Vay nóng Tima

Truyện:Đông Chu liệt quốc - Hồi 019

Đông Chu liệt quốc
Trọn bộ 108 hồi
Hồi 019: Trịnh lệ công lập mưu về nước Châu huệ vương tìm kế phục thù
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-108)

Siêu sale Lazada

Tề-hầu kéo binh về nước, mở tiệc khao quân.

Quãn-Trọng tâu rằng:

- Từ ngày nhà Châu thiên sang Đông đô đến nay, các nước chư hầu không nước nào mạnh bằng Trịnh. Kinh đô nước Trịnh là nơi Đông-quách, chỗ ấy phía trước có núi Trung-sơn, phía sau có sông Hà, phía hữu có sông Lạc, phía tả có sông Tề, thật là nơi hiểm địa.

Hơn nữa, từ lúc Trịnh trang-công thắng được Tống và Hứa, lại kết thân với Sỡ là nước tiếm xưng vương-hiệu, đất rộng binh hùng. Hai nước ấy cấu kết với nhau, nước Tề ta khó bề thắng được.

Tề hoàn-công hỏi:

- Như thế thì biết làm thế nào cho hai nước ấy tùng phục?

Quản-trọng nói:

- Nhất định phải hạ cho được Sở. Mà muốn hạ Sở trước phải dẹp Trịnh.

Tề hoàn-công nói:

- Ta vẫn biết Trịnh là nơi cốt yếu, muốn thâu đoạt đã lâu, song không biết dùng kế gì đặng.

Ninh-thích nói.

- Công-tử Đột bên nước Trịnh, trước kia lên ngôi chỉ có hai năm, bị Tế-Túc đuổi ra nước ngoài, cư trú nơi đất Lịch. Hiện nay nước Trịnh, Công-tử Nghi đang ở ngôi. Tế-Túc là tôi mà dám đuổi Chúa, Công-tử Nghi là em mà chiếm ngôi anh đó trái là lễ. Xin Chúa-công cho người đến đất Lịch đưa Trịnh đột về nước, lập lên ngôi, ắt Trịnh đột phải mang ơn Chúa-công mà tùng phục nước Tề.

Tề hoàn-Công khen phải, khiến Tân tu-vô đem hai trăm binh ra đóng đồn nơi đất Lịch, rồi sai người đến tỏ ý với Trịnh đột.

Lâu nay Trịnh đột nghe Tế-Túc đã qua đời thường cho người dò xét tình hình nước Trịnh để tính việc phục nghiệp, xảy được tin nước Tề muốn giúp mình về nước, lòng mừng khôn xiết cho người đến đón Tân tu-vô vào thành thết đãi.

Trong lúc đang ăn uống, Tân tu-vô hỏi:

- Chẳng hay nước Trịnh hiện nay ai thay cho Tế-túc?

Trịnh đột đáp:

- Thay Tế-Túc là Thúc-Thiêm. Người nầy có tài trị nước, nhưng không có tài cầm binh.

Giữa lúc ấy, bỗng có quân vào báo rằng:

- Kinh-thành nước Trịnh vừa xảy ra một chuyện rất lạ: Phía trong cửa Nam môn có một con rắn dài tám thước, đầu xanh đuôi vàng, cắn lộn với một con rắn phía ngoài cửa dài hơn một trượng, đầu đỏ đuôi xanh. Hai con cắn nhau đến mười bảy ngày thì con rắn trong bị con rắn ngoài cắn chết. Con rắn ngoài chạy thẳng vào thành, đến nhà Thái-Miếu thì biến mất. Thiên hạ đến xem đông nghẹt, nhưng chẳng ai dám lại gần.

Tân tu-vô nghe nói đứng dậy chức mừng Trịnh đột:

- Như thế chắc chắn hiền-hầu sẽ khôi phục được ngôi nước Trịnh.

Trịnh đột hỏi:

- Sao ngài biết được?

Tân tu-vô đáp.

- Con rắn ngoài cửa tức là hiền-hầu, vì hiền-hầu là anh, nên rắn ấy dài hơn một trượng, còn con rắn trong cửa tức là Công-tử Nghi. Công-tử Nghi là em nên có tám thước. Đến ngày thứ mười bẩy, con rắn bên trong chết, nghĩa là từ khi hiền-hầu bỏ ngôi đến nay đã mười bảy năm, nay trở về phục-quốc được thành công. Đó là điềm trời cho biết trước.

Trịnh đột mừng rỡ nói:

- Nếu quả đúng như vậy, dầu trọn đời tôi chẳng đám quên ơn Tề-hầu.

Nói xong, rót rượu đưa mời Tân tu-vô uống.

Hai người rất tương đắc.

Sáng hôm sau, Tân tu-vô bàn với Trịnh đột đem quân lẻn về lấy đất Đại-lăng.

Quan giữ thành Đại-lăng là Phó-Hà, nghe được tin Trịnh đột kéo quân đến đánh, vội điểm quân khai thành đối địch.

Chẳng ngờ Tân tu-vô phục binh nơi phía sau, tràn vào chiếm thành.

Phó-hà tưởng quân Trịnh đột, sau biết được có binh Tề giúp sức, liệu thế không chống lại, phải xin đầu hàng.

Trịnh đột vốn căm hờn Phó-Hà trong mười bảy năm qua, đã giữ thành rất gắt chống lại quân mình, nên truyền quân đem chém

Phó-Hà la lớn:

- Nếu muốn về nước Trịnh mà Chúa-công đem giết tôi thật là thất sách.

Trịnh đột nghe nói, liền bảo đao phủ thủ dừng lại hỏi:

- Ngươi có kế gì hay sao

Phó-hà nói:

- Tôi có thể lấy đầu Công-tử Nghi được!

Trịnh đột lắc đầu nói:

- Ngươi là một tiểu-tướng, tài cán, mưu mô chi mà làm được chuyện đó, chẳng qua ngươi tham sanh úy tử, kiếm lời gạt ta để khỏi chết mà thôi.

Phó-hà nói:

- Quyền chính trong nước ngày nay thuộc về tay Thúc-thiêm. Tôi cùng với Thúc-thiêm thân nhau lắm. Nếu Chúa-công không chê tôi bất tài, để tôi sống, tôi sẽ về bàn mưu với Thúc-thiêm giết Công tử Nghi đem đầu nạp cho Chúa-công.

Trịnh đột hét to:

- Tên lão tặc! Đừng gạt ta. Mi muốn trở về bàn với Thúc-Thiêm đem quân đến đây chống cự với ta, ta đã biết rõ.

Nói rồi truyền đao-phủ-thủ đem chém.

Tân tu-vô cản lại, nói:

- Vợ con Phó-hà nay còn trên đất Đại-lăng nầy. Ta hãy giam lại để làm tin.

Phó-hà nghe nói quỳ móp xuống đất rên rỉ:

- Vợ con tôi còn đó, chẳng lẽ tôi ham sống một mình, bỏ vợ bỏ con tôi sao.

Nói xong ngước mặt lên trời thề.

Lúc đó Trịnh đột mới tin, truyền quân mở trói thả đi.

Đêm ấy, Phó-Hà lẻn về Kinh đô nước Trịnh, vào yết kiến Thúc-thiêm.

Trông thấy Phó-Hà, Thúc-thiêm ngạc nhiên hỏi:

- Nhà ngươi đang trấn thủ Đại-lăng sao lại về đây?

Phó-hà nói:

- Tề-hầu sai tướng Tân tu-vô đem quân đưa Công-tử Đột về nước, nay đã chiếm được Đại-lăng. Nay mai ắt đại binh kéo đến Kinh-thành. Ngài nên làm cách nào chém được Công-tử Nghi, đem đầu dâng cho Công-tử Đột thì mới khỏi mất ngôi Công-khanh. Vả lại Công-tử Đột là anh đáng lý phải ở ngôi mới thuận.

Thúc-thiêm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Trước kia ta đã có ý đưa Công-tử Đột là vua cũ, về nước nối ngôi, nhưng bị Tế-túc ngăn cản. Nay Tế-túc đã thác, việc nầy không khó.

Phó-hà hỏi:

- Nếu vậy thì liệu kế nào?

Thúc-thiêm nói:

- Tin cho binh Tề kéo đến. Lúc đó ta giả đò mở cửa thành đem quân đối địch, tất nhiên Công-tử Nghi phải lên mặt thành đứng xem. Nhà ngươi theo hầu, rút gươm chém đầu Công-tử Nghi, còn ta, ta mở cửa rước Công-tử Đột vào tôn lên ngôi.

Hai người bàn tính xong, mật sai người báo tin với Trịnh đột.

Phó-hà lại vào ra mắt Công-tử Nghi, nói:

- Quân Tề giúp Công-tử Đột chiếm được Đại-lăng rồi.

Công-tử Nghi giật mình nói:

- Thế thì phải viết thư qua nước Sở cầu cứu mới được.

Thúc-thiêm bên ngoài tuân lệnh, nhưng bên trong cố ý chần chờ, đã hai ngày mà không sai sứ qua nước Sở. Bỗng có tin quân Tề kéo đến vây thành.

Thúc-thiêm xin phép Công-tử Nghi khai chành chống cự, rồi hẹn Phó-Hà lên mặt thành mà phòng giữ.

Công-tử Nghi lầm kế, cũng theo Phó-Hà lên mặt thành xem xét binh tình. Vừa đến nơi Phó-hà rút gươm đâm Công-tử Nghi một nhát, ngã quỵ xuống đất tắt thở.

Bên ngoài Thúc-thiêm mở cửa, đón Công-tử Đột và Tân tu-vô, vào Thanh-cung bắt hai con của Công-tử Nghi giết đi, rồi cùng nhau tôn Công-tử Đột lên ngôi, lấy hiệu cũ xưng là Trịnh lệ-công.

Người nước Trịnh lâu nay vẫn mến Trịnh lệ-công, nên dân tình vẫn được yên ổn.

Trịnh lệ-công cảm tạ Tân tu-vô, lo việc đãi đằng, khao thưởng binh Tề rồi tiễn Tân tu-vô về nước.

Lúc bấy giờ Trịnh lệ-công mới đòi Phó-Hà đến nói:

- Ngươi giữ đất Đại-lăng trong mười bẩy năm, cố sức cùng ta chống cự, thật đã hết lòng với chúa cũ. Nay tham sống, sợ chết, vì ta mà giết bỏ vua cũ, như thế ngươi là một kẻ nham hiểm, tâm địa không biết đâu mà lường. Ta phải giết nhà ngươi đi, mới khỏi lo hậu hoạn.

Nói xong, truyền võ sĩ đem Phó-Hà ra chém, còn vợ con thì cho về.

Nguyên-phồn trước kia tán thành việc lập Công-tử Nghi, nay sợ Trịnh lệ-Công bắt tội nên xin từ chức.

Trịnh lệ-Công sai người đến trách mắng.

Nguyên-phồn thắt cổ tự vận.

Trịnh lệ-công lại bắt trị tội những người đuổi mình khi trước.

Cường-thủ trốn vào nhà Thúc-thiêm, nhờ Thúc-thiêm xin cho mới khỏi, nhưng cũng phải bị chặt chân.

Định-Thúc trốn sang nước Vệ, nhưng cách ba năm sau Trịnh lệ-công lại cho triệu về.

Thúc-thiêm vẫn giữ chức Chính-khanh, Đổ-thúc và Sư-thúc đều được phong chức Đại-phu.

Người nước Trịnh gọi là "tam lương" nghĩa là ba người hiền.

Đây nói qua việc Sở văn-vương, từ khi lấy được nước Tức, bắt nàng Tức-Vỉ làm vợ, đêm ngày ấp ủ không rời. Chỉ ba năm mà sanh đặng hai con. Người lớn là Hùng-hi, người nhỏ là Hùng-vận.

Trong ba năm trời, Tức-Vỉ không nói chuyện với Sở văn-vương câu nào. Sở văn-vương lấy làm lạ, một hôm cố hỏi Tức-Vỉ vì cớ gì mà không chịu nói. Tức-Vỉ chỉ ứa nước mắt, không đáp.

Sở văn-vương năn nỉ hết lời, nàng mới tấm tức thưa:

- Thần thiếp phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết thì còn mặt mũi nào mà chuyện trò với ai.

Sở văn-vương nói:

- Việc nầy cũng bởi Sái-hầu trước kia giới thiệu phu-nhân cho ta, nên ngày nay mới sanh ra thảm cảnh nầy. Ta sẽ vì phu-nhân đem quân đến bắt Sái hầu đền tội.

Nói xong, cất binh đi đánh nước Sái.

Sái hầu hay tin thất kinh, thân hành đến đất Phu, quì móp giữ đường đợi Sở văn-vương đến mà tạ tội. Lại đem tất cả vàng bạc châu báu trong kho ra mà cống lễ.

Sở văn-vương nhận lễ vật, rồi rút binh về.

Vừa về đến nước Sở, lại có tin Trịnh lệ-công sai sứ đến tỏ việc mình đã phục-vị và xin cầu hoà.

Sở văn-vương cả giận nói:

- Trịnh đột về nước đã hai năm, nay mới cho cho sứ đến ra mắt nước ta thật là vô lễ.

Bèn đem binh phạt Trịnh.

Trịnh lệ-công phải ra ngoài thành tạ tội, xin dâng lễ vật, Sở văn-vương mới chịu thâu quân.

Từ đó Trịnh lệ-công sợ oai nước Sở không dám cho sứ sang chầu nước Tề. Tề hoàn-công biết được tâm trạng ấy cho người đến trách cứ.

Trịnh lệ-công không biết phải làm sao, bèn sai sứ đến thưa với Tề hoàn-công rằng:

- Chúa-công tôi vì bận lo việc kiên-thủ sợ binh Sở đến đánh, không có dịp để triều cống Tề. Nếu Minh-công lấy oai trị được nước Sở thì Chúa tôi mới an lòng vâng mạng Tề được.

Tề hoàn-công nghe lời nói của sứ nước Trịnh không được khiêm tốn, tức giận, bắt giam vào ngục.

Sứ nước Trịnh trốn thoát, về nước.

Từ đó, nước Trịnh lại phản, về đầu Sở như cũ.

Giữa lúc đó, bên nhà Châu, vua Ly-vương thăng hà, con là Ngân lên nối ngôi, tức Châu huệ-vương.

Nhơn lúc nhà Châu mới lập, các chư-hầu bận việc điếu tang, và chúc tụng vua mới, Sở văn-vương kéo quân quấy nhiễu nước Ba, đánh nước Thân, làm lắm điều hiếp chế.

Nước Ba căm thù, kéo quân lẻn sang nước Sở chiếm đất Na.

Tướng giữ đất Na là Diêm-ngao cự không lại bỏ thành trốn về tâu lại với Sở văn-vương.

Sở văn-vương truyền đem Diêm-ngao ra chém.

Thân tộc của Diêm-ngao uất hận vô cùng, quyết lòng rửa nhục, mới tư thông với nước Ba, yêu cầu đem binh phạt Sở, và hứa sẽ đứng ra làm nội ứng.

Nước Ba nghe theo, cử binh kéo đến vây thành.

Sở văn-vương thân hành đem binh ra đối địch, chẳng ngờ thân tộc của Diêm-ngao lẻn vào vòng binh đốt dinh phá trại.

Binh Sở không đề phòng nên rối loạn.

Quân nước Ba thừa thế đánh tan được quân Sở.

Sở văn-vương bị một mũi tên nơi gò má, giục xe chạy dài.

Tuy thắng trận, nhưng nước Ba là nước nhỏ, không dám đuổi theo, vội vã thâu quân về nước.

Còn thân tộc Diêm-ngao cũng theo về nước Ba mà cư trú.

Sở văn-vương về đến Phướng thành đã nữa đêm, bèn gọi quan giữ cửa là Dục-quyền khai thành đón tiếp.

Dục-quyền hỏi:

- Chúa-công thắng trận chăng?

Sở văn-vương đáp:

- Không, ta vừa bị thất trận.

Dục-quyền nói:

- Tiên-vương xưa ra đánh trận nào cũng thắng, nay. Đại-vương thân chinh đánh nước Ba là một tiểu quốc mà bị thua ắt thiên hạ chê cười. Xin chớ vào thành.

Sở văn-vương hỏi.

- Việc đã rồi, khanh bảo ta phải làm thế nào bây giờ?

Dục-quyền nói:

- Gần đây có nước Hoàng, không chịu chầu Sở đã lâu, nếu Đại vương đem binh đánh nước Hoàng mà đắc thắng thì mới rửa bớt điều nhục ấy.

Sở văn-vương quay lại nói với quân sĩ:

- Nếu ta đánh không thắng nước Hoàng quyết không về Sở.

Nói xong lập tức kéo binh sang đánh nước Hoàng.

Đến nơi, Sở văn-vương cầm trống giục quân tử chiến.

Quân nước Hoàng không làm sao cự lại kéo nhau bỏ chạy, thây nằm chật đất, gướm bỏ đầy đường.

Sở văn-vương truyền đóng trại nghĩ ngơi.

Đêm ấy, Sở văn-vương ngũ trong dinh, nằm mộng thấy Tức-hầu, mặt hầm hầm chạy đến trước mặt hét lớn:

- Ta có lỗi gì mà mi giết ta, xâm chiếm đất ta, gian dâm với vợ ta. Nay ta đã minh oan với thượng đế rồi!

Nói xong giơ tay tát vào mặt Sở văn-vương một cái.

Sở văn-vương giật mình thức dậy, thấy vết thương nơi mặt lỡ toét ra, máu chảy đầm đìa, đau nhức khôn xiết.

Sở văn-vương liền truyền lệnh thu quân về nước.

Nhưng vừa về đến Thu địa, thuộc đất Sở, thì từ trần.

Tướng sĩ phò thi thể của Sở văn-vương về Kinh đô tẩn liệm, làm ma chay. Con trưởng Sở văn-vương là Hùng-hi lên nối ngôi.

Dục-quyền sau khi lo việc ma chay cho Sở văn-vương tự nghĩ:

- Ta đã hai lần phạm đến chúa ta, dẫu vua không bắt tội, ta cũng không có quyền sống.

Nghĩ rồi kêu con cháu dặn rằng:

- Ta có chết, chúng bây đem chôn ta nơi cửa thành, để con cháu đời sau biết ta là người gát cửa.

Nói xong rút gươm tự vận.

Hùng-hi động lòng, phong cho con cháu nối đời làm chức Đại-hôn.

Trịnh lệ-Công được tin Sở văn-vương chết, có ý mừng thầm nói:

- Sở văn-vương đã chết, ta không còn lo gì nữa.

Thúc-thiêm nói:

- Nước Trịnh nay phải thần phục nước người, một bên là Tề, một bên là Sở cố tranh nhau bắt chẹt. Tôi tưởng đó là điều quốc-sĩ. Thuở xưa, tiên-quân ta Hoàn-công, Võ-công, Trang-công đều làm đến bực Khanh-sĩ nơi triều Châu, đứng đầu liệt quốc, xử phạt chư-hầu, nay xin Chúa-công vào triều Châu nhờ ơn Thiên-tử gia-phong để lấy oai mà chế lại các chư-hầu thì mới khỏi bị ai lấn áp.

Trịnh lệ-công khen phải sai quan Đại-phu là Sư-thúc qua Châu triều Cống.

Sư Thúc đi chưa được mấy ngày trở về báo:

- Nhà Châu lúc nầy loạn lắm.

Trịnh lệ-công hỏi:

- Sao mà loạn?

Sư Thúc nói:

- Nguyên trước kia, vua Trang-vương nhà Châu yêu nàng Diên-cơ, có sanh đặng một con là Vương-tử Đồi, Châu Trang-vương mến Vương-tử Đồi lắm sai quan Đại-phu Vỉ-quốc làm chức sư-phó để dạy dỗ. Vương-tử Đồi có tánh thích chơi trâu. Một mình nuôi trong nhà hơn hai trăm con trâu, ngày nào cũng cho ăn uống, chăm sóc rất kỹ lưỡng, lại cho trâu mặc toàn là gam vóc, và đặt tên là văn thú.

Vương-tử Đồi đi đâu đều có đàn trâu đi theo, dậm nát cả ruộng nương, vườn tược mà không ai dám nói. Hơn nữa Vương-tử Đồi còn kết thân với năm quan Đại-phu là: Vỉ-quốc, Biên-bá, Tử-cầm, Chúc-quỵ và Thiêm-phủ, là những kẻ có thế lực trong triều. Vì vậy trong lúc Châu ly-vương còn ở ngôi cũng phải kính nể.

Vừa rồi, vua Huệ-vương lên ngôi, Vương-tử Đồi ỷ mình là chú, càng lên mặt kiêu ngạo hơn nữa.

Châu huệ-vướng rất ghét, tìm cách trấn áp Vương-tử Đồi cùng bè đảng. Chẳng ngờ một hôm tên thiện phu là Thạch-tốc, dâng đồ ngự thiện không được tinh sạch.

Châu huệ-vướng cách chức không dùng nữa.

Thạch-tốc bất bình nhập bọn với Vương-tử Đồi làm nội ứng, bày mưu cho Vương-tử Đồi đem quân đánh Châu huệ-vương để cướp ngôi, may nhờ có Châu-công Kỵ-phủ và Châu Bá-Liên cố sức chống giữ nên bọn Vương-tử Đồi bị thua chạy trốn sang đất Tô.

Trịnh lệ-công hỏi:

- Chúa đất Tô là ai?

Sư-thúc đáp:.

- Chúa đất Tô tên Phận-sanh, trước kia có nhiều công trạng với đời Võ-vương nên được phong làm Tô-công. Đến sau Phận-Sanh thác, con Phận- Sanh bị nước Địch hiếp chế cho nên phải bỏ vua thờ địch. Qua đến đời Châu hoàn-vương mới lấy đất Tô-công phong cho Trịnh, vì vậy Tô-công mất đất đem lòng oán hận nhà Châu gặp lúc Vương tử Đồi trốn sang, bàn mưu mượn binh nước Vệ để phản loạn. Còn Vệ huệ-công tức Vệ-Sóc trước kia có cư hiềm với vua Châu việc phong lập cho Kiềm-Mâu, nên cố lòng giúp sức, cử đại binh sang đánh. Châu công Kỵ-phủ và Châu bá-Liên cự không lại phải phò Châu huệ-vương chạy sang đất Yên. Hiện nay Vương tử Đồi đã chiếm ngôi, nhưng lòng dân không phục. Nếu chúa-công đem quân đến đất Yên rước Châu Huệ-vương về Lạc-vương, khôi phục được vương-vị thì ắt đặng công lớn với triều đình.

Trịnh lệ Công khen phải, những lại nghĩ rằng:

- Vương tử Đồi là nhu nhược, đặng thành công là nhờ sự giúp đỡ của nước Vệ. Nay trước tiên phải đem lời lẽ phân giải, nếu Vương-tử Đồi không nghe ta sẽ dùng đến binh lực cũng chẳng muộn.

Nghĩ như vậy, một mặt sai người đến đất Yên đón Châu huệ-Vương, một mặt sai người đưa thư cho Vương-tử Đồi.

Thư rằng:

Tôi, Trịnh đột, được nghe người ta nói: hễ làm tôi phạm đến vua là bất trung, làm em nghịch với anh là bất thuận. Người đã bất trung bất thuận ắt trời chẳng dung. Nay Vương-tử nghe lời bọn dua nịnh, đuổi thiên-tử đoạt ngôi là điều quấy. Nếu Vương-tử biết ăn-năn, rước Thiên-tử về bó mình chịu tội, sẽ không mất phú-quí, xin Vương-tử nên xét lại.

Vương-tử Đồi tiếp được thư, lòng lưỡng lự, Vỉ-Quốc quỳ tâu:

- Tâu Bệ-hạ, ngày nay Bệ-bạ chẳng khác nào như người đang cởi trên lưng cọp. Nếu bước xuống ắt bị cọp phân thây. Vả lại mình đang làm Thiên-tử lại trở xuống làm tôi là chuyện không thể được. Trịnh đột muốn lừa Bệ-hạ đó, xin Bệ-hạ chớ nghe theo.

Vương-tử Đồi bèn đuổi sứ Trịnh trở về nước.

Trịnh lệ-công-tức giận họp lực với Quắc-công (chúa nước Quắc), cất quân phò Châu huệ-vương kéo đến Lạcđương vấn tội.

Quân-sĩ Vỉ-quốc thất kinh chạy vào cung tâu lại với Vương-tử Đồi.

Lúc đó vương-tử Đồi đang bận cho Trâu ăn nên không ra tiếp.

Vĩ-quốc nói lớn:

- Việc nguy cấp lắm rồi!

Nói xong giả mệnh vua sai các tướng đem quân đối địch.

Quân sĩ nhà Châu vốn không phục Vương-tử Đồi nên ra khỏi thành đều bỏ chạy về phía Châu huệ-vương.

Vỉ-Quốc thấy vậy vội vã thảo chiếu sang nước Vệ cầu cứu. Nhưng tờ chiếu thảo chưa xong, đã nghe quân báo:

- Châu huệ-Vương đã vào thành ngự triều rồi.

Vỉ-Quốc biết không thể thoát nỗi, liền đâm gươm vào cổ tự vận.

Chúc-quy và Tử-cầm bị chết giữa đám loạn quân, còn Biên-bá và Thiềm-phủ thì bị bá tánh bắt trói đem nạp.

Vương-tử Đồi thì chạy ra cửa phía Tây, khiến Thạch-tốc lùa trâu đi trước. Nhưng vì trâu quá mập nên đi chậm, quân Trịnh hay được đuổi theo bắt lại.

Châu huệ-vương khiến quân dẫn Vương-tử Đồi, Biên-Bá, Thiềm-phủ và Thạch-tốc ra pháp trường xử trảm.

Đoạn cắt đất Hô-lao thưởng cho nước Trịnh, và lấy đất Tử-Toàn thưởng cho nước Quắc.

Trịnh lệ-công và Quắc-công cáo từ về nước.

Trịnh lệ-công về mới nữa đường bị mang bịnh mà thác.

Quần thần lo việc an-táng rồi tôn Thế-tử Tiệp lên ngôi, hiệu là Trịnh Văn-Công.

Lúc đó, Trịnh lệ-công lại còn có một người con tên Công-tử Huấn, tên chữ là Kỉnh-trọng, có chơi thân với Công-tử Ngự-khấu. Về sau Công-tử Ngự-khấu toan cướp ngôi Trần tuyên-công, nên bị Trần tuyên-công giết đi. Công-tử Kỉnh-trọng sợ liên luỵ đến mình, bỏ nhà trốn sang nước Tề, được Tề hoàn-công phong chức Công-chính.

Một hôm, Tề hoàn-công đến chơi nhà Kỉnh-trọng, uống rượu đàm đạo rất vui. Gặp trời tối, Tề hoàn-công sai thắp đèn lên để uống thêm cho trọn cuộc.

Kỉnh-trọng nói:

- Tôi không tính đãi tiệc Chúa-công lúc ban đêm, vì vậy nên không dám đốt đèn, xin Chúa-công miễn chấp.

Tề hoàn-công cười lớn, nói:

- Kỉnh-trọng giữ lễ với ta như thế thực là hiếm có.

Nói xong, từ giã ra về.

Từ ngày ấy Tề hoàn-công thường khen Kỉnh-trọng là một hiền thần, và cắt đất phong cho Kỉnh-Trọng. Đến sau con cháu của Kỉnh-trọng nối nghiệp và Kỉnh-trọng là Thỉ-tổ của họ Điền.

Lại nhắc qua việc Văn-khương từ ngày Tề tương-công qua đời, lòng thương tiếc chẳng cùng. Và cũng vì thương tiếc thái quá mà mang tâm bịnh.

Một hôm, nội thị đưa viên thầy thuốc nước Cử đến xem mạch điều trị, Văn-khương chạnh lòng nhớ đến chuyện xưa, liền lưu vị thầy thuốc lại trong cung để ăn uống và vui hưởng hoan lạc.

Thấy Văn-khương quá dâm dục, biết mình không phải là tay đối thủ, vị thầy thuốc vội từ giã trở về nước Cử.

Văn-khương lại giả cách đi tìm thầy thuốc, ghé qua nước Cử, đến nhà vị thầy thuốc đó đôi ba phen.

Vị thầy thuốc không biết tính sao phải tìm người khác thay mình để làm cho Văn-khương vừa ý. Nhưng Văn-khương vẫn không hài lòng, tiếc rằng không bằng được Tề tướng-công thuở trước.

Qua năm thứ tư của Châu huệ-vương, bịnh của Văn-khương càng ngày càng nặng, tính không sống được lâu, bèn trở về nước Lỗ mà thác.

Trong lúc lâm chung, Văn-khương trối với con là Lỗ trang-công:

- Con của anh ta đã đặng mười tám tuổi, theo lời hứa thuở nọ, con nên mau cưới về, đừng câu chắp. Được như thế mẹ mới mát lòng nơi cửu tuyền.

Lỗ trang-công cúi đầu tuân lời mẹ, Văn-khương lại dặn:

- Nước Tề đương dựng nghiệp bá, oai thế càng ngày càng mạnh, con chớ nên bỏ việc giao hảo.

Nói rồi trút hơi thở cuối cùng.

Nhắc đến Văn-khương, người sau có thơ rằng:

Non nước đầy vơi thật khó lường

Ngàn đời còn mãi gái Văn-khương

Trăm năm miệng túi càn khôn khép

Lòng chửa phôi-pha mảnh má hường.

Lỗ trang-công chôn cất xong, tính theo lời di-chúc nghị việc hôn nhân

Quan Đại-phu Tào-quới can:

- Đại tang chửa mãn, xin Chúa-công hãy thư thả đã.

Lỗ trang-công nói:

- Lời mẹ ta đã dạy, nếu trái lời e bất hiếu. Song cưới vợ trong lúc tang chế lòng ta không an. Vậy thì, chờ đến giáp năm sẽ tính việc ấy.

Qua năm sau, Lỗ trang. Công cho người qua Tề cầu hôn.

Tề hoàn-công nói:

- Lỗ-hầu chửa mãn tang. Xin chờ đến hai năm nữa đã.

Vào năm thứ bảy của Châu huệ-vương, Lỗ trang-công hết tang mẹ thì đã ba mươi bẩy tuổi, mới cưới được con gái Tề tướng-công đem về Lỗ, tức là nàng Ái-khương.

Từ ngày Khương-thị về Lỗ, Tề và Lỗ giao-hảo rất thân thiết.

Tề hoàn-công lại khiến Lỗ trang-công hiệp binh đánh nước Từ và nước Nhung.

Hai nước nầy không dám chống cự, phải đem lễ vật triều cống, chịu làm tôi nước Tề.


Khởi Nguyên Mobile

Hồi (1-108)


<