại-hãn cũng vẫn bình tĩnh. Người ra lệnh cho mã khoái phi đi tất cả các bộ tộc, phải đem quân về cứu ứng. Người lại truyền đem đàn bà, trẻ con lên xe, cùng gia súc, rút chạy về các bộ tộc phía Đông… »

Thủ-Huy suýt xoa:

– Hỏng! Như vậy thì hỏng bét.

Bác Nhĩ Truật kinh ngạc:

– Chiến thuật của Đại-hãn xưa nay vẫn thế. Khi gặp địch đông gấp bội, thì phải di tản đàn bà trẻ con đi chỗ khác, để khỏi vướng víu. Sau đó dàn quân ở một vị trí mình chọn sẵn. Vị trí đó thuận lợi cho mình, bất lợi cho địch.


Stickman AFK: Liên Minh Bóng Đêm

Hồi (1-50)


<