← Hồi 13 | Hồi 15 → |
Trung tuần tháng bẩy, Tư Đồ Sảng rời Phúc Châu đi Lạc Dương. Hôn sự của chàng và Bạch Ly không hề được nhắc đến nữa và nàng đã khóc ròng lúc phân ly. Bạch Ly nhìn Tư Đồ Sảng bằng ánh mắt ai oán trách móc pha chút nghi hoặc, sợ hãi. Môi nàng phân vân, lưỡng lự như muốn thố lộ điều gì, mà lòng còn bất quyết nên không dám.
Bạch Ly vô cùng hoang mang, bối rối, chẳng hiểu rằng mình đang mê hay tỉnh. Bẩy đêm rồi, kể từ cái đêm bọn hải tặc tấn công, nàng luôn mơ thấy mình đến với Tư Đồ Sảng và cùng chàng ân ái. Lúc tỉnh giấc, những dấu vết của trận mây mưa, những cảm giác khoái lạc ngút ngàn, vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng ban ngày, nhận thấy biểu ca vẫn thản nhiên, chẳng chút ngượng ngùng vì mặc cảm tội lỗi, cư xử đúng lễ, Bạch Ly đành phải kết luận đấy là mơ.
Nàng thẹn thùng, nghĩ rằng vì mình quá yêu chàng mà tơ tưởng đến cảnh ái ân. Nàng không đủ kiến thức để hiểu ra rằng nữ nhân chẳng bao giờ mắc bệnh mộng tinh! Rằng cảm giácđau nhè nhẹ ở đôi bầu vú trinh nguyên là những gì rất chân thực.
Bạch Ly biết mình xinh đẹp tuyệt trần, hoàn toàn xứng đáng làm vợ Tư Đồ Sảng, và lễ giáo không cấm họ lấy nhau! Những giòng họ lớn Trung Hoa, nhất là trong hoàng tộc, việc người thân thích đồng bối kết hôn được xem như cách để giữ cho cơ nghiệp không lọt vào tay người ngoài! Bạch Ly tự nhủ sau này sẽ thưa với bà nội và mẹ để được làm vợ Tư Đồ Sảng. Hiện giờ chàng mới mất hai ái thê, không thể vui duyên mới ngay được!
Phần Tư Đồ Sảng thì hoàn toàn không biết đến tâm tình của Bạch Ly, bình thản ra đi! Quá đầu tháng tám, chàng về đến Lạc Dương.
Chàng không vào thành mà ghé Thúy Phong Cốc trước để thăm mộ. May thay nghĩa phụ chàng là Tây Môn Giới đang có mặt nơi này. Lão đã dựng một căn nhà lá trong cốc để sớm hôm nhang khói cho nghĩa huynh Lý Tứ và ba người kia.
Dù hung thủ đã đền tội nhưng lòng Tây Môn Giới vẫn khắc khoải khôn nguôi! Đúng ra Lý Tứ sẽ còn về sống thêm được vài năm nếu không về Thúy Phong Cốc. Tây Môn Giới bỗng chán chường kiếp sống giang hồ, muốn gác kiếm qui ẩn. Nhưng trước mắt lão còn phải giúp đỡ đứa con yêu dấu là Tư Đồ Sảng nên chưa thể buông đao!
Chiều nay, Tích Dịch Quỉ ngồi trên tảng đá trước mộ Lý Tứ, tay cầm bầu rượu, đối ẩm với người đã chết, lệ nhòa khóe mắt. Lão uống một chung và rưới chung kia lên mộ nghĩa huynh.
Nghe tiếng động, lão quay lại, mừng rỡ nhận ra Tư Đồ Sảng liền nhoẻn miệng cười:
- Hảo hài tử! Lão phu đang mong ngươi đến chết đi được!
Tư Đồ Sảng cũng cười sung sướng rảo bước đến quì một gối, chống tay thi lễ.
- Can gia! Hài nhi không ngờ lại gặp người ở đây!
Tây Môn Giới cười khà khà:
- Ngươi ngồi xuống đây cùng ta uống với Lý Đại ca vài chén, từ ngày ngươi đi đến giờ, ta thường có mặt ở Thúy Phong Cốc để anh linh Thúc công ngươi không buồn vì thiếu bạn rượu.
Tư Đồ Sảng dập đầu lạy ngôi mộ ba lạy rồi lên tảng đá nhỏ thứ hai, đối diện với cha nuôi.
Sau khi nghe chàng kể sơ việc nhận tông môn ở Phúc Châu, Tích Dịch Quỉ gật gù bảo:
- Như thế là tốt rồi! Giờ ngươi hãy cạn vài chung rồi lắng nghe lão phu!
Hai cha con cạn liền ba chén tương phùng, nhâm nhi với miếng khô bò. Tư Đồ Sảng chợt nhớ ra:
- Bẩm Can gia! Chẳng hay Mộ Hào cùng Chiêu Hương đã về đến Long Hổ Sơn chưa?
Nét mặt Tây Môn Giới u ám hẳn đi, lão thở dài rầu rĩ:
- Lão phu mong ngươi về cũng vì việc ấy đấy! Gã họ Liễu và Hương nhi đã bị Hạo Thiên Cung Chủ bắt sống hồi đầu tháng bẩy. Lăng Khải Trạch đã chết nên Lăng Song Tường nổi điên, ngược Bắc đến Trực Cô tìm ngươi để báo thù. Khổ thay, mụ ta lại chạm trán hai người ấy ở bờ Bắc sông Hoàng Hà! Lăng Song Tường liền bắt họ về giam cầm ở Hạo Thiên Cung và viết thư nhờ Cái Bang loan báo khắp giang hồ rằng muốn cùng Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng tỷ thí! Địa điểm chính là bờ vực thẳm ở núi Đại Hồ Sơn. Và nếu quá Ngọ rằm tháng tám này ngươi không có mặt thì mụ ta sẽ giết Liễu Mộ Hào và Chiêu Hương rồi quăng xác xuống vực.
Tư Đồ Sảng đau lòng vô hạn, thương cho ái thê đang chịu cảnh giam cầm! Chàng hối hận vì đã nặng tay với Khải Trạch để rồi Chiêu Hương lãnh hậu quả. Phải chăng Trác Thập Thiền sư đã có lý khi dạy ràng oan oan tương báo chẳng bao giờ dứt được.
Chàng suy nghĩ rất lâu rồi nói:
- Can gia! Hiện nay Triển Phi Hoan đang được Lăng Song Tường tín nhiệm, liệu chúng ta có thể nhờ gã làm nội ứng mà cứu hai tù nhân ra không?
Tây Môn Giới nhăn nhó đáp:
- Gã ngốc ấy không hiểu sao lại bỏ Hạo Thiên Cung đầu nhập Kỳ Lân Bang từ hơn tháng nay rồi! Lão phu cảm thấy hành vi của gã rất kỳ quái!
Và lão cằn nhằn:
- Ngươi cũng là một thằng ngốc! Sao trong lúc được Minh Đế phong chức tước ngươi không hỏi xin một ít Thiên Niên Hà Thủ Ô để thêm hỏa hầu Khô Mộc Thần Công?
Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
- Hài nhi có dọ hỏi Tam Hoàng Tử Chu Tải Hậu thì được biết kỳ trân đã hết sạch từ lâu rồi!
Tây Môn Giới ngao ngán hỏi lại:
- Thế Sảng nhi liệu có địch lại mụ họ Lăng hay không?
Tư Đồ Sảng bi phẩn đáp:
- Dù không địch lại thì hài nhi cũng phải nhận lời phó ước, với điều kiện Lăng Cung chủ phải thả hai tù nhân ra trước. Lúc ấy, mong can gia huy động lực lượng bảo vệ họ được an toàn!
Tây Môn Giới sa lệ than:
- Nếu ngươi bỏ mạng thì họ sống cũng như chết?
Tư Đồ Sảng mỉm cười trấn an:
- Can gia yên tâm! Hài nhi tự tin sẽ sống sót nếu trận đấy chỉ kéo dài độ nửa canh giờ!
Tây Môn Giới hân hoan nói:
- Hay lắm! Lão phu sẽ mời cả hội đồng võ lâm làm trọng tài và họ sẽ qui định rõ thời gian tỷ thí!
Lão đứng phắt dậy rời cốc, đi ngayđến Tổng Đà Cái Bang ở gần thành Lạc Dương.
Sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng tranh thủ trau dồi kiếm thuật, chuẩn bị cho cuộc chiến sinh tử sắp tới! Kiếm Đạo là con đường dài dằng dặc, nên người kiếm sĩ cứ phải khổ luyện mãi để tiến xa hơn. Cũng những chiêu kiếm quen thuộc ấy song càng luyện càng thâm nhập vào chỗ tinh túy, biến hóa tựa sự vận hành thiên hình vạn trạng của tự nhiên, của Đạo lớn. Từ một chiêu thành ngàn chiêu, từ có chiêu đến vô chiêu và từ vô chiêu đến vô kiếm.
Ly Giang Tiên Ông từng giảng giải cho Tư Đồ Sảng nghe như thế và bảo rằng vô kiếm có hai bậc. Bậc hạ là không cần đến kiếm, chỉ một thanh trúc hay một cành liễu mềm cũng có thể giết người. Bậc thượng thì kiếm không còn nằm trong tay, có thể dùng Tâm mà điều khiển, lấy đầu người ở khoảng cách năm sáu trượng. Đấy chính là những vị kiếm Tiên trong truyền thuyết.
Nhưng Tiên Ông lại kết luận bằng nụ cười hoài nghi:
- Ngay Vương Trùng Dương và Trương Tam Phong mà không đạt được mức vô kiếm thì e rằng đấy chỉ là chuyện cổ tích! Sảng nhi chớ vì lời nói của ta mà nuôi ảo vọng hão huyền!
Tư Đồ Sảng vốn chẳng dám mơ làm bậc kiếm tiên, giờ đây cặm cụi ôn luyện từng chiêu thức, đem cái Tâm vô nhiễm mà thể nhập vào kiếm ý. Chàng chú trọng nhất đến chiêu Thượng Thiên Nhược Thủy, chiêu kiếm thâm huyền, vi diệu nhất trong sở học của Ly Giang Tiên Ông.
Đối với những chiêu khác chàng hoàn toàn tùy nghi biến hóa, song với chiêu này chàng vẫn chưa đạt đến tinh túy tột cùng, đừng nói chuyện thoát ra ngoài khuôn khổ hữu chiêu.
Sư phụ chàng từng bảo rằng:
- Chiêu Thượng Thiện Nhược Thủy có gần ngàn thế thức nhưng ngươi càng thâm nhập vào thì số lượng ấy giảm đi. Cho đến khi nào ngươi chỉ còn lại một thức kiếm duy nhất là đạt đến mức tận thiện, tận mỹ.
Tiên Ông đã chứng minh cho học trò thấy kết quả ấy. Ông rút kiếm và chỉ trong chớp mắt lưỡi gươm xuyên qua màn kiến ảnh dầy đặc của chàng mà đâm thủng áo.
Tư Đồ Sảng đã khổ luyện và giảm dần số thế thức xuống còn một nửa, tạm cảm thấy hài lòng.o0o Sáng ngày Tiết Trung Thu rằm tháng tám, hàng ngàn hào kiệt đổ xô đến Đại Hồ Sơn, chờ xem cuộc tỷ đấu giữa Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường và Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng.
Sáu vị chưởng môn trong Hội đồng võ lâm đều hiện diện. Năm người kia từng làm Giám khảo trong Đại hội võ lâm năm ngoái, người thứ sáu chính là Hạo Dương Chân Quân, Toàn Chân Trưởng Giáo.
Ngoài ra còn có vài nhân vật danh tiếng khác như: Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ, Đàm Vân Tử, Bang Chủ Kỳ Lân Bang Giả Bạch Hồ.
Quần hào vô cùng phấn khởi khi thấy Thần Phủ Lang Quân đã sớm có mặt. Họ rất thắc mắc khi thấy chàng mang trường kiếm chứ không dùng búa.
Đầu giờ Tý, đoàn nhân mã đông hơn trăm của Hạo Thiên Cung xuất hiện. Đi đầu là cỗ xe song mã sang trọng của Lăng Cung chủ, theo sau là cỗ xe tù kiên cố, thùng được bọc đồng lá rất dầy.
Quần hùng đang đứng ở đoạn cuối thung lũng đá, giữa hai ngọn núi cực Bắc, vây lấy bờ vực thẳm. Họ liến dàn ra để hai cỗ xe của Hạo Thiên Cung tiến vào đấu trường. Lực lượng đệ tử Hạo Thiên Cung đã ở lại vòng ngoài, lập phòng tuyến sau lưng mọi người, đề phòng Tư Đồ Sảng đào tẩu.
Lăng Song Tường xuống xe chỉ mặt Tư Đồ Sảng mà rít lên the thé:
- Tư Đồ tiểu tặc! Hôm nay lão thân quyết lấy đầu ngươi mà tế mộ Trạch nhi!
Tư Đồ Sảng bình thản đáp:
- Tại hạ sẵn sàng phụng hầu nhưng trước hết xin Cung chủ hãy phóng thích hai con tin ra!
Hắc Bì Cái, Bang Chủ Cái Bang lên tiếng tán thành:
- Đúng vậy! Nay Tư Đồ thiếu hiệp đã chấp nhận phó hội, cung chủ không thể lưu giữ tù binh thêm nữa!
Lăng Song Tường cười nhạt:
- Lão thân chỉ cần cái mạng chó của Tư Đồ tiểu tử, tất nhiên sẽ thả con tin!
Nói xong, mụ ta lệnh cho hai gã đệ tử mở thùng xe, đưa Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương xuống!
Tư Đồ Sảng bước đến nhận người thân, thấy da dẻ họ lành lặn, không có dấu vết tra tấn nhưng đều mê man cả!
Chàng cau mày hỏi:
- Chẳng hay Cung chủ đã giở thủ đoạn gì trên người họ?
Lăng Song Tường mỉm cười ngạo nghễ:
- Lão thân sợ chúng đau lòng trước cài chết của ngươi nên cho ngửi một ít Mê Hồn Tán! Chì hơn canh giờ nữa là chúng sẽ tỉnh lại thôi!
Tư Đồ Sảng nắm cổ tay họ thăm do kinh mạch, hiểu rằng mụ đã nói thực. Chàng đứng lên vẫy và trong đám đông có hai người bước ra bồng Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương mang đi. Họ đưa thẳng hai nạn nhân rời Đại Hồ Sơn!
Trong lúc ấy, Lăng Song Tường nhận thấy sự có mặt của cả Hội đồng võ lâm, liền đến chào hỏi. Mụ cố giữ vẻ thản nhiên khi đối diện Hạo Dương Chân Quân, giả như mình chưa hề kéo quân lên càn quét núi Chung Nam vậy!
Hạo Dương Chân Quân cũng tỉnh bơ, không để lộ chút hận thù nào cả!
Lăng Song Tường nghĩ thầm:
- Hội đồng võ lâm đều có mặt, chứng tỏ các phái Bạch Đạo rất yêu mến gã Tư Đồ Sảng! Ta phải giết gã một cách đường chính thì sau này mới mong thu phục được họ!
Vì chủ ý này mà Lăng Song Tường đã dễ dãi tán thành, khi Giám Tuệ Thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm đề nghị giới hạn thời gian tỷ đấu là nửa canh giờ! Nếu sau thời gian đó, Lăng Song Tường không giết được Tư Đổ Sảng thì sang năm sẽ tái đấu!
Nửa canh giờ là bốn khắc, một khoảng thời gian rất dài và mụ tự tin rằng mình sẽ đắc thủ sớm hơn nhiều!
Song phương tiến ra bờ vực, đứng cách nhau hai trượng, chuẩn bị rút gươm. Nhưng Hạo Dương Chân Quân đã lên tiếng:
- Khoan đã! Bần đạo có việc gấp cần phải đi nên không thể nán lại đến khi trận đấu kết thúc? Vì thế, bần đạo xin tặng Tư Đồ thí chủ viên Nhất Dương Thần Châu này?
Dứt lời, ông bước đến, móc hộp gỗ trong tay áo, lấy ra một viên ngọc đỏ như máu, tỏa sắc hồng rực rỡ dưới ánh dương quanh. Quần hùng nhốn nháo hỏi nhau, không hiểu mục đích của Toàn Chân Trưởng Giáo!
Hạo Dương nghiêm nghị nói với Tư Đồ Sảng:
- Bổn giáo từng chịu ơn tương trợ của lệnh sư là Ly Giang Tiên Ông nên tặng thí chủ vật mọn này! Nếu thí chủ chẳng may bị đánh rơi uống vực thẳm này thì Nhất Dương Thần Châu sẽ giữ cho di thể của thí chủ không rữa nát và sâu bọ chẳng dám làm hại! Bần đạo chẳng thể cứu mạng thí chủ đành tỏ chút lòng thành thế thôi!
Dứt lời, ông đưa viên Nhất Dương Thần Châu lên miệng Tư Đồ Sảng, bảo chàng nuốt. Và ông hạ giọng nói rất nhanh:
- Thí chủ hãy đứng sát mép vực!
Chân Quân dùng ống tay áo lau nước mắt rồi vẫy gọi bọn đạo sĩ trẻ rời đấu trường.
Lăng Song Tường vui mừng khôn xiết không ngờ lại thu được món hời. Mụ giết xong Tư Đồ Sảng sẽ mổ bụng đoạt lấy viên Nhất Dương Thần Châu, hoàn thành tuyệt kỹ Lô Hỏa Thần Chỉ!
Mụ phấn khởi nói:
- Tư Đồ Sảng! Ngươi là hậu bối nên có quyền ra tay trước!
Mộc Chân Nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn đã đốt xong cây thời hương, cao giọng bảo:
- Mời Tư Đồ thí chủ xuất thủ!
Tư Đồ Sảng chỉ mong cầu hòa nên thận trọng lướt đến, xuất chiêu Thu Phong Phất Liễu, đường gươm nhẹ nhàng, kiếm ý hiền hòa!
Cung chủ Hạo Thiên Cung cũng không vội dở tuyệt học Lô Hoả Thần Chỉ, vung kiếm chống đỡ và phản kích lại bằng tám thức điểm thần tốc!
Khác với lần thượng đài tranh chức Minh chủ, hôm nay Lăng Song Tường toàn thân bạch y như để tỏ lòng tang tóc với đứa con trai vừa lìa đời! Phần Tư Đồ đảng thì mặc võ phục xanh thẫm viền đen, không áo choàng lưng. Trong trận tử đấu quyết liệt, áo choàng là vật dư thừa, làm vướng víu đường gươm. Chỉ có những chàng trai trẻ, những cô chiêu tập tễnh bước giang hồ mới dùng áo choàng lưng để làm tăng vẻ duyên dáng khi giao đấu!
Tư Đồ Sảng cũng còn rất trẻ song luôn phải chạm mặt những đối thủ có bản lãnh cao cường nên quí trọng sinh mạng hơn vẻ hào nhoáng!
Giờ đây, chàng hòa làm một với Từ Tâm Kiếm, ra đòn như bão táp mưa sa, chiêu nối chiêu không dứt, biến hóa tuyệt luân, khiến cho Lăng Song Tường phải hoang mang. Bà ta tưởng rằng sau mấy chục năm nghiên cứu lộ số Huyền Nguyên Kiếm Pháp, bà sẽ chiếm được ưu thế! Nào ngờ, Tư Đồ Sảng dường như tinh thông đến mấy pho tuyệt học, phối hợp cực kỳ nhuần nhuyễn, chẳng hề bị gò bó bởi sự khác biệt nguồn gốc, kiếm ý!
Lăng Song Tường giận dữ vì bị đẩy lùi, dồn thêm chân khí vào tay hữu, ỷ vào lực đạo mà áp đảo chàng trai non trẻ kia!
Tiếc rằng Tư Đồ Sảng thần lực thiên sanh, cánh tay cuồn cuộn bắp thịt rắn chắc nên đường gươm vô cùng dũng mãnh, chẳng hề kém sức đối phương. Chàng thản nhiên đọ kiếm và tiếp tục đẩy lùi kẻ địch bằng những nhát đâm nhanh như thiểm điện. Trong thời gian ba cái nhớp mắt, Tư Đồ Sảng có thể phóng ra đủ ba thức kiếm để uy hiếp thân trên của Lăng Song Tường. Phép khoái kiếm thượng thừa này đã khiến mụ ta phải mấy lần bở vía!
Tiếng reo hò tán tụng Tư Đồ Sảng của quần hùng đã làm cho Lăng Cung chủ điên tiết. Mụ nghiến răng dồn thêm sức vào chiêu kiếm, đồng thời lắc bàn tay xạ ngay một đạo Lô Hoả Chỉ Lực vào bụng dưới Tư Đồ Sảng.
Đấy cũng là một lợi thế của Lăng Song Tường, Tư Đồ Sảng chẳng bao giờ dám đâm vào vị trí ấy của một nữ nhân! Chàng đành thi triển Truy Tinh Thần Bộ mà lùi mau!
Lăng Song Tường thừa thế xông lên, phối hợp kiếm chỉ tấn công ồ ạt, khiến Tư Đồ Sảng phải liên tục thoái bộ hoặc né tránh sau khi chạm kiểm.
Cuối cùng thì chàng chỉ còn cách mép vực thẳm vài bước. Nhưng đúng lúc ấy, Lăng Song Tường chợt thức ngộ ra rằng nếu mụ đẩy chàng rơi xuống vực thẳm thì sẽ mất toi viên Nhất Dương Thần Châu. Vực này không sâu dưới trăm trượng, hơi nước mịt mù, tiết trời mùa thu, mưa gió liên miên chẳng ai đủ can đảm đong đưa trên dây chão mà xuống vực! Hoặc giả mụ có xuống được đến nơi thì cũng phải mất cả ngày và lúc ấy viên Nhất Dương Thần Châu cũng bị hòa tan trong dạ dày Tư Đồ Sảng rồi.
Bây giờ, Lăng Song Tường mới hiểu được thâm ý của Hạo Dương Chân Quân. Mụ thầm nguyền rủa lão đạo sĩ Toàn Chân chết bằm kia song vẫn phải giảm bớt cường độ công kích và lướt xéo dần đến vị trí gần cạnh bờ vực, trong tư thế đối diện với Tư Đồ Sảng.
Lăng Song Tường dùng Lô Hoả Thần Chỉ ở tả thủ tấn công vào mé hữu đối phương, ép chàng phải xa dần hiểm địa.
Quả nhiên, hàng loạt đạo chỉ kình nóng rực đã bắt buộc Tư Đồ Sảng lùi xa mép vực. Nhưng Lăng Song Tường lại quên một điều rằng mụ đang đặt mình vào đất chết, vì chỉ cách hố sâu thăm thẩm kia nửa trượng.
Trong cuộc tử chiến giữa hai đại cao thủ, chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến sự bại vong. Nay Lăng Song Tường bị viên Nhất Dương ThầnChâu lâm cho mê muội nên đã mắc phải sai lầm chết người!
Tư Đồ Sảng vì bản năng sinh tồn mà không bỏ qua cơ hội ngàn vàng này. Chàng lập tức dồn toàn lực, xuất chiêu Thượng Thiên Nhược Thủy. Kiếm kình cuồn cuộn như sóng dữ Hoàng Hà hung hãn chụp lấy đối phương.
Lăng Song Tường kinh hãi vội xạ liền một đạo chỉ phong ác liệt để chặn bước địch thủ. Ngờ đâu, Tư Đồ Sảng thản nhiên xòe bàn tay tả che chắn tử huyệt Nhũ Trung trên ngực trái và tiếp tục xấn đến.
Đạo chỉ kình ấy đã đốt cháy lòng bàn tay chàng nhưng không xuyên qua nổi. Lúc này, Lăng Song Tường đã đánh hơi được cái chết vì không thể nhẩy lùi để rơi xuống vực, tả hữu thì mịt mờ hơi thép lạnh, vô phương né tránh. Mụ chỉ còn cắn răng múa gươm chống đỡ làn sóng kiếm kình âm nhu nhưng vô cùng đáng sợ kia.
Đúng như tên gọi của chiêu thức, mũi kiếm Từ Tâm như nước âm thầm len qua chỗ sơ hở, đâm thủng huyệt Liêm Truyền trên cổ họng Lăng Song Tường, cắt đứt cả khí quản lẫn thực quản của bà ta.
Cung chủ Hạo Thiên Cung rú lên ằng ặc, mắt trợn trừng, miệng há hốc vì máu trào vào khí quản gây nghẹt thở. Bà quỵ xuống nằm dẫy dụa trên bờ vực thẳm.
Quần hùng ngớ người ra trước diễn biến thần kỳ và bất ngờ này, lát sau mới thức tỉnh, reo hò như sấm dậy. Kẻ lớn họng nhất chính là gần hai trăm thủ hạ của họ Tư Đồ. Những người trước kia từng phục vụ Tư Đồ Xán. Tất nhiên, đệ tử các phái Bạch Đạo cũng hết sức vui mừng, rống lên hoan hô Tư Đồ Sảng.
Nhưng bản thân kẻ chiến thắng lại chẳng hề vui. Chàng bùi ngùi tra kiếm vào vỏ, đứng lặng người nhìn cái xác đang co giật. Chàng đã giết cả hai mẹ con họ dù song phương vốn chẳng hận thù sâu nặng. Tư Đồ Sảng đắm chìm trong cảm giác hối hận và bất nhẫn, tai ù lên vì những tiếng hò reo.
Chàng ngỡ ngàng khi nghe giọng ai gấp gáp vang lên:
- Sảng nhi coi chừng!
Chàng quay lại thì thấy người áo xanh bịt mặt đã từng giết Tư Đồ Xán để đoạt quyển Bát Nhã Chân Kinh. Lão chỉ còn cách chàng một trượng và ập đến vung song chưởng tấn công. Hai đạo chưởng kình màu trắng đục thổi đến như bão tố. Tư Đồ Sảng không còn cơ hội để né tránh đành cử song thủ đón hai đốm chưởng ảnh độc ác ấy và thân hình chàng văng ngược về phía sau, rơi xuống vực thẳm.
Thanh y nhân cười ha hả rồi xông ngược ra, song thủ liên tiếp giáng những chưởng sấm sét để mở đường máu.
Quần hào kinh hãi chạy tán loạn, làm vướng chân cả những thủ hạ của Tư Đồ Sảng. Trong chớp mắt, lãoThanh y bịt mặt đã thoát khỏi vòng người, lướt về phía Nam thung lũng.
Thiên Sư Giáo Chủ Trương Hàn Vũ cùng các chưởng môn đã đến bên bờ vực nhỏ lệ khóc thương cho chàng trai bạc mệnh. Còn có một lão nhân lạ mặt nữa đứng gần đấy. Ông ta ứa nước mắt và lẩm bẩm:
- Sảng nhi! Can gia sẽ sớm đưa xác con lên thôi! Và Can gia thề sẽ lóc từng miếng thịt của lão áo xanh khốn kiếp ấy ra!
Nói xong, lão bỏ đi, kéo theo bọn kiếm thủ nhà Tư Đồ!o0o Chắc chắn là chàng trai thân yêu của chúng ta không thể thoát chết và không còn ai thèm đọc truyện kiếm hiệp nữa. Vậy thì Tư Đồ Sảng thoát chết bằng cách nào khi vực thẳm sâu đến trăm trượng? Hơn nữa, chàng đã thọ thương khi đỡ hai phát chưởng kinh hồn kia. Cổ tay chàng bị trật khớp, khí huyết nghịch hành khiến đầu óc mê man nên bất động, gieo mình thẳng xuống vực!
Nhưng không ai biết rằng suốt một khoảng đáy vực dài hai chục trượng, rộng tám trượng, ngay phía dưới đoạn bờ vực đấu trường, ai đó đã trải sẵn một lớp cỏ và cành non dầy đến hơn trượng. Quanh tấm nệm khổng lồ này có hàng rào gỗ rất chắc chắn để người ta có thể ném cỏ lá xuống và đạt được độ dầy như ý.
Kiệt tác kỳ lạ này không phải của loài người mà là của hàng ngàn con chồn, cáo đủ kích cỡ, mầu lông. Chúng đứng đầy quanh mép tấm thảm mà chờ đợi. Khi cơ thể Tư Sảng rơi xuống đúng vào mảnh nệm êm ái thì lũ chồn rít lên mừng rỡ rồi tung tăng bỏ chạy vào những chiếc hang quanh đáy vực!
Thân hình nạn nhân dội ngược lên nửa trượng rồi rớt lại, nằm lún trong lớp cỏ và lá cây.
Nửa canh giờ sau Tư Đồ Sảng hồi tỉnh. Chàng đang nằm ngữa nên khi mở mắt là nhìn lên miệng vực. Khoảng không gian ấy mờ mờ, ảo ảo, chẳng có gì là giống nơi dương thế cả. Tư Đồ Sảng thở dài, đoán rằng mình đã xuống cõi âm ty.
Nhưng đôi tai chàng dần dần nghe được tiếng thác đổ ầm ầm, liền liếc quanh rồi ngồi lên. Chàng sửng sốt nhận ra mình đang ngồi trên một thảm lá rất rộng và êm ái. Tư Đồ Sảng lờ mờ hiểu ra mình còn sống nhờ tấm nệm này. Chàng dùng hai chân kẹp chặt bàn tay hữu rồi sửa cho xương khớp về đúng chỗ. Cảm giác đau đớn khiến chàng càng tin rằng mình chưa chết. Chàng sửa luôn tay tả bị phỏng rồi đứng dậy bước đi. Chàng lảo đảo vì độ lún của lớp thực vật mềm mại.
Đến bìa tấm nệm khổng lồ này, chàng nhìn thấy hàng rào và thức ngộ rằng có người đã khổ công tạo dựng nên để cứu mạng mình. Tư Đồ Sảng bâng khuâng tự hỏi rằng ai là người đã xuống được vực sâu trăm trượng này?
Nghe cổ họng khô vì khát, chàng nhẩy xuống đất tiến về những giòng thác nơi đáy vực hướng Bắc. Càng đến gần Tư Đồ Sảng càng cảm thấy thư thái bởi không khí trong lành. Chàng đã từng được thân phụ dạy rằng rừng và thác nước là nơi khí trời trong sạch nhất.
Đi được quá nửa chiều rộng Bắc Nam của đáy vực. Tư Đồ Sảng gặp một dòng suốt lớn nhưng chỉ sâu đến thắt lưng. Suối này tập trung nước của những giòng thác và đổ về hướng Đông. Chàng hồi hộp suy nghĩ:
- Biết đâu dòng suối này sẽ giúp ta thoát khỏi nơi đây!
Chàng liền uống vài ngụm nước rồi thi triển khinh công, lướt nhanh theo bờ Nam của suối. Thảm thực vật ở đáy vực rất phong phú song hầu hết là loài bụi thấp, cao chỉ độ đầu người. Hiện tại, nhiều bụi trơ trụi thân, vì cành lá đã bị vặt trụi để làm tấm nệm kia.
Không gian đáy vực khá sáng sủa chứ không tối om như người bên trên lầm tưởng, vì diện tích vực thẳm rất lớn. Hiện tượng này cũng giống như kẻ ở ngoài xa nhìn vào một gian phòng không cửa sổ. Kẻ ấy sẽ không thấy gì nhưng người bên trong thì hoàn toàn nhìn rõ cảnh trí nhờ ánh sáng tán quang từ cửa thính. Nhưng dĩ nhiên là bóng đêm sẽ phủ đáy vực sớm hơn bên trên hàng canh giờ.
Trên đường đi, Tư Đồ Sảng gặp khá nhiều chồn cáo. Chúng thản nhiên chạy nhảy, đùa giỡn, chẳng hề tỏ vẻ sợ hãi.
Cuối cùng, chàng cũng đến được vách vực hướng Đông, thất vọng nhận ra dòng suối đổ vào một động khẩu thấp sát chân vách vực, mặt nước dâng cao hơn mép trên của cửa thoát. Nghĩa là chẳng còn khoảng nào để chàng ngoi đầu lên đổi hơi cả.
Niềm an ủi duy nhất của chàng là bầy cá đông đúc tập trung ở đây. Mặt nước tại cửa suối phình rộng ra thành một chiếc ao, đường kính rộng độ ba bốn trượng, và dưới đáy là hàng trăm con cá to béo, chắc phải nặng hơn chục cân.
Loài cá này có mầu xám, đầu cá giẹp bằng, mình giẹp bên, có những u thịt nhỏ mầu vàng, miệng cá lớn, trang bị hai hàm răng sắc nhỏ đáng sợ và bốn cặp râu rất oai vệ. Vây lưng của chúng có một gai cứng tròn, còn vây ngực có gai răng cưa.
Tư Đồ Sảng ngạc nhiên nhận ra loài cá chiên ở phía Nam sông Trường Giang. Chứng là loài cá dữ, chuyên ăn thịt những con cá nhỏ hơn, thường sống ở tầng đáy nơi nước chảy như sông, suối, thác và chẳng thèm cư ngụ chốn ao tù, đồng ruộng.
Thịt của cá chiên rất ngon, Tư Đồ Sảng từng được ăn hồi đến Trường Sa truy tìm Quỉ Ảnh Hội. Chàng không ngờ rằng ở tận vùng Hoa Bắc này cũng có loài cá ấy.
Và chàng càng kinh ngạc hơn khi thấy từ trong động khẩu cửa suối có một con cá chiên toàn thân vàng óng như Hoàng Kim ngược dòng bơi ra, trông nó thật đường bệ, oai nghiêm.
Tư Đồ Sảng thích thú ngồi xuống bờ ao ngắm nghía con vật kỳ lạ và xinh đẹp. Và đúng lúc này, khứu giác của chàng bắt được mùi cá nướng thơm phưng phức theo gió bay đến.
Chàng vui mừng khôn xiết, đoán rằng đầu bếp chính là kẻ đã làm tấm nệm kia để cứu mình. Tư Đồ Sảng theo mùi cá nướng mà rảo bước đi về hướng Nam. Cuối cùng, chàng nhin thấy ánh lửa bập bùng trong một cửa hang rộng rãi. Và dường như bên đống lửa có một người áo trắng, tóc xõa dài, đang ngồi nướng cá.
Chàng phấn khởi lao vút đến, sững sờ nghe giọng ôn nhu:
- Tướng công vào đi! Trời sắp mưa lớn rồi đấy!
Và người ấy đứng lên, nhìn chàng mà cười rất tươi, để lộ hàm răng có chiếc khập khểnh rất duyên dáng. Tư Đồ Sảng mừng như điên dại, lướt đến ôm nàng mà nghẹn ngào:
- Nương tử! Sao nàng lại ở đây, còn Hồng muội đâu?
Phi Tuyết không phúc đáp mà cười khúc khích rồi cựa quậy:
- Tướng công mau buông thiếp ra, tay thiếp đang tanh mùi cá!
Tư Đồ Sảng chẳng thèm nghe, hôn lên mắt môi nàng vài chục lần rồi mới chịu nới lỏng vòng tay.
Lúc này, ngoài trời đổ mưa dữ dội, sấm sét liên hồi, nước chảy thành rèm trước cửa hang.
Phi Tuyết tủm tỉm bảo:
- Tướng công ra tắm gội đi! Chàng hôi quá!
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng gật đầu và hỏi:
- Ở đây ngoài nàng ra còn có ai nữa không?
Phi Tuyết phì cười:
- Tướng công cứ yên tâm Chẳng ai nhìn trộm chàng đâu!
Rồi nàng bước đến dịu dàng cởi bỏ hết y phục của Tư Đồ Sảng, không chừa một mảnh và bảo:
- Tướng công hãy tự giặt lấy vì thiếp không thể ra ngoài được.
Tư Đồ Sảng biết nàng sợ sấm sét, liền vơ lấy y phục chạy ra ngoài tắm táp và giặt giũ.
Chỉ nửa khắc sau chàng đã chạy vào hang, đưa bộ đồ ướt cho Phi Tuyết mang đi phơi trên những mỏm đá lồi ở vách động. Ngược lại, nàng trao cho chàng tấm khăn lớn để lau người và một chiếc quần của nữ nhân.
Tư Đồ Sảng ngán ngẩm mặc vào, Phi Tuyết ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Nàng thúc giục trượng phu cùng ăn món cá nướng. Tư Đồ Sảng đói meo nên chén sạch gần hết con cá chiên nặng bẩy tám cân.
Trong động chẳng giường chõng, tủ bàn gì cả, chỉ có một thớt đá bằng phẳng cao độ bốn gang, đủ chỗ cho hai người nằm. Rửa tay, xúc miệng xong, Tư Đồ Sảng bồng Phi Tuyết đến ngồi trên thớt đá và buồn rầu hỏi:
- Tuyết muội! Thân hình nàng luôn ấm nóng, chẳng hề lạnh lẽo như hồn ma bóng quế, khiến ta không hiểu nàng còn sống hay đã thác! Và vì sao nàng và Hồng muội chẳng bao giờ xuất hiện cùng một lúc? Nàng hãy giải thích rõ nguồn cơn, nếu không ta sẽ phát điên lên mất!
Nữ nhân cười khúc khích:
- Tướng công thử nhìn lại xem thiếp là ai?
Tư Đồ Sảng cúi xuống thì nhận ra hàm răng trắng đều như bắp và những nét thùy mị của Phi Hồng! Chàng đã từng gặp cảnh ngộ này trong mơ nên không hề sợ hãi, lắc đầu bảo:
- Ta vẫn chưa hiểu!
Phi Hồng rướn lên hôn chàng rồi thỏ thẻ:
- Thực ra, thiếp chẳng phải Phi Tuyết hay Phi Hồng mà là Bạch Phụng, con chồn trắng chàng đã cứu mạng mùa thu năm ngoái. Thiếp tu luyện đã mấy trăm năm, được phong chức Hồ Ly Tổng Tuần, quản lý chồn cáo toàn vùng Hoa Bắc! Hôm ấy, thiếp đến vùng sông Chương Hà thị sát thì bị mắc bẫy!
Nhớ ơn sâu của chàng nên thiếp đã cứu Phi Tuyết, Phi Hồng khỏi tai họa! Nhưng do họ đã tận số nên thiếp chỉ cứu được thân xác và phần phách, còn hồn phải giao lại cho Diêm quĩ!
Hiện nay, hai người ấy đang ở trong Linh Hồ Động, trên núi Thanh Sơn, cách Lạc Dương vài dặm về hướng Tây, được gia phụ và gia mẫu chăm sóc!
Đêm rằm tháng bẩy vừa rồi, nhân dịp các vong hồn được phép rời âm phủ để về nhà hưởng sự cúng tế, thiếp đã thu hồn của hai nàng ấy đem về Động.
Nhưng cần phải có Đảo Mệnh Linh Kỳ và nghi lễ trai đàn cúng tế thì hồn kia mới nhập vào xác được! Nghĩa là sự hồi sinh của Phi Tuyết, Phi Hồng còn phụ thuộc vào âm đức của tướng công.
Tư Đồ Sảng ngơ ngẩn, bàng hoàng trước câu chuyện hoang đường ma mị, có cả hồn ma lẫn chồn tinh. Nhưng hy vọng gặp lại hai người vợ dấu yêu đã khiến chàng nghĩ rằng nên tin tưởng hơn là nghi hoặc! Và chàng chợt nhớ đến hơn năm mươi cái xác hải tặc Phù Tang thì lòng buồn vô hạn. Chàng ngậm ngùi than:
- Ta là kẻ bàn tay tanh máu, hôm đầu tháng bẩy đã giết chết năm sáu chục gã cướp biển người Phù Tang, âm đức đâu mà động đến lòng trời!
Ả chồn tinh Bạch Phụng thở dài và run giọng:
- Tướng công yên tâm! Cùng cực lắm, thiếp sẽ vì chàng mà hy sinh mấy trăm năm đạo hạnh, nhập hồn cho Phi Tuyết, Phi Hồng! Thiếp đã lỡ yêu thương tướng công nên quyết không để cho chàng phải khổ đau?
Mối chân tình của Bạch Phụng khiến Tư Đồ Sảng cảm kích tận đáy lòng! Chàng trầm ngâm bảo:
- Nàng không được làm như thế! Ta sẵn sàng chờ đợi thêm vài năm nữa và cố vun trồng quả phúc, tất sẽ có ngày Hoàng thiên chứng giám!
Rồi chàng xiết chặt thân hình Bạch Phụng và dịu giọng hỏi:
- Đến lúc ấy, nàng sẽ về sống với ta chứ?
Bạch Phụng sung sướng liếc chàng say đắm và hỏi lại:
- Tướng công không chê thiếp là chồn tinh sao?
Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
- Hồ ly mà chí tình chí nghĩa như nàng thì còn hơn rất nhiều nữ nhân trong thiên hạ.
Chàng cúi xuống định hôn nàng thì phát hiện một gương mặt hao hao giống Bạch Ly! Đây chính là dung nhan mà chàng từng gặp trong cơn mê nên chàng chẳng hề thấy xa lạ, cứ hôn tràn!
Bạch Phụng thè lưỡi liếm chàng y như lúc còn mang xác chồn được chàng cứu mạng. Khi đến với nhau trong mơ, nàng cũng thường làm như vậy mà chàng không để ý!
Tạm yên lòng vì số phận hai ái thê, Tư Đồ Sảng càng bội phần yêu mến Bạch Phụng. Mùi hương da thịt bát ngát quen thuộc đã khiến chàng động tình. Chàng đặt Bạch Phụng xuống giường đá, lần cởi y phục nàng rồi háo hức vuốt ve làn da trắng nuốt, mịn màng và phơn phớt lông tơ!
Chàng thò tay xuống dưới đôi mông rắn chắn mà sờ thử rồi hiếu kỳ hỏi:
- Sao nàng không có đuôi?
Bạch Phụng bật cười rũ rượi, làm rung rinh đôi nhũ phong đầy đặn và giải thích:
- Thiếp nhờ gần gũi tướng công mà có được khí chất của loài người, khi hóa thân thì đuôi hoàn toàn biến mất!
Tư Đồ Sảng ngập ngừng hỏi tiếp:
- Thế sau này chúng ta có con thì hình dáng nó sẽ như thế nào?
Bạch Phụng mỉm cười khoe hàm răng hơi nhọn, lắc đầu đáp:
- Nếu không duyên tiền định, chồn và người chẳng nên kết hợp! Dẫu thiếp có yêu chàng cũng không dám cưỡng mệnh trời. Tướng công cứ xem đây như là giấc mộng hoang đường, khi nhớ đến thiếp thì thắp ba nén hương mà gọi tên và thiếp sẽ về cùng chàng tương hội!
Tư Đồ Sảng lộ sắc buồn:
- Chẳng lẽ chúng ta không duyên nợ thực sao?
Bạch Phụng cảm động nói:
- Thiếp cũng không biết nửa?
Rồi nàng khỏa lấp chuyện không vui ấy bằng môi hôn nồng cháy và những động tác vuốt ve dạn dĩ. Tư Đồ Sảng hiểu rằng có ưu tư mệnh trời cũng chỉ hoài công nên gác lại, và đưa mỹ nhân vào cuộc ái ân!
Ngoài hang mưa gió vẫn tơi bời chẳng dứt, trời tối đen như mực, nhưng trong hang, dưới ánh lửa bập bùng có đôi uyên ương đang quấn quít không rời!o0o Những trận mưa cứ dầm dề, ào ạt trút xuống lưu vực sông Hoàng Hà, mang theo cả giông gió, làm cho những người thân của Tư Đồ Sảng không sao thực hiện được ý định xuống đáy vực thẳm để nhặt xác chàng lên!
Tây Môn Giới đã mang lốt Hí Nhân Cư Sĩ, hợp cùng Thiên Sư Giáo Chủ và Trại Tôn Tử, túc trực ở thành Đăng Phong, chờ mưa tạnh để đến Đại Hồ Phong thu lượm di thể. Tây Môn Giới suốt ngày ngồi bên bầu rượu, luôn miệng chửi rủa lão trời già cay nghiệt đã cướp đi đứa con nuôi bảo bối của lão!
Tất nhiên, lão không quên đào mồ cuốc mả tên hung thủ áo xanh bịt mặt!
Đôi lúc Tây Môn Giới xuống nước, van lạy Hoàng thiên ngưng ngay trận mưa bão để lão đích thân xuống hố sâu nhặt xương nghĩa tử.
Viên Nhất Dương Thần Châu kia chỉ là một viên hồng ngọc bình thường, mang mục đích đánh lừa Lăng Song Tường. Do đó, chắc chắn giờ đây thi thể Tư Đồ Sảng đã rữa nát và không chừng xương cốt cũng bị chồn cáo tha đi tứ tán. Cái tên Đại Hồ Sơn đã chỉ ra rằng nơi ấy đông nhung nhúc Hồ ly.
Người đối ẩm với Tây Môn Giới chính là Huyết Báo Liễu Mộ Hào! Gã thương tâm đến nỗi hóa thành tượng gỗ, chẳng hề mở miệng nói năng, chỉ nốc ừng ực những bát rượu cay nồng!
Phần Mạc Chiêu Hương thì Tây Môn Giới đã phải liên tục đánh thuốc mê để nàng không quẫn trí mà chết theo chồng! Nàng luôn tự nhủ mình là nguyên nhân khiến trượng phu phải thác oan!
Sáu ngày sau, tức đầu hạ tuần tháng tám, cơn mưa bớt dữ dội hơn và có vẻ sắp tạnh. Mọi người khấp khởi mừng, bàn đến việc xuống vực. Nhưng ngay đêm ấy, Tây Môn Giới nằm mộng thấy Tư Đồ Sảng hiện về. Chàng nghiêm nghị nói:
- Can gia! Hài nhi xin người cố đợi đến sang năm hãy xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn. Trước mắt, xin can gia lập tức huy động nhân thủ thu mua thật nhiều lương thực rồi chở ngay xuống phương Nam để chẩn tế tai dân. Sông Hoài đã vỡ ở bờ Bắc, khiến mấy chục vạn lê dân phải lầm than! Can gia cứu họ chính là cứu hài nhi đấy!
Nói xong, Tử Đồ Sảng quỳ xuống lạy lão rồi biến mất. Tây Môn Giới ú ớ gọi vang:
- Sảng nhi! Sảng nhi!
Lão giật mình tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm! Lão bần thần suy nghĩ rất lâu rồi quyết định làm theo yêu cầu của vong linh nghĩa tử! Từ lâu rồi Tây Môn Giới đã biết Tư Đồ Sảng có ý nguyện bố thí và chẩn tế rộng rãi.
Mới đầu canh năm, Tây Môn Giới đã sang dựng Trương Thiên Sư và Trại Tôn Tử dậy. Nghe xong giấc chiêm bao, Hồ lão bấm độn rồi bảo:
- Đúng là họ Tư Đồ và họ Võ đều thiếu âm đức cả! Lão phu cho rằng việc chẩn tế là cần thiết và hợp đạo lý!
Ngay từ sáng hai mươi hai tháng tám, từng đoàn xe đông hàng chục chiếc lũ lượt xuôi Nam, đem lương thực thực phẩm, thuốc men, quần áo, chăn màn đến chẩn tế tai dân vùng phía Bắc sông Hoài, đoạn chảy qua phủ Hà Nam!
Ngoài lực lượng hai trăm kiếm thủ nhà Tư Đồ còn có cả đệ tử Thiên Sư Giáo, Cái Bang, Thiếu Lâm Tự.
Sự cứu tế kịp thời và đầy đủ ấy đã giúp hàng vạn người thoát chết trước cái đói và bệnh tật!
Vì việc này mà đại hội võ lâm bị hoãn lại đến ngày rằm tháng Mười!o0o Thế tại sao Tư Đồ Sảng không sớm trở lên mặt đất để cùng mọi người tham gia làm việc thiện! Lý do rất đơn giản là vì chàng không thể nào vượt nổi bức vách dựng ngược cao trăm trượng. Chàng phải chờ đợi lũ chồn khoét rộng một trong những lối đi của chúng lên cánh rừng phía Đông Đại Hồ Sơn! Đường hầm này đi xéo dần lên cao nên sẽ dài không dưới trăm rưởi trượng, tức gần một dặm!
Khi nghe Bạch Phụng trình bày kế hoạch cho chàng thoát khỏi vực sâu, Tư Đồ Sảng ngao ngán nói:
- Ta không sợ phải bò lê một dặm đường mà chi e chẳng đủ dưỡng khí. Hay là nàng biến ta thành chồn cho xong.
Bạch Phụng cười khanh khách bảo:
- Làm gì có loài chồn nào mà to như con trâu nước thế kia? Thiếp có cách rồi!
Bạch Phụng liền dẫn chàng đến cửa suối, nơi vách hướng đông, và chỉ vào con cá chiên vàng óng:
- Tướng công! Con cá này đã ba trăm năm tuổi, là kỳ trân chí bảo của đất trời, có thể giúp chàng tăng tiến vài thành hỏa hầu trong pho Khô Mộc Thần Công! Lúc ấy, chàng thừa sức bế khí mà vượt đường hầm nhỏ bé kia!
Tư Đồ Sảng mừng rỡ rút Từ Tâm Kiếm, rình thế mà đâm con cá chiên đại thọ, mang về thạch động.
Bạch Phụng không cho nướng mà bắt chàng phải ăn sống! Cá chiên khá tanh, Tư Đồ Sảng nhắm mắt, nhắm mũi mà cố ăn cho hết, chỉ chừa lại xương!
Sau đó, chàng lập tức tĩnh tọa, luân chuyển chân khí theo đường lối của Khô Mộc Tâm Pháp! Kỳ trân dần dần phát huy dược lực, hòa theo khí huyết tỏa vào kinh mạch. Sức nóng lan đi khắp cơ thể, qui tụ về đan điền rồi lại phân tán ra ba trăm sáu mươi mốt huyệt, trên mười bốn chính kinh, và hai trăm huyệt ngoài kinh (tức kinh ngoại kỳ huyệt).
Chân nguyên của Tư Đồ Sảng mỗi lúc thêm hùng hậu, lúc đầu còn cuồng loạn, cần phải dẫn dắt, sau ngoan ngoãn đi đúng đường lối một cách tự nhiên. Tư Đồ Sảng chìm dần vàơ trạng thái vong ngã, để mặc chân khí tự hành.
Sau một ngày một đêm, thần công viên mãn, Tư Đồ Sảng mở mắt và nhận ra Bạch Phụng đang quỳ trước mặt mình mà khóc lóc thảm thiết:
- Tướng công ơi! Thiếp đã hại chàng rồi! Thiếp xin tự sát để tạ tội với chàng!
Tư Đồ Sảng ngạc nhiên hỏi:
- Ta vẫn còn sống và thu hoạch lợi ích rất lớn, sao nàng lại phải tự trách mình!
Bạch Phụng vẫn nức nở:
- Thiếp vì ngu muội, thiếu kiến thức nên đã không biết đến tác dụng phụ của Kim Ngư. Giờ đây, tướng công đã đánh mất tuổi xuân rồi!
Tư Đồ Sảng kinh hãi nhìn xuống đôi bàn tay, nhận ra da dẻ nhăn nheo như kẻ đã sáu bẩy mươi vậy. Chàng đứng bật dậy, bước ra soi mặt trong vũng nước đọng trước cửa hang, thấy râu tóc đã bạc phau, trán hằn luống suy tư, đuôi mắt có mấy nếp nhăn tựa chân chim!
Chàng chưa kịp buồn phiền thì nghe Bạch Phụng nghẹn ngào:
- Thiếp xin hẹn tướng công kiếp lai sinh!
Dứt lời, nàng rút thanh Từ Tâm Kiếm ra khỏi vỏ, đưa lên cứa cổ. Tư Đồ Sảng hồn phi phách tán, dồn hết sức lực vào song cước, nhẩy vèo đến đoạt kiếm quăng xuống đất và vỗ về Bạch Phụng. Chàng nghiêm nghị bảo:
- Nàng chê ta già xấu, định chết đi để khỏi lấy ta ư?
Bạch Phụng sững người, bối rối biện bạch:
- Thiếp nào phải hạng người tham sắc, chẳng qua vì quá hối hận đấy thôi! Dù tướng công có biến thành quái vật thì thiếp vẫn một lòng yêu kính.
Tư Đồ Sảng đã bình tâm lại, điềm đạm hỏi:
- Phụng muội! Dung mạo ta già đi nhưng tuổi thọ có giảm theo không?
Bạch Phụng ngượng nghịu đáp:
- Đêm qua, khi phát hiện tướng công bị da nhăn, tóc bạc, thiếp đã về Linh Hồ động thỉnh ý gia phụ. Người mắng cho thiếp một trận và bảo rằng rằng chàng sẽ không già đi thêm và sống rất thọ. Người còn bảo thiếp rằng Thiên Niên Hà Thủ Ô có thể làm mất hiện tượng lão hóa này.
Tư Đồ Sảng mỉm cười:
-Tốt lắm! Nếu các nàng chẳng chê bỏ ta thì dung mạo không còn là điều quan trọng. Việc tìm được Thiên Niên Hà Thủ Ô cũng chẳng cần thiết lắm.
Chàng cúi xuống hôn Bạch Phụng đắm đuối để chứng tỏ mình không hề phiền muộn. Bạch Phụng sung sướng nói:
- Tướng công quả là bậc Chân Nhân thông đạt khiến thiếp vô cùng kính phục!
Tư Đồ Sảng cười khà khà:
- Ta mà tu chắc ngàn kiếp cũng chẳng thể thành tiên được! Chân Nhân gì mà ba bốn vợ, lại mê ả Hồ Ly Tinh nữa!
Dược tính mãnh liệt của Kim Ngư đã làm cho lửa dục trong người Tư Đồ Sảng rất vượng. Chàng nghe lòng cháy bỏng khát khao liền bồng Bạch Phụng lên thạch sàng.
Chàng dũng mãnh hơn thường lệ khiến thân hình nõn nà của Bạch Phụng phải run lên từng hồi, mười ngón tay sắc nhọn gẫy sạch khi cắm vào tấm lưng cường tráng của tình quân. Tiếng rên rỉ ngợi ca hoan lạc của nàng làm lũ chồn bên ngoài hang rít lên chế giễu.
← Hồi 13 | Hồi 15 → |
< Xem thêm truyện hay, đặc sắc khác