Vay nóng Homecredit

Truyện:Tranh bá thiên hạ - Hồi 0170

Tranh bá thiên hạ
Trọn bộ 1228 hồi
Hồi 0170: Trận đánh đầu tiên
0.00
(0 lượt)


Hồi (1-1228)

Siêu sale Lazada

Các trạm gác ngầm của Mông Nguyên trên núi Lang Nhũ bị quân Tuỳ thanh lý sạch sẽ, quân đội Đại Tuỳ lập tức xuất phát từ thành Phan Cố. Và sở dĩ phía tây dãy núi Lang Nhũ có thành Niết Bàn, còn phía đông dãy núi thì có thành Phan Cố, là vì dãy núi Lang Nhũ kéo dài cả ngàn dặm chỉ có một hạp cốc dưới này có thể thông hành. Cho nên, Mông Nguyên và Đại Tuỳ không hẹn mà đều đặt biên thành ở hai bên hạp cốc này.

Năm xưa Đại Hán Mông Nguyên, Khoát Khắc Đài Mông Ca, và Thiên Hữu Hoàng Đế của Đại Tuỳ, Dương Dịch, gặp nhau ngay tại nơi rộng nhất ở chính giữa hạp cốc này. Địa thế ở đây cực dễ mai phục. Năm xưa khi Hoàng Đế và Mông Ca chọn đây làm nơi gặp mặt, tất cả triều thần đều phản đối, sợ rằng người Mông Nguyên mai phục.

Lúc đó, Hoàng Đế bệ hạ của Đại Tuỳ chỉ cười nhẹ và nói:

- Các ngươi lo người Mông Nguyên mai phục, vậy người Mông Nguyên làm sao mà không lo chúng ta sẽ xuất binh? Nếu đã đều lo lắng, đều e sợ, đều đề phòng, ngược lại là an toàn nhất. Trẫm cứ yêu cầu gặp Mông Ca ở đó, để xem Mông Ca có gan đến không.

Hoàng đế Đại Tuỳ dám đến, Đại Hán Mông Nguyên sao mà không dám? Mặc dù các vị cao quan của Mông Nguyên lúc đó như Ai Cần, Đặc Cần đều khuyên ngăn Mông Ca, nhưng y dùng lí do gần như giống hệt với Hoàng đế Đại Tuỳ từ chối ý tốt của thần tử.

Hơn trăm năm nay, đây là cuộc hội mặt lần thứ hai của lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước. Lần đầu tiên là khi Đại Hán Mông nguyên và Thái Tổ Hoàng Đế Đại Tuỳ kí Hiệp ước ngừng chiến, xác định biên cương hai nước.

Cho nên, lần hội đàm này, đôi bên đều rất xem trọng. Ai cũng không muốn mất tôn nghiêm, đương nhiên cũng không muốn thiếu lễ nghĩa. Tuy rằng người Mông Nguyên không có quá nhiều điều phức tạp về lễ nghĩa, nhưng một đế quốc có lịch sự nghìn năm đương nhiên cũng hình thành bộ lễ nghĩa đặc thù của riêng họ. Nói một cách đơn giản dễ hiểu chính là mặt mũi, danh dự, không thể tỏ ra quá keo kiệt trước mặt đối phương được.

Ngày hôm đó, lãnh đạo song phương chỉ đem theo hơn trăm tuỳ tùng đến Thanh Hạp gặp mặt. Đi theo Hoàng Đế Đại Tuỳ là chỉ huy Sở Đại Nội thị vệ La Uý Nhiên, và sứ trấn phủ Tình nha Hầu Văn Cực, Đại Tướng quân Ngu Mãn Lầu suất tám mươi giáp sĩ đi theo. Văn quan thì do Lễ bộ Thượng thư Hoài Thu Công dẫn đầu, còn có hai vị đại học sĩ của Văn Uyên Các và Thư Hoa Các.

Bên Mông Nguyên, hộ vệ của Mông Ca là tám mươi vị võ sĩ Kim Trướng, đệ đệ của Mông Ca – Đặc cần Khoát Khắc Đài Mông Liệt đích thân giơ dù cho ca ca mình, hai người hầu không rõ tên họ, một vị tăng nhân thân mặc tăng y màu xám bên ngoài là áo cà sa màu đỏ, còn có Kỳ chủ mãn Đô Kỳ, Mãn Đô Lạp Đồ đi theo sau.

Song phương hội đàm tại Thanh Hạp này trong ba ngày liên tiếp. Đến sau cùng, không ngờ hai vị Đế Vương lại cùng nhau du ngoạn núi Lang Nhũ, cười nói vui vẻ, không thấy mảy may địch ý. Tuỳ tùng hai nước ở phía sau nhìn mà kinh ngạc đến nỗi há hốc mồm miệng. Nói ra, hai vị đế vương này lại có tính cách cực kì giống nhau, Mông Ca hiểu nhiều về điển cố người Hán, Dương Dịch cũng biết tường tận nhiều sự kiện ở Mông Nguyên. Hai vị đế vương đàm cổ luận kim, cùng đeo nón tre ngồi câu cá bên bờ hồ, thậm chí còn có cả ý định cưỡi ngựa tỉ thí tài bắn cung. Nếu không phải thần tử hai nước ngăn cản, chỉ sợ cả hai người sẽ tổ chức một buổi đi săn cũng không chừng.

Chỉ là không biết thứ được săn, sẽ là cái gì thôi.

Trước buổi gặp mặt này, ai cũng chưa từng nghĩ tới hai vị chí tôn tối cao từ khi sinh ra đã được định sẵn là kẻ địch của nhau, lại có thể ở chung với nhau hoà thuận như vậy, viên mãn như vậy, không một lần tranh cãi, mà giống như là hai người bạn lâu năm không gặp. Trong không khí vô cùng nhẹ nhõm như thế, Điều ước Mậu dịch được ký kết, chỉ định Phan Cố làm nơi giao thương của nhân dân hai nước. Địa điểm quyết định rồi, hai vị chí tôn không quan tâm tới nữa, giao cho đại thần hai nước, mặc cho họ tranh cãi gay gắt, không ngừng cò kè mặc cả.

Còn hai vị đó, muốn du sơn thì đi du sơn, hứng chí đi ngoạn thuỷ thì đi ngoạn thuỷ, bỏ lại mọi công việc cho thần tử của mình, trông có vẻ thư giãn thoải mái vô cùng.

Nhưng.

Sau khi hội đàm kết thúc, hai vị đế vương trở về nước, đều không hẹn mà cùng nhau hạ đạt một chỉ ý. Thiên Hữu Hoàng đế Dương Dịch hạ lệnh cho Đại Tướng quân Hữu Kiêu Vệ đang đóng quân tại tây bắc, Lý Viễn Sơn dời quân về phía tây một trăm năm mươi dặm, lại lệnh cho Đô đốc Sơn Đông Đạo gia tăng quân số của Quận binh. Đại Hán Mông Ca hạ lệnh cho kỳ chủ Mãn Đô Kỳ, Mãn Đô Lạp Đồ nhất định phải luôn duy trì năm vạn tinh binh có thể điều động ngay, lại lệnh cho Mãn Đô Lạp Đồ tuyển chọn tướng lĩnh thiện chiến nhất của Mãn Đô Kỳ tiếp thay vị trí tướng quân của Thành Niết Bàn, phòng thủ Thanh Hạp.

Chính vì hai người họ phát hiện, không ngờ đối phương lại có nhiều điểm giống mình đến thế, thông hiểu nhau là điều khó tránh, nhưng lòng kiêng dè kẻ địch vẫn mạnh hơn cả.

Các trạm gác ngầm của Mông Nguyên trên núi Lang Nhũ, lúc nào cũng giám sát Thanh Hạp, chỉ cần quân đội Đại Tuỳ tiến vào Thanh Hạp, họ sẽ lập tức đốt khói báo động (lang yên).

Lữ suất Hữu Kiêu Vệ, Hà Đại Tráng đem quân quét sạch thám báo người Mông Nguyên chỉ trong vòng một đêm. Tinh binh trăm người khi xuống núi, giờ chỉ còn lại sáu mươi bảy người.

Lúc trên núi, họ giấu thi thể của thám báo Mông Nguyên, sau đó vác lấy xác của đồng đội xuống núi. Đây là qui tắc lâu đời của quân nhân Đại Tuỳ, tuy không thành văn, nhưng trăm năm nay chưa hề thay đổi qua. Trừ phi rất bất đắc dĩ, nếu không họ sẽ không bỏ rơi người đồng đội nào hết, cho dù chỉ là cái xác lạnh ngắt.

Trời vừa sáng, đại quân chậm rãi tiến vào Thanh Hạp như một con rồng khổng lồ một cách quang minh chính đại. Năm ngàn tinh binh Hữu Kiêu Vệ dưới sự lãnh đạo của Lý Hiếu Tông, người đã phục chức Nha tướng ngũ phẩm nhìn hướng tây mà thẳng tiến. Thời khắc bước vào Thanh Hạp, Lý Hiếu Tông không kiềm được giật cương ngựa, quay đầu nhìn Phan Cố. Y biết, chỉ là đem quân bước vào Thanh Hạp này thôi, tên y cũng đã được viết vào sử sách.

Trăm năm trở lại đây, đây là lần đầu tiên quân đội của Đế quốc Đông phương vượt núi Lang Nhũ, lần đầu tiên vượt qua phòng tuyến Phan Cố. Một canh giờ nữa thôi đại quân sẽ ra khỏi Thanh Hạp này, người Hán sẽ đặt bước chân đầu tiên lên thảo nguyên rộng lớn.

Sắc mặt của Lý Hiếu Tông trông có vẻ rất bình tĩnh, nhưng ai lại biết trong lòng y sớm đã sóng gió dâng trào.

Thời khắc này, y chờ đợi mười năm. Thời khắc này, Đại Tuỳ chờ đợi hết một trăm năm.

...

...

Dãy núi Lang Nhũ tuy rất cao, nhưng nhìn từ xa thì trông không có vẻ nguy nga cho lắm. Thế núi trải dài. Nhưng sự thật là muốn vượt qua núi này hầu như là điều không thể xảy ra. Trông thế núi có vẻ trải dài, không nguy hiểm thế thôi, chứ thật ra là rừng rậm dày đặc, dưới hình dáng dịu dàng tròn trịa như cái vú, núi Lang Nhũ ẩn chứa nguy hiểm chết người vô cùng vô tận.

Khoan chưa nói các mãnh thú như sài lang hổ báo trong núi rất nhiều, vào trong núi rồi mới phát hiện, cái mà bị màu xanh núi rừng che khuất chính là từng cái vách núi tuy không cao nhưng dốc đứng. Núi này, hình dáng rất kì lạ, dưới eo núi thậm chí có thể cưỡi ngựa mà đi, nhưng sau khi đến được eo núi rồi, từng cái vách núi sẽ xuất hiện trước mặt. Đại quân nếu muốn vượt qua, thì nhất định phải xây cầu treo để qua vực, công trình rất lớn, hao phí một lượng lớn sức người sức của để làm cái cầu treo, các binh sĩ phải mất bao lâu mới đi từng người mà qua hết đây?

Những vách núi dựng đứng ở phần trên eo núi này, giống như là bức tường mà ông trời tạo ra, để ngăn cản mối bất hoà giữa hai người con trai mà mình yêu thương; nhưng cũng không muốn hai đế quốc hùng mạnh nhất này mất đi liên hệ, Thanh Hạp chính là cầu nối duy nhất.

Đại Tuỳ và Mông Nguyên, cũng giống như là những người khổng lồ đã không còn có thể trưởng thành hơn nữa trên địa bàn của mình. Họ đã phát triển đến cực hạn những thứ cần phát triển trên vùng đất của mình. Nếu không đi ra ngoài, ai cũng không thể cao thêm một mét nào hết. Kỵ binh của Mông Nguyên, tunh hoành đại thảo nguyên, các bộ lạc sớm đã thần phục và không dám nảy sinh mảy may lòng bất kính nào hết. Cờ Phi Lang đi tới nơi nào, các mục dân ở đó đều cúi đầu tham bái.

Còn bộ binh cỉa Đại Tuỳ, đã lớn mạnh tới mức ở trung nguyên không còn địch thủ. Từ khi Thái tổ Hoàng đế Đại Tuỳ khởi binh, bộ binh Đại Tuỳ đã đi trên một con đường huy hoàng, và không ngừng thẳng tiến. Bất luận là Nam Trần từng độc bá Giang Nam và được xưng là thuỷ sư vô địch, hay Đại Thương ở tây nam binh lính trăm vạn. Những người khổng lồ nguy nga này đều bị người khổng lồ mới nổi dậy này một đấm hạ gục. không còn có thể đứng lên được nữa. Và cho tới bây giờ, người không lồ Đại Tuỳ này trở nên cô độc, không có địch thủ, không có xác của kẻ địch làm bàn đạp, nó không thể vươn cao hơn nữa.

Có lẽ, một trận chiến giựa hai quốc gia này là không thể tránh khỏi.

Hoàng đế Đại Tuỳ Dương Dịch từng nói, cho dù trẫm không xuất binh đánh Mông Nguyên, ai có thể đảm bảo rằng Mông Nguyên sẽ không ra tay với Đại Tuỳ của trẫm. Tuy trẫm chỉ gặp qua Mông Ca một lần, nhưng trẫm có thể nhìn thấy tham vọng của y đối với trung nguyên từ trong mắt y. Chỉ cần thời cơ chín muồi, y sẽ không ngần ngại đem lang kỵ Mông Nguyên vượt núi Lang Nhũ. KHông lẽ phải đợi đến lúc gót ngựa Mông Ca đến tận Hoàng Hà rồi trẫm mới đánh lại sao?

Từ trước đến giờ, chỉ có Đại Tuỳ đứng cười sung sướng trên lãnh thổ kẻ địch, chứ không có chuyện kẻ địch đặt chân lên đất Đại Tuỳ này.

Lý Hiếu Tông, chỉ là một Lý Hiếu Tông quân chức ngũ phẩm.

Một Lý Hiếu Tông từng phạm phải nợ máu.

Trong ánh mắt nhìn lại thành Phan Cố ấy, ẩn chứa bao nhiêu điều phức tạp. Y từng không chỉ một lần nghĩ, đem theo tám trăm biên quân đó đặt chân lên thảo nguyên phương tây. Những người lính biên quân đó, y hi vọng họ là những cánh tay của y biết bao, vung lấy cây hoành đao Đại Tuỳ trong tay, cùng y kiến công lập nghiệp.

Nhưng. Tất cả đều tan thành mây khói sau trận tàn sát đó.

Đêm hôm đó, người cần giết thực chất chỉ có Ngô Bồi Thắng. Phương Giải... chỉ là một kẻ đáng chết vào lúc thích hợp thôi. Từ lúc bắt đầu, khi Lý Viễn Sơn cho Ngô Bồi Thắng đem người tới Phan Cố giết Phương Giải, chính là một cái bẫy dụ Ngô Bồi Thắng đến Phan Cố. Cho dù không có Phương Giải, cũng sẽ có người như Lý Giải, Tôn Giải, Trần Giải làm cái cớ để dụ Ngô Bồi Thắng. Mà khi Ngô Bồi Thắng tiến vào thành Phan Cố, hai ngàn bá tánh và tám trăm biên quân trong thành đã được định sẵn làm vật hi sinh rồi.

Phương Giải, chỉ là một con cá lọt lưới không đáng kể thôi. Và về sau, con cá lọt lưới này lại trở thành thủ đoạn của kẻ khác.

Xem ra, tất cả những âm mưu và bẫy nhằm vào Phương Giải, thật ra mục tiêu chính là Ngô Bồi Thắng, cái lão hoạn quan đã mất đi phần lớn quyền lực của một Thái Giám Bỉnh bút, người không nên đến tây bắc nhất. Nếu chỉ là giết Phương Giải, thì cần gì phải đồ thành (giết hết tất cả người trong thành)? Cả thành chết hết, chẳng qua chỉ là hoả mù được tung ra vì cái chết của Ngô Bồi Thắng, che đi mắt của rất nhiều người.

Không ai biết, sự thật đằng sau chuyện Phương Giải có thể sống và đến được Đế đô Trường An, đâu phải chỉ đơn giản là vì sự bảo vệ của bọn Đại Khuyển, bản thân hắn cũng khá may mắn?

Chỉ cần Phương Giải không chết, các tai mắt trong Đế đô mới tập trung hết vào hắn. Và Ngô Bồi Thắng quan trọng nhất, lại trở thành người bị lãng quên. Phương Giải sống sót và tiến vào thành Trường An, những người muốn tìm ra chân tướng đằng sau vụ huyết án thành Phan Cố đương nhiên sẽ tập trung hết vào Phương Giải. Gần ba ngàn mạng người trong thành Phan Cố là một lớp hoả mù, Phương Giải... là một lớp khác.

Lý Hiếu Tông từ khi rời khỏi thành Trường An, lần đầu tiên dẫn đầu nhiều binh mã như vậy. Nhưng y không cảm thấy thấp thỏm lo lắng, ngoại trừ ánh nhìn phức tạp về phía thành Phan Cố, còn lại, ánh mắt y chứa đầy sự tự tin. Y xua đuổi những ý nghĩ đâu đâu đó, gạt bỏ hình bóng người thiếu niên thanh tú đột nhiên xuất hiện trong tâm trí y.

- Nhanh lên!

Y hạ lệnh với giọng thanh lạnh:

- Nhất định phải ra khỏi Thanh Hạp trong nửa canh giờ nữa, lập phòng tuyến ở phía đối diện hạp cốc, đặt các chướng ngại vật, nhất định phải giữ lấy cánh cửa này cho đại quân.

- Vâng!

Thủ hạ y vâng một tiếng, rồi lập tức thổi quân kèn ra hiệu di chuyển nhanh hơn. Năm ngàn tinh binh nghe hiệu lập tức tăng tốc, các binh sĩ chạy nhanh đến vùng đất chưa từng được biết đến ở phía đối diện hạp cốc.

Ánh mắt của mỗi người, đều nóng bỏng cực kỳ.

...

...

Phía tây Thanh Hạp, mười mấy kỵ sĩ Mãn Đô Kỳ thúc ngựa phi nước đại về phía Thanh Hạp. Kỵ binh dẫn đầu, Thập phu trưởng lớn tiếng la to:

- Mỗi ngày trước khi mặt trời mọc, các thám báo trên núi đều sẽ báo tin bình yên vô sự. Nhưng hôm nay không thấy tin báo đến, cũng không biết có phải các huynh đệ ấy xảy ra chuyện rồi không. Ở bên kia núi, đại quân người Tuỳ đã bắt đầu tập kết, không được sơ ý. Nhanh hơn nữa, đi nhanh đến Thanh Hạp kiểm tra! Phía đông núi Lang Nhũ là vùng đất yêu ma mà ngay cả Trường Sinh Thiên cũng từ bỏ, mấy người Tuỳ đáng chết đó chuyện gì cũng làm ra được.

- Vâng!

Các kỵ binh phía sau vâng một tiếng chỉnh tề, theo sát sau lưng Thập phu trưởng.

Khi họ chạy đến Thanh Hạp, thì lá cờ lớn màu đỏ rực từ trong Thanh Hạp đi ra như áng mây đỏ lúc chiều tà. Tiếp sau đó, khói bụi từ trong hạp cốc tung bay mà đến, trong đám khói bụi đó, là vô số các bộ binh giáp đen người Tuỳ bước ra.

- Người Tuỳ!

Một kỵ binh Mãn Đô Kỳ khó giấu sự kinh hoàng mà hô lên một tiếng, giọng nói có chút phát run.

- Ba người các ngươi trở về báo tin, nói là người Tuỷ đã xuyên qua Thanh Hạp rồi! Chúng ta yểm hộ cho ba người các ngươi, đi mau đi!

Thập phu trưởng la lớn một câu, sau đó rút loan đao treo ở eo ra.

Bên kia, trong quân đội người Tuỳ cũng đã phát hiện bọn họ, phân ra mấy mươi kỵ binh từ trong đội kỵ binh không nhiều quân lắm, phi ngựa đến bên này.

- Đại Tuyết Sơn ban cho chúng ta sức mạnh vô song, pháp lực của Minh Vương ban cho ta bách chiến bách thắng!

Thập phu trưởng thành tín hô lên một câu, đem theo bảy tám thuộc hạ nghênh đón kẻ thù định mệnh của họ mà không hề chùn bước. Người Đại Tuỳ kiêu ngạo, người Mông Nguyên, chẳng phải cũng thế sao?

------<nowiki>----oOo-----</nowiki>-----


*****

Năm ngàn tinh binh Hữu Kiêu Vệ của Đại Tuỳ xuyên qua hạp cốc núi Lang Nhũ, sau khi ra khỏi cốc lại tiến về phía tây thêm năm dặm nữa rồi ngừng lại, thiết lập đội hình phòng ngự, nhanh chóng bố trí chướng ngại vật ở vòng ngoài cùng. Các cung thủ đi lên trước theo trật tự, đứng trong chướng ngại vật, tạo thành một trận hình dày đặc.

Bảy tám kỵ binh của Mãn Đô Kỳ trước đó đã dùng tính mạng của mình để tranh thủ chút thời gian cho đồng đội chạy về báo tin. Trong tay Lý Hiếu Tông chỉ có hai trăm kỵ binh, quý giá vô cùng. Y không có lệnh cho kỵ binh tiếp tục truy đuổi ba kỵ binh tẩu thoát của Mông Nguyện đó. Đại quân đi ra khỏi Thanh Hạp thì đã không còn giấu được nữa rồi, nếu vì đuổi theo ba tên thám báo mà tổn thất mấy mươi kỵ binh, rất không đáng.

Cho dù không để ba tên thám báo đó trốn thoát, thì du kỵ Mãn Đô Kỳ cũng sẽ rất nhanh phát hiện quân đội Đại Tuỳ.

Năm ngàn bộ binh Đại Tuỳ, dàn trận hình nan quạt, xếp thành nhiều hàng ngang, tạo thành một bức tường kiên cố. Nhiệm vụ của họ chính là trấn giữ cửa khẩu phía tây của hạp cốc núi Lang Nhũ cho đại đội binh mã đến sau. Đây là thông đạo quan trọng kết nối đông tây, tuyệt nhiên không thể để người Mông Nguyên lấy lại. Một khi Mãn Đô Lạp Đồ điều trọng binh phòng thủ hạp cốc, cho dù phía đông núi Lang Nhũ có bảy mươi vạn tinh binh Đại Tuỳ, muốn xông qua đó cũng không phải chuyện dễ.

Trị thành của Mãn Đô Kỳ, thành Vân Đài cách núi Lang Nhũ không dưới một ngàn năm trăm dặm. Cho dù Mãn Đô Lạp Đồ nhận được tin trọng binh Đại Tuỳ tập kết, điều động nhân mã tới Thanh Hạp này cũng không phải một sớm một chiều. Còn trong thành Niết Bàn, chỉ có hai ngàn kỵ binh Mãn Đô Kỳ. Nếu tướng thủ thành Mãn Đô Lang có đủ thông minh, điều duy nhất y có thể làm được chính là giữ vững thành trì, đợi viện binh của Mãn Đô Lạp Đồ tới.

Cho nên, xem ra nhiệm vụ của Lý Hiếu Tông dường như không mấy khó khăn.

Các tinh binh Hữu Kiêu Vệ được huấn luyện nghiêm chỉnh nhanh chóng dàn thành thế trận trong thời gian ngắn nhất. Ba mươi chiếc xe nỏ được xếp trước mặt các cung thủ, trọng nỏ do phường Võ Công của Đại Tuỳ tinh công chế tạo có thể dễ dàng bắn các tên nỏ loại lớn ra xa sáu trăm bộ, ngoài ba trăm bộ có thể bắn xuyên giáp trụ của chiến mã, trong vòng hai trăm bộ có thể cả người lẫn ngựa đều xé làm đôi, trong vòng một trăm bộ... nếu muốn trọng nỏ ngừng lại, trừ phi xiên một lúc sáu bảy cái thi thể như cây hồ lô nước đường vậy.

Vì cuộc chiến lần này, Thiên Hữu Hoàng đế của Đại Tuỳ từ lúc mới đăng cơ đã bắt tay chuẩn bị. Hơn mười một năm nay, các công phường của Đại Tuỳ đều đang bí mật chế tạo các trang bị vũ khí cho chiến tranh. Các trang bị này đều do "Hoá thông thiên hạ hành" chuyển đi, giấu trong các hành cung ở tây bắc. Cho nên, khi Hoàng Đế hạ quyết tâm khai chiến, giáp trụ máy mác đủ để trang bị cho một trăm vạn đại quân sớm đã nằm trong kho rồi.

Theo quân chế Đại Tuỳ: mỗi năm mươi người là một "đội", thủ lĩnh gọi là "Đội chính"; mỗi một trăm người là một "lữ", thủ lĩnh gọi là "Lữ suất"; mỗi ba trăm người là một "đoàn", thủ lĩnh gọi là "Giáo uý"; mỗi một ngàn hai trăm người là một "Chiết xung doanh", thủ lĩnh gọi là "Nha tướng" ; một vạn hai ngàn người là một "quân", thủ lĩnh là "Tướng quân"; bốn vạn tám ngàn người là một "vệ", thủ lĩnh là "Đại Tướng quân".

Lý Hiếu Tông chỉ là Nha tướng, nhận lệnh thống lĩnh binh lực của bốn cái "Chiết xung doanh". Quan chỉ huy của bốn chiết xung doanh này tuy cùng cấp bậc với y, nhưng phải chịu sự điều khiển của y.

Nha tướng Phan Mỹ phụng mệnh giám sát công việc bố trí phòng ngự của các chiến sĩ, đây là lần đầu tiên y tham gia chiến tranh đối ngoại, cho nên không khỏi có chút kích động. Sau khi bố trí xong tuyến phòng ngự, y liền đi báo cáo cho Lý Hiếu Tông. Nhìn vị tướng quân trạc tuổi mình trước mặt, tuy trong lòng y có hơi không phục, nhưng quân kỉ nghiêm khắc của Đại Tuỳ vẫn khiến y lựa chọn phục tùng và duy trì một sự kính trọng nhất định đối với cấp trên.

- Tướng quân!

Phan Mỹ kêu một tiếng, rồi ôm quyền nói:

- Cung thủ đã bố trí xong, người của Mãn Đô Lang chỉ cần dám đến, thì chắc chắn sẽ không thoát khỏi trận mưa tên.

- Đừng tự cao!

Lý Hiếu Tông lắc đầu:

- Ngươi chưa từng giao thủ với kỵ binh Mông Nguyên, không biết tốc độ khinh kỵ của họ nhanh như thế nào. Ta hỏi ngươi, theo như tình hình thực tế khi ngươi đem quân huấn luyện, bộ binh từ khi bước vào phạm vi bắn của cung thủ đến tiến tới trước mặt cung thủ, cung thủ có thể bắn ra bao mấy phát?

- Một cung thủ đạt tiêu chuẩn, ít nhất có thể bắn ra tám phát. Nếu là quân tinh nhuệ, có thể bắn mười phát.

Phan Mỹ có hơi không thích ứng với ngữ khí của Lý Hiếu Tông, nhưng vẫn trả lời một cách nghiêm túc.

Lý Hiếu Tông gật đầu:

- Vậy thì, để ta nói ngươi biết... Nếu kẻ địch là khinh kỵ Mông Nguyên, từ khi họ bước vào phạm vi ngắm bắn cho đến khi tiến tới trước mặt, cho dù là cung thủ tinh nhuệ cũng chỉ miễn cưỡng bắn được bốn phát. Vả lại còn phải dự trù thời gian để cung thủ nhanh chóng rút lui về phía sau giáo binh. Có nghĩa là... cung thủ tinh nhuệ nhiều nhất chỉ bắn được ba phát, sau đó phải lập tức quay người rút lui.

Mặt Phan Mỹ biến sắc, y không kiềm chế được hỏi:

- Tướng quân từng giao đấu với người Mông Nguyên?

- Không có.

Lý Hiếu Tông lắc lắc đầu, sau đó nghiêm túc trả lời:

- Nhưng ta dùng mười năm để tìm hiểu kỵ binh Mông Nguyên. Trước khi vào Viện Diễn Võ, ta từng giả làm trẻ em hành thương, lén ra khỏi biên giới đi một vòng quanh phần rìa của thảo nguyên. Tuy không có vào sâu bên trong lãnh địa người Mông Nguyên, nhưng cũng xem như tận mắt chứng kiến uy lực kỵ binh của họ. Ba năm làm tướng ở Phàn Cố, ta vô số lần phái người đi trinh sát động tĩnh của kỵ binh Mãn Đô Kỳ, chỉ để tích luỹ nhiều hơn nữa thông tin về kẻ địch, ta tổn thất mười lăm vị thám báo giỏi nhất.

- Khoan chưa nói tới kỵ binh chính quy của người Mông Nguyên, chỉ nói mục dân của họ thôi. Con trai bốn tuổi đã dám leo lên lưng ngựa, sáu bảy tuổi đã có thể phóng ngựa phi nước đại, mấy đứa trẻ mười hai ba tuổi đã có thể cung ngựa thuần thục, có thể vừa phi ngựa vừa bắn trúng thỏ hoang ngoài ba mươi bộ! Cho dù là phụ nữ Mông Nguyên, chỉ cần họ leo lên lưng ngựa tay cầm loan đao thì chính là chiến sĩ!

Phan Mỹ có chút bất mãn:

- Tướng quân, lời của người sao mà giống khen kẻ địch quá vậy?

- Không.

Lý Hiếu Tông nói:

- Là hiểu biết cơ bản nhất đối với kẻ địch. Quân nhân Đại Tuỳ ta chưa từng bị người khác đánh bại qua, vì thế mà tự hào... Nhưng tự hào, không có nghĩa là tự cao.

Một viên nha tướng khác, Triệu Sâm nhìn không khí giữa hai người có chút bất ổn, vội hoà hoãn nói:

- Thật ra đây chỉ là sự chuẩn bị trước của tướng quân thôi. Nếu Mãn Đô Lang không ngốc thì nên thành thành thật thật rụt đầu trong thành Niết Bàn, mà không phải đem hai ngàn kỵ binh phát động tiến công.

- Ai mà biết được?

Lý Hiếu Tông hơi thở nhẹ một tiếng, trầm mặc một hồi rồi nói:

- Nếu là các ngươi, cho dù biết rõ số lượng kẻ địch nhiều hơn rất nhiều so với quân đội của mình, nhưng kẻ địch đã đặt một trước cửa nhà rồi, ngươi có ra nghênh chiến không?

- Đương nhiên là ra chứ!

Phan Mỹ ngạo nghễ nói:

- Nhưng không lẽ tướng quân cảm thấy, người Mông Nguyên cũng có huyết tính như người Đại Tuỳ ta?

Lời còn chưa dứt, đột nhiên từ xa rống lên tiếng kèn báo động.

- Địch tấn công!

...

...

Mặt Phan Mỹ hơi ửng đỏ, không kìm nổi nhìn Lý Hiếu Tông một cái. Y phát hiện sự chú ý của Lý Hiếu Tông hoàn toàn tập trung vào kẻ địch, mới khẽ thở phào một cái. Y khinh thường người Mông Nguyên, xem họ là dân man rợ. Y nghĩ người Mông nguyên không dám ra khỏi thành Niết Bàn. Nhưng y sai rồi, Mãn Đô Lang không chỉ ra khỏi thành, mà đem theo toàn bộ nhân mã tới đây.

Hai ngàn kỵ binh.

- Không ngờ họ lại dám bỏ thành Niết bàn.

Triệu Sâm không hiểu:

- Nếu họ có dũng khí như vậy, sao lúc đó không trực tiếp phái quân trấn giữ cửa tây Thanh Hạp? Nếu như vậy, e rằng chúng ta vẫn còn trong huyết chiến, chưa chắc xông được tới đây. Hạp cốc tuy không quá hẹp, nhưng dùng hai ngàn binh mã chặn đường, muốn công phá cũng không phải chuyện một sớm một chiều.

- Đúng vậy.

Phan Mỹ cũng cảm thấy thắc mắc:

- Vì sao vậy?

- Bởi vì hắn muốn nuốt chửng chúng ta.

Lý Hiếu Tông nói một cách nghiêm trọng:

- Trước đó ta từng nói, người Đại Tuỳ ta kiêu ngạo, người Mông Nguyên cũng có kiêu ngạo của chính họ. Ta biết tính cách của Mãn Đô Lang. Hắn cố ý để chúng ta đi qua hạp cốc. Hắn đang đợi trận chiến đầu tiên này, sau đó đem kỵ binh của hắn đánh bại chúng ta, dùng trận chiến đầu tiên này để nâng cao sĩ khí của người Mông Nguyên.

- Đây mới là tự đại!

Phan Mỹ hơi tức giận:

- Mãn Đô Lang thật không coi ai ra gì. Hắn nghĩ rằng chỉ với hai ngàn kỵ binh thì có thể đánh thắng năm ngàn tinh binh của chúng ta sao?

Lý Hiếu Tông chậm rãi lắc đầu, trong mắt chứa đầy âu lo:

- Có gì đó không ổn... Truyền lệnh xuống, phái hết hai trăm kỵ binh đó ra, đi lại tuần tra trong năm dặm từ hạp cốc đến đây, một khi phát hiện kẻ địch lập tức báo tin.

- Tướng quân lo lắng người Mông Nguyên sẽ cắt đường lui của chúng ta sao?

Triệu Sâm hỏi.

Lý Hiếu Tông uhm một tiếng, sau đó hít một hơi thật sâu:

- Bất luận thế nào, đây là trận chiến đầu tiên. Chúng ta cũng không được làm mất mặt Đại Tuỳ, mất mặt Bệ Hạ. Cho dù chỉ còn lại một binh một tốt, cũng phải giữ lấy hạp cốc. Phan Mỹ, ngươi lập tức đem một chiết xung doanh lui về sau, trở về miệng cốc phòng thủ. Chúng ta vì bố trí phòng thủ mà đi xa miệng cốc năm dặm, năm dặm đó chính là sơ hở lớn nhất của chúng ta.

- Còn chưa khai chiến, tướng quân kêu tôi rút lui?

Phan Mỹ bất mãn nói:

- Đánh còn chưa đánh, tướng quân kêu tôi rút lui tức là diệt uy phong của quân Đại Tuỳ ta. Ta cảm thấy...

- Ngươi không cần cảm thấy!

Lý Hiếu Tông quay đầu nhìn thẳng vào mắt Phan Mỹ, lạnh giọng nói:

- Ngươi có còn nhớ luật quân Đại Tuỳ không? Ta là chủ tướng, mệnh lệnh của ta ngươi ngoài việc phục tùng ra không có lựa chọn nào hết.

- Tôi...

Phan Mỹ ngẩn người, rồi sau đó căm tức ôm quyền nói:

- Thuộc hạ tuân lệnh.

Triệu Sâm kéo y một cái từ phía sau, nhìn y một cái, ra dấu y đừng tranh cãi nữa. Phan Mỹ tức giận dẫm chân, quay đầu đi điểm nhân mã.

- Tuổi trẻ nóng nảy là chuyện khó tránh.

Triệu Sâm cười cười với Lý Hiếu Tông rồi nói:

- Tướng quân đừng để ý, cẩn thận một chút, thế nào cũng không sai đâu. Trận chiến này rất quan trọng, quyết định của tướng quân không có vấn đề gì cả.

- Vấn đề ở chỗ.

Lý Hiếu Tông khẽ thở dài:

- Rất nhiều người xem chiến tranh quá đơn giản rồi.

Ngay lúc này, đội ngũ kỵ binh của Mông Nguyên phía đối diện đột nhiên chia ra một nhóm khoảng mười mấy kỵ binh phóng nhanh tới bên này. Lý Hiếu Tông hạ lệnh cung thủ đừng bắn, để cho những kỵ binh đó đi tới. Không lâu sau, kỵ binh Mãn Đô Kỳ dừng lại trước quân Tuỳ ba mươi mét. Thập phu trưởng dẫn đầu dùng ngôn ngữ người Hán hô lớn:

- Ai là Tướng quân lĩnh quân, Mãn Đô Lang đại nhân cần nói chuyện với ngươi!

- To gan!

Lữ Suất Đại Tuỳ đứng trước trận địa hô lớn:

- Còn không lui ra sau, chém không tha!

Lý Hiếu Tông thúc ngựa đi về phía trước, đi tới trước trận thì giật cương dừng chiến mã lại. Ra dấu cho sĩ binh đừng rat ay, y ngẩng đầu nói với kỵ binh Mãn Đô Kỳ cách đó không xa:

- Ta là Nha tướng Đại Tuỳ Lý Hiếu Tông, kêu Mãn Đô Lang ra đây.

Vừa dứt lời, mười mấy kỵ binh tách ra hai bên, một kỵ binh chậm rãi đi ra từ phía sau. Mông Nguyên rất nhiều chiến mã nhưng không có nhiều khoáng sản, nên đồ sắt vô cùng quý giá. Chỉ có Tướng quân cấp cao, mới được pháp mặc giáp sắt, cho dù là Thiên Phu trưởng, cũng chỉ có thể mặc giáp da.

Người đó thúc ngựa đi đến phía trước, dùng lễ nghi Đại Tuỳ chào Lý Hiếu Tông, rồi ôm quyền nói:

- Ta chính là tướng thủ thành Niết Bàn, Mãn Đô Lang, nghe danh Lý Tướng quân đã lâu.

- Mãn Đô Tướng quân.

Lý Hiếu Tông cũng ôm quyền hoàn lễ.

- Lý Tướng quân, đột nhiên đem quân xông vào lãnh thổ Mông Nguyên ta, có phải nên cho ta một lý do không?

Mãn Đô Lang hỏi.

Lý Hiếu Tông cao giọng nói:

- Tướng quân hà tất biết mà còn hỏi? Vào đêm của một năm trước, kỵ binh Mông Nguyên của ngươi tập kích thành Phàn Cố, tàn sát hơn ngàn bá tánh nước ta. Món nợ máu này thế nào cũng phải trả. Hp6m nay Lý mỗ đem quân tới đây, chính là muốn Mãn Đô tướng quân thanh toaq1n món nợ này. Nếu Tướng quân bằng lòng đem ra ba ngàn cái đầu người trả nợ, Lý mỗ lập tức rút binh.

- Ai cũng nói người Đại Tuỳ vô sỉ, quả nhiên là như vậy.

Mãn Đô Lang tuổi khảng ba mươi, râu lá lùm xùm, thân hình cao to, y cười lạnh:

- Người Mông Nguyên ta tuân thủ Hiệp ước mà Đại Hán ký kết với Hoàng Đế các ngươi, không từng có một binh sĩ vượt qua biên giới. Ngươi nói người của bọn ta tàn sát thành Phàn Cố, có chứng cứ gì không? Những lời vô căn cứ như thế chỉ có thể lừa được trả con, không nói cũng thôi. Nếu ta nói người Tuỳ các ngươi tàn sát thành Niết Bàn, có phải ta cũng có thể đem quân vượt Thanh Hạp tiến thẳng đến Phàn Cố?

- Đương nhiên là được.

Lý Hiếu Tông mỉm cười nói:

- Nhưng bây giờ người đòi nợ là ta.

- Nếu muốn khai chiến, không lẽ Đại Tuỳ các ngươi không hạ chiến thư trước sao?

Mãn Đô Lang cao giọng nói:

- Người Tuỳ các ngươi tự xưng là "lễ nghi chi bang", không lẽ chỉ biết chơi trò đánh lén?

- Chiến thư?

Lý Hiếu Tông lắc đầu nói:

- Ta đến để đòi nợ, hà tất cần đến chiến thư?

Mãn Đô Lang cười lạnh:

- Người Tuỳ các ngươi luôn miệng nói ra quân phải có lý do, không có lý do gì tuỳ tiện khai chiến, không lẽ bá tánh Đại Tuỳ lại đồng ý sao? Nên biết địch thủ lần này của các ngươi, không phải loại tiểu quốc yếu ớt như Thương quốc, mà là Đế quốc Mông Nguyên mạnh nhất thế gian! Nếu kkho6ng có một lý do chính đáng, chỉ sợ bá tánh của các ngươi cũng sẽ không đồng ý.

- Lí do thì ta đã nói rồi.

Lý Hiếu Tông nói:

- Các ngươi giết ba ngàn bá tánh binh sĩ của Phàn Cố ta, Hoàng Đế Bệ Hạ ta đã chiếu cố thiên hạ. Ngươi đoán xem... bá tánh sẽ như thế nào?

Mãn Đô Lang thở dài:

- Thì ra... Lời nói dối trước đó của ngươi không phải nói cho ta nghe, mà là Hoàng Đế các ngươi nói cho người dân của mình nghe. Chiến tranh do lời nói dối mà ra, các ngươi thua chắc rồi.

Lý Hiếu Tông cười nói:

- Thắng bại không phải do ngươi quyết định.

Y nói xong câu này, quay đầu nói với Triệu Sâm:

- Mau kêu người nói với Phan Mỹ, Mãn Đô Lang ở đây kéo dài thời gian, chắc chắn là có âm mưu gì đó, nói với y nhất định phải tử thủ hạp cốc.

Ngay lúc này, phía hạp cốc đột nhiên truyền đến tiếng giết nhau, khiến cho tim ai cũng đột nhiên đập nhanh hơn.

- Kinh ngạc lắm sao?

Mãn Đô Lang ha hả cười to:

- Đã nói người Tuỳ các ngươi quỷ kế đa đoan, ta thấy cũng chỉ là những kẻ ngốc cuồng ngông kiêu ngạo! Đường lui của các ngươi đã bị cắt đứt, đầu hàng... ta cũng không tha cho các ngươi con đường sống.

------<nowiki>----oOo-----</nowiki>-----


*****

Phía sau quân trận tràn đầy khói bụi, mơ hồ truyền đến tiếng hò hét, khiến trong lòng Lý Hiếu Tông khẩn trương một chút. Mãn Đô Lang mang theo hai ngàn Mãn Đô Kỳ kỵ binh bắt đầu nghênh đón, trong lòng Lý Hiếu Tông bắt đầu bất an. Y và Mãn Đô Lang làm đối thủ ba năm, y biết rất rõ tính tình của đối phương, cho nên sau khi phát hiện chuyện không ổn, chuyện thứ nhất chính là hạ lệnh Phan Mỹ mang theo một đội nhân mã Chiết Xung Doanh nhanh chóng thoái lui bảo vệ thanh hạp, nhưng vẫn chậm.

Một người đủ tư cách là tướng quân, chỉ cần nhìn bụi mù là có thể đoán được đại khái số lượng địch nhân, Lý Hiếu Tông không cần phái người đi tìm hiểu cũng có thể đoán được, e là Phan Mỹ lúc này có thể đã bị lâm vào tình trạng vây khốn trong doanh trại địch. Hơn nữa Phan Mỹ kia tính tình cao ngạo, thời điểm rút lui chưa chắc đã duy trì đội hình, đợt tập kích này có thể thoát được hay không thật khiến người ta lo lắng.

- Triệu Sâm, ngươi mang theo người đi trợ giúp Phan Mỹ, ngươi đánh giá tình huống rồi tự mình đưa ra chiến thuật. Nếu có thể cứu Phan Mỹ nhất định phải cứu hắn bằng được, nếu Phan Mỹ bị bao vây khó có thể cứu viện, ngươi lập tức dẫn người, bất kể thế nào cũng phải thoát khỏi đây.

- Tướng quân!

Triệu Sâm vội vàng nói:

- Nếu ta mang theo một đạo nhân mã đi, ngươi chỉ còn lại hai đạo nhân mã. Hai ngàn bốn trăm bộ binh... Mãn Đô Lang có tới hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ, ta sợ...

- Ngươi không còn thời gian lo lắng cho ta.

Âm thanh Lý Hiếu Tông lạnh lùng:

- Ta nói rồi, nếu hôm nay ta là chủ tướng của các ngươi, vậy đối với mệnh lệnh của ta các ngươi chỉ có một lựa chọn, hơn nữa ngươi hẳn hiểu được, đối với việc mở ra thông đạo thoát khỏi, tính mạng của ta bé nhỏ không đáng nhắc tới.

-Vâng!

Nhìn khuôn mặt kiên quyết của Lý Hiếu Tông, Triệu Sâm biết mình không thể lay động quyết tâm của vị tướng lĩnh trẻ tuổi này. Tuy rằng Lý Hiếu Tông đã đem binh mã tránh cẩn thận ở khe sâu nhưng vẫn phạm phải sai lầm khinh địch. Dựa theo mười hai quân lệnh mà Đại Tùy Hoàng đế bệ hạ ban bố, nếu là người có ý đồ riêng nắm lấy cơ hội này, đây đã là tử tội.

Hắn không hiểu rõ vị tướng lĩnh trẻ tuổi này, chỉ biết hắn là người của Lý gia Lũng Hữu, chất tử của Đại tướng quân Lý Viễn Sơn, năm đó ở Diễn Võ Điện Chu viện trưởng không chỉ một lần khen ngợi hắn. Đương nhiên hắn cũng biết Lý Hiếu Tông trước khi chiến đấu bị người lừa gạt suýt nữa hủy đi tiền đồ và tính mạng.

Vốn hắn là tướng lĩnh còn trẻ tuổi như vậy, Triệu Sâm trong lòng đối với hắn không có kính ý gì. Nhưng hôm nay, thấy khuôn mặt kiên quyết của Lý Hiếu Tông từ trong lòng hắn sinh ra một cổ kính nể.

- Tướng quân bảo trọng!

Triệu Sâm ôm quyền, lập tức xoay người rời đi.

- Đợi đã!

Lý Hiếu Tông phân phó nói:

- Thổi tù, đem hai trăm kỵ binh thu lấy trở về, nếu không thể cứu viện Phan Mỹ ngươi dùng hai trăm kỵ binh này mở đường sống giết ra ngoài.

- Chúng ta chỉ có hai trăm kỵ binh vẫn là lưu lại trợ giúp tướng quân tốt hơn.

Triệu Sâm lớn tiếng nói.

- Đúng vậy a...

Lý Hiếu Tông thở dài:

- Chúng ta chỉ có hai trăm kỵ binh, là một bảo bối. Nhưng đay là chiến trường, chính vì hai trăm kỵ binh này quý giá nên phải dùng ở nơi thích hợp nhất. Đi thôi... Bất kể tình huống bên đây ta thế nào ngươi cũng không được quay lại trợ giúp, cho dù cho chết chỗ này cũng không cần ngươi quay lại nhặt xác. Thanh Hạp mới là trận địa của ngươi.

- Vâng!

Triệu Sâm lớn tiếng hô, vuốt vuốt mũi nhanh chóng rời đi. Sau khi mang một toán binh mã đi, trong tay Lý Hiếu Tông nhân mã càng ít đi. Mãn Đô Lang dường như cũng không vội tiến công, mà hứng thú nhìn Lỹ Hiếu Tông chia cắt binh mã.

- Tháp Lặc!

Sau khi ra phân một đạo nhân mã đi ra ngoài, Mãn Đô Lang mỉm cười hạ lệnh:

- Cho ngươi ba trăm nhân mã, ngươi có dám đem Tùy quân phá vỡ hay không.

Tháp Lặc chính là người đàn ông của thảo nguyên cực kỳ khôi ngô dũng mãnh, là người đàn ông điển hình của thảo nguyên mày rậm, mắt to, tiếng nói giống như chuông vang.

- Như thế nào không dám, tướng quân nếu đồng ý thưởng cho ta một tiểu mỹ nhân Bắc Liêu, ta dám đem ba trăm nhân mã đi giết Phàn Cố.

- Ha ha!

Mãn Đô Lang cười to nói:

- Nếu ngươi bắt giữ Lý Hiếu Tông, ta thưởngcho ngươi hai tiểu mỹ nhân Bắc Liêu, lại thêm một người bắc Liêu hàn cưỡi!

- Đa tạ Tướng quân!

Tháp lặc cố nén cười nhưng nhịn không được cười hì hì, cũng không đem hai ngàn tinh binh Đại Tùy để vào mắt.

- Các ngươi, đi với ta giết người!

Hắn rống lớn một tiếng, tháo Lang Nha bổng phía sau lưng ra. Ba trăm kỵ binh Mãn Đô kỳ đi theo phía sau hắn, hô to vội vàng xông lên phía trước. Ba trăm kỵ binh giống như đàn sói đói xông về phiá con mồi. Tốc độ của kỵ binh Mông Nguyên rất nhanh, mỗi người đều là người điều khiển ngựa giỏi. Bọn họ thậm chí có thể điều khiển ngựa hoang mà không cần yên, tự nhiên giống như người lèo lái một con thuyền.

Ba trăm kỵ binh lấy Tháp Lặc dẫn đầu, hợp thành một trùy hình trận nhằm phía quân Đại Tùy xông tới.

Hơn một trăm năm qua, đay là lần đầu tiên Mông Nguyên cùng Đại Tùy chính diện giao phong. Tuy rằng trận giao phong này quy mô cũng không lớn, nhưng ý nghĩa sâu xa. Bất kể là Mãn Đô Lang hay là Lý Hiếu Tông, đều biết rằng này trận chiến đầu tiên ý nghĩa như thế nào. Ai thắng người đó sẽ chiếm lĩnh tiên cơ.

Nếu quân Mông Nguyên xuyên qua giết sạch năm nghìn quân Tùy, như vậy sự kiêu ngạo của quân Đại Tùy sẽ bị lung lay.

- Trăm trận không thua?

Mãn Đô Lang hìn chiến kỳ màu đỏ của Đại Tùy tung bay, khóe miệng vẽ ra ý cười lạnh lùng:

- Ta hôm nay sẽ hủy đi hư danh trăm trận không bại của các ngươi.

- Trương Chấn, Thôi Mẫn.

Lý Hiếu Tông lớn tiếng hạ lệnh:

- Hai người các ngươi bảo vệ hai cánh, không có quân lệnh của ta không được tự ý động thủ. Chỉ sợ kỵ binh Mông Nguyên vọt vào trung quân, nếu không nghe thấy tiếng kèn các ngươi không được cứu viện!

- Vâng!

Mặt khác hai Nha tướng Trương Chấn và Thôi Mẫn đồng thời lên tiếng, quay người trở lại hai cánh chủ trì chiến trận.

- Cung tiễn thủ!

Lý Hiếu Tông giục ngựa về phía trước, tới phía trước trận chiến tự mình chỉ huy.

- Bắn nhãn hiệu tiễn!

Theo mệnh lệnh của Lý Hiếu Tông, đứng ở phía trước nhất là một loạt cung tiễn thủ từ trong bầu rút ra một mũi tên lông vũ. Mũi tên bày toàn thân lông vũ bị nước sơn thành màu đỏ tươi đẹp, so với mũi tên lông vũ bình thường thô một ít. sau khi nghe hiệu lệnh, cung tiễn thủ hàng thứ nhất lập tức đem mũi tên lông vũ đặt lên dây cung lên, hơn trăm người động tác đều nhau đem tiễn bắn ra ngoài. mũi tên này bọn họ góc ngắm bắn rất cao, mũi tên lông vũ bắn ra ở trong tay bọn họ cung cứng tầm bắn cực hạn.

Hơn trăm mũi tên lông vũ màu đỏ bắn ra một lượt, ở giữa không trung xuất hiện một đạo đường cong xinh đẹp đều rơi xuống đất. Ước chừng ở 230 bước bên ngoài, trên mặt đất xuất hiện nhiều ra một hồng tuyến. Loại mũi tên lông vũ này, được xưng là nhãn hiệu tiễn. Tác dụng là làm cho cung tiễn thủ nắm bắt rõ ràng khi nào kẻ thù từ tiến vào tầm bắn.

Lúc Tháp Lặc đem ba trăm vó ngựa kỵ binh phóng qua tơ hồng do tạo thành nhãn hiệu tiễn, Lý Hiếu Tông mạnh mẽ giơ lên lệnh kỳ.

- Lần thứ nhất, bắn tên!

Ba trăm cung tiễn thủ vượt lên trước đem dây cung căng lên. Loại mũi tên lông vũ này, có thể dễ dàng phá vỡ khinh bạc áo giáp. Trừ phi kẻ thù là người mặc mấy tầng bì giáp thật dày, hoặc là mặc giáp có giá trị chế tạo đắt tiền, nếu không không ngăn được phá giáp chùy bắn chết.

Lần thứ nhất mũi tên lông vũ ở giữa không trung tạo thành một đường cong, hơn ba trăm mũi tên lông vũ giống như giữa không trung hạ xuống giống như mưa đá hung hăng nện vào trong hàng ngũ kỵ binh Mãn Đô kỳ kỵ. Lần thứ nhất bắn thuộc loại bao trùm tính đả kích, không có tính chính xác. Nhưng loại đả kích này bởi vì diện tích ảnh hưởng rất lớn, vả lại mũi tên lông vũ là từ giữa không trung cùng hạ xuống, rất khó phòng ngự. Đối với bộ binh có tính xung phong mà nói, phòng ngự cung tiễn thủ ném bắn lực sát thương thật lớn. Nhưng đối với kỵ binh tốc độ rất nhanh mà nói, ném bắn lực sát thương phải giảm bớt đi nhiều.

Mũi tên lông vũ bay vào kỳ trong đám ngườkỵ binh Mãn Đô i, lập tức có hai mươi ba mươi kỵ binh bị bắn rơi xuống ngựa. Tháp Lặc quơ Lang Nha bổng liên tiếp rơi đập hai mũi tên lông vũ, trong con ngươi dã tính càng ngày càng đậm hơn. Lấy binh khí nặng như Lang Nha bổng đập mũi tên lông vũ hiển nhiên không thích hợp, nhưng hai cánh tay hắn vô cùng có lực, này người thường khó có thể giống hắn vũ động Lang Nha bổng như một cây cây gậy trúc nhẹ nhàng như vậy.

- Sát!

Tháp Lặc hét lớn một tiếng, phía sau Mãn Đô kỳ kỵ binh phát ra một tiếng rít gào chỉnh tề.

- Hô Hàaa... !

Hô ha ha, là khẩu hiệu xung phong kỵ binh Mông Nguyên. Cùng Đại Tùy quân đội xung phong hô to về phía trước đều giống nhau.

- Đợt thứ hai, bắn tầm thấp, bắn!

Lý Hiếu Tông lại phát ra mệnh lệnh, hơn ba trăm cung tiễn thủ đem cung căng lên, hơi hơi giơ lên, mũi tên lông vũ trong khoảnh khắc bắn nhanh ra ngoài. Mệnh lệnh thứ hai mới hạ xong, Lý Hiếu Tông lập tức múa may lệnh kỳ nói:

- Vòng thứ ba, bắn chụm, bắn!

Cung tiễn thủ tất cả đem tầm mắt đều chăm chú vào trên người những kỵ binh này, lần thứ ba hơn ba trăm mũi tên lông vũ cực dày đặc bắn ra ngoài. Những mũi tên lông vũ chụm lại giống như một cái nắm tay thật lớn, hung hăng vọt tới kỵ binh Mãn Đô kỳ. Tháp Lặc đem Lang Nha bổng vũ động trước người mình, liên tục đẩy ra ba bốn mũi tên lông vũ, nhưng vẫn còn lộ ra một ít lỗ hổng, một mũi tên lông vũ hung hăng phá vỡ áo giáp đâm sau vào vai của hắn.

Đau đớn khiến này hắn càng thêm thô bạo, hắn cũng không để ý tới trên mũi tên lông vũ vai run lẩy bẩy, thúc dục chiến mã thẳng tắp vọt tới quân trận của Đại Tùy.

- Cung tiễn thủ lui về phía sau!

Lý Hiếu Tông lớn tiếng hạ lệnh:

- Khiên lớn thủ phía trước, giáo dài bày trận!

Ước chừng một trăm lớn binh lính khiêng khiên nhanh chóng thay thế cung tiễn thủ vọt tới phía trước nhất, theo chỉ huy của Giáo Úy, một trăm mặt khiên lớn thật mạnh đâm sâu trên mặt đất, thật giống như trên đất bỗng nhiên xuất hiện một mặt tường giống nhau. Phía sau những ngọn giáo dài vọt tới mặt sau khiên lớn, đem những giáo dài gác trên khiên lớn, giáo phong giơ lên.

Chiến binh Đại Tùy Hữu Kiêu Vệ, trong thời gian cực ngắn hoàn thành việc thay đổi trận. Trong khoảnh khắc, quân trận liền co lại biến thành một một đoàn con nhím.

Ầm một tiếng!

Kỵ binh Mãn Đô kỳ hung hăng đụng vào khiên lớn lên, binh lính nửa ngồi chồm hổm trên mặt đất dùng bả vai khiêng khiên lớn bị đụng ngã lăn, lại bị chiến mã xông tới đạp lên, tiếng kêu rên ngay lập tức vang lên. Nhưng, giết chết bọn họ kỵ binh Mãn Đô kỳ cũng bị đối diện những ngọn giáo đâm chết, hai mươi mấy kỵ binh xông lên phía trước nhất phá thuẫn trận tạo ra lỗ hổng sau khi hoàn thành sứ mệnh, bọn họ cũng mất đi sinh mạng.

- Giết quân Tùy không còn manh giáp, chém ngã tướng kỳ!

Nử người đã bị ngâm trong máu huyết, Tháp Lặc đạp nát đầu một binh lính Đại Tùy, mũ và da đầu bị đập nát, màu đỏ tươi của máu và màu trắng của óc hòa cùng một chỗ, trong đó còn kèm theo rất nhiều xương cốt. Binh lính Đại Tùy không kịp phát ra một tiếng rên la liền ngã xuống, sau đó lại bị chiến mã của Tháp Lặc đạp vỡ xương sườn.

Tháp Lặc mang theo đại khái hai trăm kỵ binh dao găm giống nhau tìm tòi thuẫn trận Đại Tùy, lại bị vây ở trong giáo trận khó có thể thoát khỏi. Rừng giáo dày đặc khiến kỵ binh như rơi vào vũng bùn, căn bản không thể đem ưu thế tốc độ của kị binh phát huy được.

Tháp Lặc từ lúc chào đời tới nay lần đầu tiên cùng quân Tùy giao chiến, nhưng cũng không phải là lần đầu tiên giết người. Hắn từng mang binh giết hại vài bộ tộc khác trên thảo nguyên, không theo Mãn Đô kỳ hiệu lệnh tiểu bộ tộc kết cục chỉ có chết. Hắn vũ lực hơn người, ở trong Mãn Đô kỳ có danh dũng sĩ.

Nhưng là hôm nay, hắn lại phát hiện khí lực cả người mình căn bản là khiến không được.

Tùy quân đáng giận, giáo trận của bọn họ giống như là khắc tinh trời sinh của kỵ binh! Kỵ binh một khi rơi vào đi, kỵ sĩ ngồi ở trên lưng ngựa quả thực liền biến thành bia ngắm của những ngọn giáo.

Tháp Lặc không ngừng quơ Lang Nha bổng, liên tiếp đập chết bốn quân Tùy. Chiến mã của hắn, lại tiến về phía trước một bước.

Ngay khi hắn một gậy quét ra trước mặt quân Tùy hai ngọn giáo theo bên trái đâm tới, phù một tiếng, đem bụng chiến mã của hắn hung hăng đào lên, giáo rút ra hỗn hợp sền sệt của máu chiến mã cùng nội tạng tanh hôi lập tức rớt ra.

Chiến mã phát ra một tiếng gào thét sau đó chậm rãi ngã xuống, thân mình Tháp Lặc không giữ vững cũng ngã xuống theo.

Không đợi hắn đứng lên, một ngọn giáo hung hăng hướng lồng ngực của hắn đâm vào. Hắn mạnh mẽ lăn một vòng tránh khỏi ngọn giá, trên bàn chân lại truyền đến một trận đau nhức.

Tháp Lặc kêu a một tiếng, cúi đầu nhìn lên phát hiện chân trái của mình đã bị một đầu dài giáo đâm thủng giữ chặt trên mặt đất. Hắn muốn vũ động Lang Nha bổng đem cây giáo chết tiệt... nện đứt, cánh tay mới giơ lên đã bị ngọn giáo thứ hai đâm vào, một giây sau, ngọn giáo thứ ba đâm sâu vào bụng của hắn, lại một giây sau, ngọn giáo thứ tư đâm vào ngực của hắn.

Năm sáu người tay cầm cái giáo dài của Đại Tùy vây quanh người đàn ông của thảo nguyên ngã xuống đất, những ngộn giáo giơ lên, sau đó hung hăng đâm xuống.

Sau một lát... Làm sao còn có thể nhìn ra được bộ mặt gã đàn ông kia?

Hỗn hợp mùi nội tạng và mùi phân thối cùng một chỗ, làm người ta buồn nôn.


Cửu Mộng Tiên Vực

Hồi (1-1228)


<